Tình hình biến động của đồng EURO và can thiệp của Liên Minh châu âu
Kể từ ngày 1-1-1999, đồng tiền chung châu Âu (đồng EURO) chính thức ra đời và được đưa vào lưu hành thay thế cho đồng NCU của EU 11. Quá trình ra đời và đưa vào vận hành được chia thành hai giai đoạn như sau: - Giai đoạn một (từ ngày 1-1-1999 ...
Kể từ ngày 1-1-1999, đồng tiền chung châu Âu (đồng EURO) chính thức ra đời và được đưa vào lưu hành thay thế cho đồng NCU của EU 11.
Quá trình ra đời và đưa vào vận hành được chia thành hai giai đoạn như sau:
- Giai đoạn một (từ ngày 1-1-1999 đến ngày 31-12-2001), trong giai đoạn này đồng EURO được sử dụng song song bên cạnh đồng NCU của các quốc gia thành viên trong tất cả các giao dịch. Tuy nhiên, các đồng NCU không được yết giá trực tiếp trong các giao dịch ngoại hối, tỷ giá của đồng NCU được tính chéo qua tỷ giá của đồng EURO trên cơ sở yết giá trực tiếp giữa EURO và ngoại tệ cùng với tỉ giá EURO/NCU.
- Giai đoạn hai (từ ngày 1-1-2002 trở đi). Đồng EURO là đồng tiền chung duy nhất được sử dụng trong mọi giao dịch trên toàn khối EMU (thực chất từ ngày 1-1-2000 vẫn có thể dùng các đồng NCU song rất hạn chế song rất hạn chế, đây là thời gian chuyển từ đồng NCU sang EURO).
- Hiện nay EU - 11 đang trong giai đoạn một của quá trình đưa đồng EURO vào vận hành. Trong giai đoạn này, diễn biến của đồng EURO vô cùng phức tạp. Diễn biến trên thị trường không theo dự kiến. Sau đây là một số diễn biến cơ bản của đồng EURO từ khi ra đời đến nay:
Trước khi ra đời từ ngày 01 - 01 - 1999, đồng tiền này được người ta tiên lượng đây là một đồng tiền siêu hạng mới và có thể hạ bệ được đồng USD. Các chuyên gia dự đoán đồng tiền này sẽ lên giá so với đồng USD. Vì vậy một số nhà đầu tư đã đổ xô vào đồng tiền này, cùng với đó là các ngân hàng thương mại và ngân hàng Châu á cũng chuyển một phần dự trữ của mình từ USD sang EURO, một số ngân hàng đã tiến hành các giao dịch thăm dò đồng EURO, chẳng hạn Ngân hàng Trung ương Trung Quốc đã thực hiện một giao dịch chuyển đổi trị giá 20 triệu USD.
Chính tiên lượng đó mà xu hướng sùng bái đồng EURO trước khi ra đời là nguyên nhân làm cho đồng tiên này lên giá trong ngày giao dịch đầu tiên. Với việc lên giá 20 điểm so với đồng USD và đạt mức cao nhất là 1,1906 USD vào ngày 4 - 1 - 1999, tỷ giá giữa đồng EURO và đồng JPY cũng tăng lên tới 134,9 JPY/1EURO.
Tại châu Âu, từ các ngân hàng lớn đến các ngân hàng bình dân đều quan tâm đến vấn đề này và cho rằng sự ra đời của đồng tiền chung sẽ tạo cho họ một tương lai tốt đẹp hơn. Theo tờ báo của nhóm nghiên cứu kinh tế Economist Intelligene Unit: ở Luân Đôn có 70% các liên hiệp công ty châu Âu đã đánh giá lại quan hệ của mình với các ngân hàng và có tính đến vai trò của người cung cấp dịch vụ chuyển đổi sang đồng EURO. Song không lâu tình hình diễn biến theo chiều ngược lại và một tốc độ không kém kéo dài trong 2 năm liền. Sau 2 năm giá trị của đồng tiền này đã giảm đi 30% so với giá ban đầu.
Sau đây là diễn biến của quá trình giảm giá đó.
