18/06/2018, 11:20

Tiến hóa như một sơ đồ lý giải

1. " Newton về lá cỏ " " Chúng ta có thể cho phép những vệ tinh, hành tinh, vũ trụ, thậm chí cả toàn bộ hệ thống những vũ trụ vận hành theo những định luật tự nhiên, nhưng ta lại muốn con côn trùng bé bỏng nhất cũng được sáng tạo tức thời bằng một hành vi ...

1. "Newton về lá cỏ"

"Chúng ta có thể cho phép những vệ tinh, hành tinh, vũ trụ, thậm chí cả toàn bộ hệ thống những vũ trụ vận hành theo những định luật tự nhiên, nhưng ta lại muốn con côn trùng bé bỏng nhất cũng được sáng tạo tức thời bằng một hành vi đặc biệt". Ghi nhận trên đây của Charles Darwin (12.2.1809-19.04.1882) là sự băn khoăn ban đầu, là dự phóng nghiên cứu nền tảng của ông khi bước chân vào con đường khoa học. Thật thế, vào cuối thế kỷ 18, đầu thế kỷ 19 ở phương Tây, sau thắng lợi rực rỡ của mô hình cơ giới luận của Newton về thế giới vật lý, hầu như chỉ còn một lĩnh vực chưa được lý giải: lĩnh vực sinh học, hay nói theo ngôn ngữ lúc bấy giờ, lĩnh vực của những "sinh thể hữu cơ có tổ chức" (trong đó có cả con người !).

Khi bàn về lĩnh vực này trong phần 2 của quyển Phê phán năng lực phán đoán (1790), I. Kant viết : “… điều hoàn toàn chắc chắn là ta không thể nhận thức hoàn chỉnh chứ đừng nói đến giải thích được những thực thể có tổ chức lẫn khả thể nội tại của chúng đơn thuần dựa theo các nguyên tắc cơ giới của Tự nhiên; và cũng chắc chắn để dám mạnh dạn nói rằng thật là phi lý cho con người chúng ta khi ta ra sức hay hy vọng sẽ có một Newton khác xuất hiện trong tương lai có thể làm cho ta hiểu rõ về sự sản sinh dù chỉ là của một lá cỏ dựa theo các định luật tự nhiên mà không do một ý đồ nào đã sắp đặt cả ; trái lại, ta buộc phải dứt khoát phủ nhận năng lực thấu hiểu này nơi con người". Kant còn viết rất dài, nhưng tựu trung có hai ý chính, nói lên một thế lưỡng nan :

  • một mặt, không thể lý giải thế giới sinh vật một cách đơn thuần cơ giới nếu không muốn đánh mất tính phức tạp và nhất là tính kỳ diệu của nó ;

  • mặt khác, mô hình lý giải truyền thống theo mục đích luận khách quan kiểu Aristoteles hay thần học Trung cổ cũng đã trở nên bất khả thi : ta không thể chứng minh sự có mặt của một ý đồ khách quan nơi bản thân sự vật hoặc của một Đấng tạo hóa bằng con đường thường nghiệm – và vì thế, không thể có một "Newton về lá cỏ"  – . Giải pháp của Kant là: ta cứ nghiên cứu tối đa về thế giới sinh vật theo con đường thường nghiệm, đồng thời cần giả định về một tính mục đích khách quan nào đó, nhưng chỉ dựa trên nguyên tắc phê phán chủ quan của năng lực phán đoán phản tư của ta mà thôi. Kant phân biệt giữa năng lực phán đoán xác định và năng lực phán đoán phản tư. Với cái trước, ta đã có sẵn một cái phổ biến (chẳng hạn, một định luật), rồi đi tìm và thâu gồm những dữ kiện cá biệt vào dưới cái phổ biến ấy để cấu tạo nên nhận thức. Đó là con đường thông thường của khoa học tự nhiên. Với cái sau, ta có sẵn những dữ kiện cá biệt nhưng lại phải đi tìm cho chúng một cái phổ biến, để hiểu chúng. Nghĩa là bằng cách giả định nơi chúng một tính mục đích, nhưng chỉ có giá trị chủ quan cho ta thôi. Tính mục đích ấy không có giá trị cấu tạo nên nhận thức mà chỉ định hướng, cổ vũ và thúc đẩy nỗ lực nghiên cứu.