Giá trị đồng EURO giảm liên tục từ 1,1675 USD giá ngày 1 - 1 - 1999 thì chỉ sau một tháng đến ngày 1 - 2 - 1999 tỷ giá này là 1,0964 USD/1 EURO tức là đã giảm hơn 6% giá trị trong một tháng. Tiếp theo trong tháng 3 năm 1999 đồng EURO tiếp tục giảm giá so với đồng USD, tuy nhiên với tốc độ chậm hơn.
Ngày 1 - 3 - 1999, tỷ giá chính thức được công bố trên thị trường là 1,0706 USD/1 EURO. Sau đó đồng tiền này lên xuống bấp bênh và vào ngày 2- 6 - 1999 đồng tiền này xuống mức thấp nhất trong 6 tháng đầu kể từ khi ra đời tỷ giá EURO/USD là 1,0330, giảm 15% so với giá trị ban đầu. Tuy nhiên, sang tháng thứ 7 có lên giá chút ít so với USD song vẫn ở mức thấp.
Ngày 1 - 7 - 1999, 1 EURO bằng 1,0724 USD lên 3,8% so với tháng 6.
Sáu tháng cuối năm 1999 đồng EURO tiếp tục giảm xuống so với đồng đôla Mỹ. Đến ngày 1 - 12 - 1999, 1 EURO đổi được 1,001 USD, tức đã giảm 14,2% so với giá trị ban đầu và đến ngày 31 - 12 - 1999 là 0,987 USD tức là đã giảm 15,5% sau một năm ra đời.
Sang năm 2000 tình hình đồng EURO cũng không ngừng biến động. Trong 3 tháng đầu năm đồng EURO có xu hướng lên nhẹ. Tăng 1 EURO bằng 0,9731 USD ngày 1 - 1 - 2000 lên 0,9990 USD vào ngày 2 - 3 - 2000. Tiếp đó đồng EURO liên tục giảm nhẹ. Trong 9 tháng đầu năm đồng EURO giảm 12% so với giá trị đầu năm, tức là đã giảm 27% so với giá trị ban đầu. Và diễn biến càng tồi tệ hơn trong tháng 10 của năm 2000 đồng EURO rớt giá với mức kỷ lục chưa từng có từ khi ra đời đến nay: đạt mức 0,8228 USD. Sau đó đồng EURO có xu hướng tăng nhẹ và tỏ ra ổn định hơn trong mấy tháng cuối năm 2000 và 3 tháng đầu năm 2001. Hai tháng gần đây đồng EURO lại có xu hướng giảm giá. (Xem bảng và đồ thị dưới đây).
Trên đây là diễn biến cơ bản của đồng EURO từ khi ra đời tới nay trên thị trường ngoại hối. Nhìn chung không mấy sáng sủa, thường xuyên mất giá và đã có những lúc mất giá một cách đột ngột làm các nhà kinh tế EU phải lúng túng. Tuy nhiên mấy tháng gần đây đồng EURO đang đi vào ổn định và dần dần lấy lại giá trị một cách khiêm tốn và đã tạo ra hy vọng cho nhiều người tin tưởng vào khả năng lắy lại giá trị của nó. Thậm trí nhiều người cho rằng đồng EURO sẽ lấy lại được giá trị ban đầu và đổi được 1,3 USD hoặc 183 JPY vào năm 2003 .
Ngay trong những ngày đầu tháng 1 năm 1999, các trái phiếu châu Âu bằng đồng EURO đã được phát hành với lợi nhuận ước tính cho các kỳ hạn dao động quanh mức 3,02%, giá trái phiếu trong khoảng 100,01-100,04. Đây là mức khá hấp dẫn cho các nhà đầu tư nếu so với mức lãi tiền gửi là 3%. Không chỉ được phát hành trên thị trường châu Âu, một số thị trường như Trung Quốc, Hồng Kông cũng phát hành một lượng khá lớn các trái phiếu và các khoản nợ của mình bằng đồng EURO. Đây là một dấu hiệu tích cực cho các nhà hoạch định chính sách của ECB.