Chỉ hai thế hệ sau Kant, một "Newton về lá cỏ" –  tưởng rằng không thể có được  –  đã xuất hiện : Darwin với thuyết tiến hoá, được phát biểu cô đọng ngay trong nhan đề tác phẩm chính của ông : On the origin of species by means of natural selection ; or, The preservation of favoured races in the struggle for life (1859) / Về nguồn gốc các loài qua con đường chọn lọc tự nhiên, hay sự bảo tồn những chủng ưu thế trong đấu tranh sinh tồn mà chúng ta đang có trong tay qua bản dịch công phu của Trần Bá Tín. Chưa đi sâu vào nội dung tác phẩm và lịch sử vấn đề, ta thấy tư tưởng cốt lõi ở đây là : tiến trình ra đời các giống loài mới được thúc đẩy bằng sự biến dị (và rồi sự đột biến trong sự phát triển lý thuyết về sau. Ở đây, tạm gọi chung là sự đột biến), đi kèm với một sự chọn lọc "tự nhiên". Tác động hỗn hợp giữa những sự đột biến và sự chọn lọc tự nhiên cho phép chuyển khái niệm mục đích luận (Teleologie) cổ truyền thành một tính mục đích (nhưng không có tác nhân đặt ra mục đích) trong hình thức của sự thích nghi. Như thế, một số nhân tố của khái niệm mục đích luận cổ truyền vẫn được tiếp thu, bởi kết quả của sự chọn lọc tuy không hướng đến một mục đích, nhưng vẫn tỏ ra có tính mục đích. Cũng thế, nhân tố của sự tiến bộ vẫn được bảo lưu, vì sự đột biến tuy có tính ngẫu nhiên và khó nhận ra trong từng bước cá biệt, nhưng trong mỗi tiến trình tiến hoá, xét tổng thể và một cách hồi cố (retrospectiv), cho thấy xu hướng tiến đến một sự phức tạp cao hơn. Tuy nhiên, mô hình lý giải này về sự ra đời và tiến hoá của các giống loài là khác về chất với sơ đồ nhân quả (thường được gọi là sơ đồ Hempel-Oppenheim, viết tắt HO lẫn với mô hình mục đích luận cổ truyền. Nó mang hình thái của mô hình lý giải chức năng, thể hiện ngay trong nhan đề tóm tắt của tác phẩm : Sự chọn lọc tự nhiên. Với tiền giả định về sự xuất hiện của những đột biến không lường trước được, sự chọn lọc ấy nhắm đến việc hoàn thành tốt hơn hoặc kém hơn chức năng đảm bảo sự sống còn và duy trì nòi giống, một chức năng mà sinh thể hữu cơ được đột biến luôn phải đáp ứng. Với tiền- giảđịnh ấy, sơ đồ nhân quả (sơ đồ HO) không thể áp dụng cho sự đột biến lẫn tiến trình chọn lọc, bởi thời điểm xuất hiện và nội dung của sự đột biến là không thể dự đoán, cũng như các chức năng nói trên không thể được nêu một cách đầy đủ và rõ ràng, nhất là đối với các khả năng lựa chọn khác. Như thế, so với yêu cầu rất cao của câu hỏi nhân quả, có thể nói ngay rằng sơ đồ tiến hoá tỏ ra có năng lực giải thích yếu hơn, khiêm tốn hơn, thường mang tính hồi cố hơn là dự báo, nhưng lại rất sinh động và lý thú như sẽ còn bàn đến ở sau.

Từ khi công bố tác phẩm vĩ đại này của Darwin, thuyết tiến hoá đã được thừa nhận rộng rãi trong ngành sinh học, mặc dù từ sau Darwin, còn có nhiều cách tiếp cận mới mẻ, đa dạng, nhất là về tác động tổng hợp của sự lựa chọn nội tại và ngoại tại (chẳng hạn các điều kiện môi trường và tố chất trong bản thân sinh thể) hay về mối quan hệ giữa sự tiến hoá vĩ mô và sự tiến hoá vi mô : quan hệ giữa các bước nhỏ với các sự nhảy vọt lớn trong diễn trình tiến hoá.

 

Copernic

Francis Bacon,  Galilei

Laplace, Napoléon

Song, học thuyết tiến hoá không chỉ làm đảo lộn ngành sinh học mà còn làm thay đổi sâu sắc quan niệm của ta về thế giới. Copernic đã đẩy con người và quả đất từ trung tâm vũ trụ ra ngoài vùng biên của một trong vô số thiên hà. Bacon và Galilei đã loại bỏ nguyên nhân mục đích để du nhập một cách lý giải thuần tuý nhân quả, và, từ đó, cơ giới hoá toàn bộ thế giới không-thời gian. Ngay cả nguyên tắc phê phán của lý tính trong hình thức của năng lực phán đoán phản tư vừa nói trên của Kant cũng chỉ còn giá trị "an ủi" và là sự thú nhận công khai về tính hữu hạn của con người. Nói một cách triệt để, thế giới đã hoàn toàn bị tước bỏ hết mọi ý nghĩa tự thân. Từ khi Laplace trả lời câu hỏi của Napoléon tại sao không thấy có mặt Thượng đế trong mô hình vũ trụ học của mình rằng : Sire, je n’ai pas besoin de cette hypothèse-là ! (Thưa Ngài, tôi không cần đến giả thuyết ấy !), thuyết tiến hoá được hiểu như là sự từ khước và bác bỏ mọi khả thể mang lại một ý nghĩa "siêu việt" nào đó cho thế giới.

Như thế, các công trình của Darwin không đơn thuần là những công trình khoa học. Dù muốn hay không, chúng đã trở thành cơ sở cho các thế giới quan khác nhau. Điều ấy không có gì lạ : khi một lý thuyết khoa học không chỉ mô tả những tiến trình lý hoá mà còn có tham vọng giải thích mọi sự sống – từ một lá cỏ cho đến con người – , nó tất yếu đã đứng một chân trong triết học và đạo đức học, hay ít ra, ẩn chứa tiềm năng cho một thế giới quan.

Thật thế, hiếm có công trình nào có sức lan toả như của Darwin. Nó thâm nhập vào triết học, lý thuyết lịch sử, xã hội học, lịch sử nghệ thuật, dân tộc học, và tất nhiên, giữ vị trí trung tâm trong sinh học với nhiều hướng phát triển mới mẻ về sau như di truyền học, sinh học phân tử hoặc sinh học - xã hội. Nó gây phân hoá ở bất cứ nơi đâu nó hiện diện : với người này, nó là đại diện chân chính cho tinh thần khoa học khai minh : lý giải mọi tiến trình trong tự nhiên bằng phương pháp khoa học, loại trừ mọi yếu tố siêu nhiên ; với người khác, nó đồng nghĩa với chủ trương ưu thắng liệt bại, mạnh được yếu thua, biện minh cho lập trường tân-tựdo, thậm chí cho chiến tranh, cho chủ nghĩa phát xít, dưới danh hiệu không mấy đẹp đẽ : "thuyết Darwin xã hội”.

Về mức độ sôi nổi, gay gắt trong tranh luận, lẫn các hệ quả chính trị lẫn xã hội của nó, Nguồn gốc các loài của Darwin có thể so sánh với Tư Bản của Karl Marx và sự Thịnh vượng của các dân tộc của Adam Smith. Một nhà xuất bản ở Anh gần đây cho ra mắt bộ sách "Books that Shook the World" / Những quyển sách làm rung chuyển thế giới, tác phẩm này thậm chí được xếp ngang hàng với Kinh Thánh và Kinh Koran !