Thị trường trái phiếu châu Âu là một thị trường trái phiếu năng động và hấp dẫn đối với các nhà đầu tư trên khắp thế giới, là thị trường lớn thứ 2 thế giới với 7000 tỷ USD đứng sau mỹ đạt 8000 tỷ USD. Những diễn biến trên thị trường này sẽ có những ảnh hưởng nhất định tới niềm tin của những nhà đầu tư cũng như triển vọng của một thị trường tương lai tươi sáng của đồng tiền chung (đồng EURO). Việc 85% trái phiếu phát hành bằng các đồng châu Âu (11 đồng tiền trong khối EMU) được chuyển ngay sang đồng EURO trong tuần đầu tiên của năm 1999 đã phần nào thể hiện quyết tâm cao của các nước thành viên trong việc xây dựng một đồng EURO vững mạnh .
Trong tháng đầu tiên, giá trái phiếu châu Âu liên tục biến động theo chiều hướng gia tăng. Chỉ trong vòng 14 ngày giá trái phiếu chính phủ Đức phát hành bằng đồng EURO thời hạn 2 năm đã tăng 50 điểm và trái phiếu thời hạn 5 năm đã tăng 60 điểm. Kể từ ngày 1-1-1999 tới nay Đức và Pháp đã phát hành 11 đợt trái phiếu bằng đồng EURO thời hạn chủ yếu là 5 năm với lợi nhuận bình quân (coupon) là 3,5%.
Tuy nhiên, do có những dấu hiệu xấu về phát triển kinh tế của các nước châu Âu và những mâu thẫn mới nảy sinh giữa các nước trong khối EMU đã khiến thị trường trái phiếu châu Âu có chiều hướng chững lại. Giá trái phiếu có xu hướng giảm và khoảng cách về lợi tức giữa các thời hạn khác nhau và giữa các quốc gia khác nhau trong EMU đã gây ra tâm lý lo ngại cho thị trường và các nhà đầu tư. Ngoài ra do có sự khác nhau về thuế và các chính sách truyền thống, thói quen của từng vùng nên các rào cản giữa các thị trường trái phiếu châu Âu khó được tháo bỏ hoàn toàn, hay đồng nhất và vì thế sẽ khó mà có được khả năng lưu thông vốn lớn như ở Mỹ ngay được .Với thống kê dưới đây về khoản chênh lệch mức lợi tức của các trái phiếu thời hạn 2 năm và 15 năm, chúng ta sẽ phần nào thấy được những bất ổn giữ các nước trong khối EMU.
Trong những năm gần đây xu hướng chung là giảm lãi suất với các đồng tiền, từ đồng đôla Mỹ, MD hay JPY, đặc biệt là các nước châu á sau cuộc khủng hoẳng tài chính tiền tệ năm 1997, thậm chí Nhật Bản duy trì lãi suất bằng không trong một thời gian dài. Trong năm 1999, 2000 lãi suất thị trường có xu hướng tăng nhẹ do sự phục hồi kinh tế của một số khu vực, nhu cầu đầu tư tăng làm lãi suất tăng lên .
Ngày 01-01-1999, đồng EURO được đưa vào sử dụng với lãi sất EURIBO (lãi suất của ECB), lãi suất kỳ hạn 1, 2, 3 tháng dao động quanh mức 3%. Trong tuần đầu, hơn 80% lượng giao dịch bằng đồng EURO trên thị trường tiền gửi được thực hiện theo lãi suất của EURIBO: 20% còn lại thực hiện thông qua lãi suất EUROLIBOR.
Nhìn chung trên thị trường tiền gửi đồng EURO trong thời gian đầu không có nhiều biến động lớn, các giao dịch diên ra một cách suôn sẻ tạo tâm lý tin tưởng cho các nhà đầu tư. Tuy nhiên tiền gửi tập trung chủ yếu vào loại 3 tháng điều này chứng tỏ sự thăm dò thị trường về đồng tiền này.
Tính tới thời điểm này đồng EURO đã có mặt tại Việt Nam được hơn hai năm. Có thể nói sự có mặt của đồng EURO trong thời gian qua chưa gây được tác động lớn trên thị trường tiền tệ, giới doanh nghiệp Việt Nam vẫn còn lưỡng lự trong việc sử dụng đồng EURO trong các giao dịch thanh toán bởi bản thân họ chưa có nhiều thông tin về loại tiền mới này.