Charles Darwin, Alfred Russel Wallace

Bên cạnh ý nghĩa "thế giới quan" của thuyết tiến hoá, một đặc điểm khác là việc gắn liền lý thuyết ấy với tên tuổi của bản thân Darwin. Trong thế kỷ 19, các môn đệ đều thường gắn tên ông với các công trình của chính mình, tiêu biểu nhất là Asa Gray (1876) và Alfred Russel Wallace (1889). Đến tận ngày nay, lý thuyết khoa học 150 tuổi ấy vẫn còn được trích dẫn trong các tạp chí chuyên ngành, là một điều hiếm có và lạ thường. Tuy nhiên, việc viện dẫn đến Darwin không có nghĩa là người ta hiểu giống nhau về "thông điệp" của Darwin. Họ thường đề xướng các lập trường mâu thuẫn nhau, vì ngay trong tác phẩm của Darwin cũng không thiếu những chỗ hàm hồ và đa nghĩa. Đối với các tác phẩm của mình, ông nhiều lần bổ sung các kiến thức mới, thêm bớt, sửa chữa do tiếp thu các sự phê bình trong mỗi lần tái bản. Quyển Nguồn gốc các loài có tới sáu ấn bản kể từ lần xuất bản thứ nhất (1859). Quyển Nguồn gốc con người (1871) có đến ba phiên bản chính thức. Một ví dụ nổi bật : trang cuối Ấn bản I của Nguồn gốc các loài, Darwin cho rằng mầm mống của sự sống bắt nguồn từ một số ít, mà cũng có thể từ một hình thức nguyên thuỷ duy nhất, tức để mở câu hỏi từ đâu vật chất vô cơ có được sự sống, thì ở ấn bản thứ hai, ông lại đặt nó vào trong tay một "Thượng đế sáng tạo". Hai cách viết khác nhau một trời một vực ! Vì thế, hiếm khi các lý giải về Darwin lại hoàn toàn nhất trí với nhau. Cái gọi là "Darwin Industry" sản xuất hàng năm vô số sách vở, trình bày và lý giải thuyết tiến hoá đa dạng và phức tạp như một chiếc kính vạn hoa. Khuôn khổ một Lời giới thiệu chỉ cho phép chúng tôi – từ cái nhìn của một người "ngoại đạo", không thuộc chuyên ngành sinh học – đề cập hết sức khái quát về mấy điểm :

  • Darwin và lịch sử thuyết tiến hoá

  • Một số nghi vấn chung quanh Darwin : hiểu như thế nào về thuật ngữ "chọn lọc tự nhiên" và "đấu tranh sinh tồn" ? Darwin là một nhà vô thần ? "Chọn lọc tự nhiên" là một "định luật tự nhiên" ?

  • Các câu hỏi ấy dẫn đến sự quan tâm chủ yếu của người viết : việc mở rộng mô hình tiến hoá trong sinh học sang các lĩnh vực hoàn toàn khác : từ thuyết Darwin xã hội cho đến "nhận thức luận tiến hoá". Như đã nêu trong nhan đề của bài viết, sự tiến hoá đã trở thành một sơ đồ lý giải vượt ra khỏi phạm vi nguyên thuỷ của nó : việc mở rộng ấy diễn ra như thế nào ? Phải chăng sự phê phán sơ đồ nhân quả là lý do dẫn đến sự tán đồng khá rộng rãi đối với sự mở rộng này ? Và sau cùng, liệu có thể hiểu sơ đồ tiến hoá như một sơ đồ lý giải mang tính siêu hình học về lịch sử ?

 

2. Darwin và lịch sử thuyết tiến hoá

Aristoteles, Johann Wolfgang von Goethe và Jean-Baptiste de Lamarck


Con đường dài gập ghềnh, gian khổ trong việc nghiên cứu giới tự nhiên suốt hàng ngàn năm lắng đọng lại một cách tưởng như dễ dàng, đơn giản trong các sách giáo khoa hiện đại, và đã trở thành kho tàng kiến thức phổ thông cho mọi người. Bản thân Darwin cũng đã bỏ công sức lần theo dấu chân những vị tiền bối của thuyết tiến hoá. Trong Ấn bản lần thứ 6 của quyển sách này (1872), thay cho Lời tựa là một "Phác thảo lịch sử về những tiến bộ trong các quan niệm về nguồn gốc các loài". Ông kể tên một loạt người, trong đó có Aristoteles, Johann Wolfgang von Goethe và Jean-Baptiste de Lamarck (mặc dù ông thú nhận : "thật xấu hổ là đã chưa bao giờ đọc Aristoteles !". Ta thử lần theo vài dấu chân tiêu biểu :

2.1. Vũ trụ luận của các triết gia Hy Lạp
 

Anaximander, Thales, Empedokles

  • Trong vũ trụ luận của các triết gia Hy Lạp đã có những cách tiếp cận mà nguyên tắc cơ bản rất giống với thuyết tiến hoá hiện đại : từ ít thành nhiều ; từ cũ thành mới, với mức độ phát triển cao hơn. Anaximander (611-547 tr. CN) đã nhận ra một nguồn gốc chung của mọi hình thức sự sống. Thales hiểu tồn tại và biến dịch ở trong một vòng tuần hoàn vĩnh cửu. Ngay ý tưởng về một sự "chọn lọc" những hình thức sự sống được hình thành một cách ngẫu nhiên cũng không phải là điều hoàn toàn mới, nó đã có nơi Empedokles. Nhìn chung, họ đều quan niệm sự xuất hiện của sự sống trên hành tinh này là kết quả của một sự phát triển lâu dài từ đơn giản đến phức tạp chứ không phải từ một hành vi sáng tạo duy nhất.

Các tư tưởng này – được xem là tiến bộ theo cách nhìn ngày nay – đã mất ảnh hưởng trong vài thế kỷ sau đó. Parmenides đặt "tồn tại" vào tâm điểm nghiên cứu và qua đó, đã ảnh hưởng sâu đậm đến Platon và Aristoteles. Người ta không còn nhấn mạnh đến sự phát triển mà xem mọi vật đã, đang và sẽ tồn tại đều đã tồn tại một lúc nào đó, ít ra ở dạng tiềm năng. Cái hoàn toàn mới không thể tự phát triển mà không quy về cái gì đã có từ trước. Nổi bật ở đây là quan niệm của Aristoteles. Tác phẩm Historia animalium vào thế kỷ IV tr. CN của ông – một trong những tác phẩm để lại ảnh hưởng lâu bền và sâu đậm nhất – hình dung giới Tự nhiên được chia làm năm lĩnh vực : các thiên thể, con người, thú vật, cây cối, và những gì không có sự sống. Sự phân chia này được hình dung như một cái khung cố định với những ranh giới rõ ràng. Ông phát triển mô hình về một trật tự thứ bậc. Tuy có những sản phẩm tự nhiên khó xếp hẳn vào một thứ bậc, nhưng nhìn chung, giới tự nhiên có hình thức của một chiếc thang, như Charles Bonnet (Œuvres d’histoire naturelle et de philosophie, 1745) đã tán đồng.

Charles Bonnet

Giống như Darwin, Aristoteles và Bonnet không phân chia giới tự nhiên một cách tách bạch theo phạm trù mà mô tả nó bằng những bước quá độ. Nhưng, khác với Darwin, – cho tới cuối thế kỷ 18 –, các bước quá độ này không được hiểu như kết quả của một tiến trình lịch sử. Các sự giống nhau là bộ phận của một trật tự tự nhiên được sắp xếp tinh vi, nhưng không phải là sản phẩm của lịch sử. Theo quan niệm này, động vật hay thực vật không biến đổi từ thế hệ này sang thế hệ khác, trái lại, chúng giữ nguyên vị trí trong chiếc thang cấp bậc, dù các bậc thang có tinh vi, phức tạp đến mấy. Hình ảnh chiếc thang cho thấy : chúng không chuyển sang nhau. Việc đưa mô hình chiếc thang này vào kích thước lịch sử sẽ là công lao của J. B. Lamarck như sẽ thấy ở sau.
 

2.2. Thời Trung cổ : 

Dưới sự thống trị của giáo hội Kitô giáo, mô hình tư duy triết học tự nhiên của các triết gia cổ đại bị đẩy lùi. Việc lý giải Kinh Thánh (nhất là Sáng Thế Ký) theo nghĩa đen đã kìm hãm sự phát triển khoa học cho tới thời Phục Hưng. Leonardo da Vinci (1452-1519) đã có tư tưởng thiên tài về sự ra đời và phát triển của sự sống và về sự đa dạng các giống loài. Ông làm việc với những vật hoá thạch và nhận ra những sự tương đồng giữa con người và giống linh trưởng : một phát hiện thật táo bạo và nguy hiểm vào thời điểm bấy giờ !

2.3. Các tiền bối trực tiếp của Darwin :

Leonardo da Vinci, Karl von Linné, Georg Louis Leclerc Comte de Buffon

Phong trào khai minh với quan niệm mới mẻ về khoa học (cùng phương pháp thuần lý và thường nghiệm nghiêm ngặt) là bà đỡ cho việc hình thành thuyết tiến hoá hiện đại.

  • Bước đi đầu tiên, tuy chưa tự giác, là của Carolus Linnaeus (Karl von Linné), bác sĩ và nhà nghiên cứu tự nhiên người Thụy Điển (1707-1778). Ông phân loại sinh vật theo giống (species) và loài (genus) như thể do Thượng đế tạo ra và chưa có ý tưởng về sự tiến hoá, nhưng chuỗi thứ tự của việc ra đời các giống loài trong sự phân loại của ông là cơ sở cho thuyết tiến hoá sau này.