Cũng giống như ở mọi nơi trên thế giới đồng EURO tuy mới ra đời nhưng đã trải qua những biến động lớn về tỷ giá. Từ khi Ngân hàng trung ương châu Âu công bố 1 EURO tương đương với 1.1650 USD vào lúc 7 giờ ngày 31 tháng 12 năm 1998, tại các Ngân hàng thương mại Việt Nam tỷ giá niêm yết là1 EURO tương đương với 16.425 VND đến ngày 1-3-1999 khi 1EURO chỉ còn 1,09 USD thì ở VN 1 EURO chỉ còn 15.325VND.
Theo một nguồn tin từ Ngân hàng nhà nước Việt Nam, tính tới tháng 3 năm 1999, giá trị thanh toán cho các hàng nhập khẩu tính bằng EURO qua ngân hàng Vietcombank TP. Hồ Chí Minh là 5 triệu, tổng giá trị thanh toán và lưu thông vốn là 30 triệu, đây là những con số khiêm tốn so với các giao dịch bằng ngoại tệ khác, chẳng hạn như USD. Một trong những lý do đó là do tỷ giá giữa EURO và các đồng tiền khác như USD, JPY còn chưa ổn định, mặt khác cho tới nay tất cả các giao dịch ngoại tệ vẫn qua đô la Mỹ là chủ yếu, chỉ một lượng rất nhỏ là bằng các ngoại tệ khác như DM, GBP, JPY… sở dĩ giao dịch bằng đồng EURO vẫn còn khiêm tốn trong thời gian qua còn bởi các hợp đồng xuất nhập khẩu trong thời gian này hầu hết đã được ký kết thước khi đồng EURO ra đời. Do vậy, các nhà chuyên môn tin tưởng rằng việc thanh toán bằng đồng EURO chắc chắn sẽ tăng lên khi các đơn vị xuất nhập khẩu Việt Nam bắt đầu ký kết các hợp đồng mới.
Đối với các nhà doanh nghiệp Việt Nam, việc sẵn sàng chấp nhận sử dụng đồng EURO trong thanh toán sẽ mang lại nhiều cơ hội kinh doanh tốt. Các doanh nghiệp sẽ dễ dàng hơn trong việc hoạch định kế hoạch kinh doanh khi không còn rủi ro liên quan đến tỷ giá hối đoái với các quốc gia EU. Đối với các nhà nhập khẩu Việt Nam, việc lựa chọn đồng EURO làm phương tiện thanh toán trực tiếp sẽ giảm được chi phí kinh doanh cũng như đơn giản hoá quá trình đàm phán, rủi ro về tỷ giá hối đoái cũng được giảm nhiều. Việc sử dụng đồng EURO sẽ tạo điều kiện dễ dàng cho các doanh nghiệp Việt Nam trong việc so sánh giá cả hàng hoá mà họ muốn nhập từ 11 nước EU. Cùng với việc giảm giá của đồng EURO so với đôla Mỹ, các đơn vị nhập khẩu Việt Nam chắc chắn sẽ kiếm được nhiều lợi nhuận hơn nếu họ sử dụng EURO.
So với USA và JPY, hiện nay lãi suất cho vay bằng EURO là tương đối thấp (lãi suất hàng năm của EURO thấp hơn 2% so với USA), một số ngân hàng của châu Âu có chi nhánh văn phòng đại diện tại Việt Nam đang có các chương trình marketing cho các dịch vụ sử dụng đồng EURO (như ABN AMRO - Hà Lan). Đây là một cơ hội tốt cho giới doanh nghiệp Việt Nam.
Đối với việc dự trữ EURO, hiện nay Ngân hàng nhà nước Việt Nam vẫn đang tiếp tục nghiên cứu để đưa ra một cơ cấu dự trữ có lợi nhất. Cũng như một số NHTW ở một số nước Châu á khác, thái độ của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam còn khá dè dặt trong việc sử dụng EURO trong dự trữ kinh doanh trên thị trường ngoại hối. Trong giai đoạn từ nay đến hết năm 2001 (giai đoạn áp dụng nguyên tắc "không - không") có thể việc dự trữ EURO chưa thật cần thiết, nhưng dự trữ EURO cũng tương tự như dự trữ các đồng tiền EU - 11 khác vì tỷ giá chuyển đổi là cố định.
Tuy nhiên, trước sự giảm giá liên tục của đồng EURO đã khiến ECB không thể đứng ngoài cuộc được nữa, mà đã và đang nỗ lực vực dậy đồng EURO bằng nhiều biện pháp.