  • Georg Louis Leclerc Comte de Buffon (1707-1788) – đồng thời với Linné – là người đầu tiên nêu rõ tính khả biến của các giống loài. Khi các giống loài biến đổi, chúng có thể cho ra đời những giống loài hoàn toàn mới. Khởi điểm cho ý tưởng về một giống loài nguyên thủy chung cho tất cả cũng được Buffon phỏng đoán từ những sự trùng hợp rõ rệt về hình thái học và sinh lý học của các giống loài khác nhau.

  • Về phương pháp nghiên cứu, công trạng bất hủ được dành cho Pierre Louis Moreau de Maupertuis (1698-1759) với phép tính xác suất, một công cụ không thể thay thế được cho đến tận ngày nay trong lĩnh vực sinh học.

  • Song, như vừa nói, tên tuổi trứ danh nhất, ngoại trừ Darwin, chính là Jean-Baptiste de Lamarck (1744-1829). "Thuyết Lamarck" – được đặt theo tên ông – là nỗ lực khoa học đầu tiên xác lập sự hình dung về một sự tiến hoá sinh học. Quyển Philosophie zoologique (1809) của nhà nghiên cứu người Pháp này chứng minh một sự thích nghi có mục đích của kiểu di truyền (genotype) với những điều kiện môi trường đặc thù (ví dụ nổi tiếng nhất là sự ra đời chiếc cổ dài của hươu cao cổ : do thói quen phải nỗ lực kiếm ăn ở những cành lá trên cao, những biến đổi tuần tự trong genotype dẫn đến ra đời của chiếc cổ cực dài trong phènotype / kiểu hình bên ngoài ở các thế hệ sau). Học thuyết tiến hoá của Lamarck dựa trên giả định rằng "tiến trình tiến hoá chịu ảnh hưởng lớn bởi sự thích nghi với môi trường chung quanh".

  • Tất nhiên, không thể không kể đến vai trò của Thomas Robert Malthus (1766-1834), nhà sử học và kinh tế chính trị Anh mà Darwin, trong Tự truyện của mình, đã thú nhận rằng mình chịu ảnh hưởng lớn. Ngoài ra cũng phải kể đến ảnh hưởng của Charles Lyell, nhà địa chất học, người đã bác lại các giả định của Lamarck.


Thomas Robert Malthus, Charles Lyell

2.4. Công trình của Darwin 

Tuy không phải là người đầu tiên tin vào một thế giới khả biến chứ không tĩnh tại, Darwin giữ vai trò cực kỳ quan trọng trong sự phát triển của một thuyết tiến hoá phổ quát. Đóng góp lớn của ông cho sinh học hiện đại là việc nêu bật ba yếu tố tiến hoá cơ bản : sự sinh sản vượt mức, sự chọn lọc và sự thích nghi của cá thể. Dù ông chưa biết tới các cơ sở phân tử của việc di truyền, và qua đó, của sự đột biến, nhưng ông đã phát triển một khung lý giải bao quát về sự ra đời của các giống loài.

  • Theo Darwin, một giống loài sinh sản nhiều hậu duệ hơn mức cần thiết để duy trì nòi giống (hyperproduction). Những cá thể riêng lẻ ở thế hệ sau không hoàn toàn giống nhau mà khác nhau ở những đặc điểm nhất định (sự biến dị). Những cá thể nào đã thay đổi Phenotype (kiểu hình bên ngoài) tỏ ra thích nghi với môi trường sinh sống, sẽ có ưu thế về sự "chọn lọc" so với những cá thể còn lại, nghĩa là, có cơ may sống sót lớn hơn trong cuộc đấu tranh sinh tồn (chúng ta sẽ có dịp trở lại với thuật ngữ khá "bất hạnh" này ở sau, xem 3.1) so với những đồng loại không có sự "thích nghi".

  • Tuy nhiên, điểm quyết định là : sự biến đổi có lợi này là có thể di truyền lại cho hậu duệ của cá thể ấy. Như thế, những giống loài cá biệt tuyệt nhiên không phải là những hình thức tĩnh tại, bất biến qua hàng thiên niên kỷ, trái lại, sự kiện này dẫn tới ý tưởng cho rằng sự đa dạng của những giống loài hiện nay có thể quy về một số ít, hay thậm chí về một hình thức nguyên thuỷ duy nhất. Ta lưu ý hai điểm dị biệt đáng kể giữa Darwin và Lamarck : Lamarck không chủ trương một nguồn gốc chung của mọi giống loài ; và mặt khác, Darwin có cái nhìn mềm dẻo hơn trong quan niệm về một sự phát triển hợp quy luật theo hướng tiến lên cao hơn : trong mô hình của ông, nhiều giống loài vẫn không hề biến đổi qua nhiều thế hệ, cũng như có thể tuân theo nhiều con đường phát triển khác nhau. Nơi Lamarck chỉ có một hướng phát triển ; nơi Darwin có nhiều hướng, thậm chí không có hướng nào cả.

  • Vào năm 1871, Darwin đưa "con người" vào trong khuôn khổ tiến hoá luận của mình, khi cho rằng nhiều sự biến đổi nhỏ nơi những loài linh trưởng giống người rút cục sẽ dẫn đến con người Homo sapiens (xem 3.2).

  • Song, vì lẽ Darwin chưa kịp biết tới các cơ chế của sinh học phân tử và các nguyên tắc di truyền (được Gregor Mendel đặt cơ sở), nên đối với việc thích nghi của cá thể với môi trường, ông đành trở lại với học thuyết Lamarck.

2.5. Thuyết Tân-Darwin

 Thuyết "Tân-Darwin", như tên gọi của nó, biểu thị sự phát triển và mở rộng học thuyết của Darwin dựa trên các thành tựu mới mẻ của thế kỷ 20. Trước hết có lẽ là khả năng mô tả chính xác những diễn trình ditruyền-phântử dựa trên thành quả của sự nghiên cứu cơ bản khi ta nói về sự đột biến (mutation) và tái cấu trúc kiểu di truyền (genotype) như là điểm quyết định của sự biến dị. Đặc điểm tiếp theo là sự mở rộng tư tưởng tiến hoá sang các ngành khoa học khác, chẳng hạn vũ trụ học (và cả địa chất học). Theo đó, các cơ chế tiến hoá không chỉ khả hữu trong các hệ thống vi mô mà cũng có tác động trong sự ra đời hệ thống vĩ mô. Đặt chất liệu hữu cơ hay mầm mống đầu tiên – mà ta gọi là sự sống – vào trong một hệ lý thuyết khoa học có lẽ là nỗ lực táo bạo nhất trong thế kỷ vừa qua. Theo đó, những phân tử vĩ mô nào có khả năng tự nhân lên sẽ tỏ ra có năng lực sống sót tốt hơn những phân tử không có khả năng ấy. Sau cùng, chính những phân tử trước lại có ưu thế trong sự chọn lọc, vì cơ chế tự nhân lên luôn được cải thiện bằng những sự đột biến ngẫu nhiên, từ đó hình thành nên cao điểm là hệ thống trao đổi chất khép kín đầu tiên được gọi là đơn bào. Người ta trở về lại với Buffon và khẳng định rằng toàn bộ sự đa dạng của những giống loài trong hệ sinh thái là trái đất này được ra đời từ mầm mống đầu tiên ấy của sự sống hữu cơ, và, đến lượt mình, lại được tác động bởi những nguyên tắc tiến hoá, như đối với những phân tử hữu cơ trước đó.

Như thế, hai nguyên tắc chính yếu của sự tiến hoá sinh học là sự đột biến và sự chọn lọc. Nơi cả hai đều có sự tham gia của yếu tố hay nguyên tắc ngẫu nhiên mà phép tính xác suất là công cụ phương pháp không thể thiếu được. Có thể nói vắn tắt : thuyết Tân-Darwin mang lại một hình ảnh có tính mô tả chính xác về Tự nhiên, tuy nó không thể giải thích từng chi tiết một. Điểm mấu chốt nhất là nó chưa thể giải thích được rút cục tại sao những đột biến ngẫu nhiên lại có thể xảy ra. Nhiều bí nhiệm của Tự nhiên đang phơi mở dần, nhưng chưa phải đã đến lúc các nhà khoa học tự nhiên, và nói riêng, các nhà sinh vật học, có thể ca khúc khải hoàn.
 