Các biện pháp đã được ECB thực hiện.
Trước tình hình giảm giá của đồng EURO, ECB không tỏ ra quá lo lắng, họ rất lạc quan về đồng EURO. Họ cho rằng sự mất giá của nó trong thời gian qua chủ yếu là do nguyên nhân khách quan.
Vì vậy, họ có những quan điểm rất rõ ràng về việc can thiệp vào giá trị đồng EURO, như Thống đốc ECB đã tuyên bố, họ chỉ can thiệp trực tiếp vào giá trị của đồng EURO khi nó dao động ngoài mức tự điều chỉnh hay 1 EURO nhỏ hơn 0,85 USD. Chính quan điểm đó khiến họ đã không vội vàng can thiệp ngay sau khi đồng EURO giảm giá.
Lần đầu tiên ECB tăng lãi suất vào tháng 9 năm 1999 khi tỷ giá EURO/USD lần đầu tiên giảm xuống dưới 1 đơn vị. Từ đó cho đến ECB tăng lãi suất 7 lần với tổng mức lãi suất tăng là 0,75% đưa lãi suất trần 4,5%, mở rộng mức trần sàn từ 2,5% - 3,5% lên 2% - 4,5%.
Tuy nhiên, các lần tăng lãi suất đều không gây xáo trộn lớn, mục đích của các lần tăng lãi suất của năm 2000 và những tháng đầu của năm 2001 một mặt nhằm vực dậy đồng EURO, mặt khác tránh sự phát triển quá mức do kinh tế EU năm 1999, 2000 có nhiều khởi sắc, tốc độ cao hơn dự tính.
Ngoài ra, do giá dầu toàn thế giới lên cao EU nâng lãi suất đồng EURO vì sợ lạm phát tăng từ việc giá dầu tăng dẫn tới giá nhập khẩu tăng làm giá cả chung tăng tạo áp lực lạm phát. Bên cạnh sự mất giá của đồng tiền nhiều người chờ sự can thiệp của ECB bằng việc tăng lãi suất, hoặc hạ lãi suất để tăng việc làm. Cho đến nay ECB cho rằng mức lãi suất của mình là khá hợp lý, sự mất giá của đồng tiền là tạm thời do các yếu tố bên ngoài không phải do yếu tố thuộc về cấu trúc. ECB đã tuyên bố không can thiệp vào giá trị của đồng tiền khi nó có thể tự điều chỉnh được (chỉ can thiệp khi giảm xuống thấp hơn 0,85 USD), còn về tỷ lệ thất nghiệp ECB cho rằng do nền kinh tế chưa năng động .
Như vậy, ECB hoàn toàn có cơ sở trong việc tăng lãi suất thời gian qua là do điều kiện kinh tế Eu - 11 trong thời gian qua có sự khởi sắc. Tuy nhiên, sau khi tăng lãi suất tỷ giá giữa EURO/USD vẫn thường xuyên giảm và duy trì ở mức thấp. Bên cạnh đó, ECB đã phải chịu những chi phí tín dụng gia tăng, góp phần làm chững lại xu thế phục hồi kinh tế của một số thành viên, điển hình là Pháp và Đức. ở Đức, tăng trưởng sản xuất công nghiệp năm 2000 dậm chân tại chỗ, và việc tăng trưởng giảm nhẹ của Pháp đúng như dự kiến của Viện InSee trong năm 2000.
Nhìn một cách toàn diện biện pháp tăng lãi suất của ECB không phải là thất bại, tuy không nâng được tỷ giá của đồng EURO, song với mức lãi suất trần 4,5% của ECB vẫn nhỏ xa so với lãi suất của đồng USD trong thời gian đó là 6,5%. ECB tăng lãi suất đúng mức nền kinh tế Mỹ đang phát triển mạnh, Mỹ phải tăng lãi suất để kìm chế sự tăng trưởng quá mức. Mà tỷ giá EURO/USD là đối tượng chịu tác động tổng hợp của lãi suất của cả hai đồng tiền, hay sự ảnh hưởng từ tăng lãi suất của ECB bị hạn chế bởi sự tăng lãi suất và duy trì lãi suất cao cùng thời gian đó của FED.
Như vậy, sau khi tăng lãi suất, tỷ giá giữa đồng EURO và USD vẫn ở mức thấp. Nhưng nếu ECB không tăng lãi suất trong điều kiện kinh tế Mỹ đang tăng mạnh và lãi suất của đồng USD duy trì ở mức cao hơn đồng EURO, chắc hẳn tỷ giá này sẽ còn giảm nhiều hơn nữa.
Trên thị trường tiền tệ, sau một thời gian dài giảm giá, đến ngày 26/10/2000 EURO giảm xuống 0,8228 USD buộc ECB phải đơn phương can thiệp bằng cách mua nhiều tỷ đồng EURO và bán USD.
Kết quả của việc can thiệp này, tỷ giá của EURO/USD tăng ngay sau đó, đạt 0,8487 vào đầu tháng 11 và tăng liên tục trong 4 tháng sau đó.
Biện pháp được các nước thành viên áp dụng.
Trước tình hình biến động của đồng EURO ngoài các biện pháp dược ECB sử dụng, các nước thành viên cũng có các biện pháp của mình. Mỗi nước có những điều kiện riêng và mục đích riêng, có quan điểm khác nhau song chung nhất giữa họ là ổn định giá trị đồng tiền chung. Mặc dù áp dụng các biện pháp ổn định đồng tiền chung của các nước thành viên là khác nhau, song hầu hết các nước đều tham gia việc cải cách cơ cấu, cải cách cơ cấu không chỉ riêng quốc gia mình mà còn tích cực đẩy mạnh cải cách cơ cấu của toàn khối thông qua việc hỗ trợ các nước thành viên khác cải cách cơ cấu, đặc biệt là các nước kém phát triển trong khu vực để duy trì các tiêu chuẩn hội nhập, rút ngắn khoảng cách chênh lệch giữa các nước thành viên, tạo sự đồng nhất trong toàn khối, đảm bảo tiền đề cho việc duy trì và ổn định đồng tiền chung.
Các nước đã rà soát lại các chính sách thuế khoá, chế độ tiền lương, bảo hiểm, trợ cấp,... để giảm bớt sự khác biệt giữa các chính sách ở các quốc gia trong khối nhằm ổn định đồng tiền chung.
Đức và Pháp là hai quốc gia đóng vai trò chủ yếu tham gia xây dựng và thực hiện dự án đồng tiền chung, họ có mức độ lớn ảnh hưởng đến EU và có tỷ trọng đồng bản tệ trong đồng EURO cao. Họ đã có những biện pháp tích cực phản ứng một cách mạnh vào việc ổn định đồng EURO và đưa vào sử dụng qua việc phát hành nhiều đợt trái phiếu bằng đồng EURO với quy mô lớn. Ví dụ như Đức và Pháp đã mười một lần phát hành trái phiếu quốc gia bằng đồng EURO trong năm 1999.
Chính phủ Đức đã hỗ trợ cho việc sử dụng đồng EURO, các quan chức Đức kêu gọi sử dụng đồng tiền này.
Ngoài ra, đứng trước nguy cơ đồng EURO liên tục giảm giá, ảnh hưởng không chỉ đến nền kinh tế EU mà còn tác động mạnh đến đồng kinh tế thế giới. Ngày 22- 9 - 2000 trước nguy cơ đồng EURO giảm giá đến 30%, các nước nhóm G7 đã phối hợp với ECB thực hiện can thiệp vào thị trường ngoại hối để bảo vệ các đồng tiền của nhau nhằm cùng chia sẻ trách nhiệm, lợi ích trong một hệ thống tiền tệ quốc tế ổn định và vững mạnh. Các nước Mỹ và Nhật đã phối hợp bán ra đồng USD nhằm làm cho đồng USD hạ giá so với đồng EURO, nhằm ngăn chặn sự giảm giá của đồng EURO.
Như vậy, cùng với sự cố gắng quyết tâm vựa dậy đồng EURO của tất cả các quốc gia trong và ngoài khu vực bằng mọi biện pháp có thể khẳng định chiều xấu của đồng EURO chỉ có tính chất tạm thời, cục bộ, trong tương lai không xa nó sẽ là đồng tiền quốc mạnh có thể cạnh tranh được với đồng USD.