3. Vài điều chung quanh Darwin :

3.1. Minh xác về khái niệm "chọn lọc tự nhiên"

 "Chọn lọc tự nhiên" là một trong hai sợi chỉ đỏ xuyên suốt thuyết tiến hoá của Darwin. Có ít nhất ba cách dùng chữ nơi ông: natural selection (chọn lọc tự nhiên) ; survival of the fittest (sống còn của cái thích nghi tốt nhất) và struggle for existence (phấn đấu để sinh tồn). Do nhiều cách dịch và cách hiểu khác nhau, ba chữ này đã gây nên không ít ngộ nhận. Nhiều công trình gần đây nỗ lực minh xác về ba thuật ngữ này : thuật ngữ sớm nhất là natural selection, dường như được ông rút ra từ học thuyết của Malthus (Essay on the Principle of Population, 1798) vào năm 1838. Thuật ngữ struggle for existence cũng được Darwin tìm thấy nơi Malthus và nhà địa chất học Charles Lyell (Principles of Geology). Thuật ngữ survival of the fittest nguyên là của nhà xã hội học và triết học Herbert Spencer (Principles of Biology, 3 tập, 1864). A. R. Wallace khuyên Darwin sử dụng thuật ngữ này của Spencer vào năm 1869 trong Ấn bản lần thứ 5 của quyển Nguồn gốc các loài, đồng nghĩa với natural selection. Darwin sớm cho thấy ông không thực sự thoả mãn với cả ba thuật ngữ trên. Trong khi natural selection chỉ nói lên cơ chế hay sự kiện : không phải mọi hậu duệ của một giống loài đều sống sót thì survival of the fittest dường như biểu thị một tiêu chuẩn cho sự chọn lọc. "Fitness" là một khái niệm mềm dẻo, vì thế dễ dẫn đến cách hiểu đơn thuần về sức mạnh cơ bắp. Xu hướng này càng tăng cường đến mức nguy hiểm khi "survival of the fittest" (dịch đúng là : sự sống sót của cái thích nghi tốt nhất / "thích giả sinh tồn") được dịch sang tiếng Đức thành "Überleben des Stärkeren" ("sự sống sót của kẻ mạnh hơn"), xem giới Tự nhiên như một trường giác đấu "mạnh được yếu thua" trong bối cảnh một nước Đức hiếu chiến, đang ra sức giành giật thuộc địa với Anh, Pháp ! Trong ấn bản lần thứ 6 của Nguồn gốc các loài, Darwin đã chứng minh ngược lại : chính những sinh vật to lớn, mạnh mẽ về thể xác, cơ bắp, móng vuốt lại bị diệt vong do thiếu thức ăn ; những giống có cánh mạnh bị gió cuốn ra biển trong khi những con bọ yếu ớt, bộ cánh không phát triển lại sống sót . Như thế, sự chọn lọc không đồng nghĩa với hình dung thông thường về sức mạnh. Trong khi survival of the fittest dễ bị liên tưởng sai lạc thì natural selection (mượn từ thuật ngữ của ngành chăn nuôi) cũng dễ khiến ta nghĩ đến một hành động có trí tuệ hay một sự lựa chọn tự giác, rất gần với hình ảnh một "bàn tay vô hình" hay một đấng sáng tạo can thiệp vào Tự nhiên. Trong thư gửi cho Charles Lyell vào tháng 9, 1860, ông tỏ ra ân hận đã không dùng một chữ khác : "Nếu có thể làm lại từ đầu, ắt tôi sẽ dùng chữ 'natural preservation'" (sự bảo tồn tự nhiên).

Sau cùng, chữ struggle for life cũng "bất hạnh" khi nó lại được dịch sang tiếng Đức là "Kampf um Dasein" (chiến đấu cho sinh tồn), đi quá xa với nghĩa của chữ struggle (phấn đấu, nỗ lực) trong tiếng Anh. Thật thế, Darwin hiểu selection là một tập hợp những sự tác động qua lại giữa thực vật, động vật và môi trường, trong đó yếu tố giữ vai trò "chọn lọc" (môi trường, đồng loại, kẻ địch ăn thịt…) là bất định, chứ không thể được giản lược đơn thuần vào sự "đấu tranh", "chiến đấu". Tóm lại, ta cần cẩn trọng và có sự phân biệt nhiều hơn khi tìm hiểu các thuật ngữ cốt lõi của thuyết tiến hoá Darwin.
 

3.2. Khỉ và người

Stephen Jay Gould, Ernst Haeckel, Thomas Henry Huxley

Gay go nhất cũng như gây ngộ nhận và tranh cãi nhiều nhất trong học thuyết của Darwin là mối quan hệ thân thuộc giữa người và khỉ. Stephen Jay Gould, nhà cổ sinh vật học và nhà tiến hoá luận hàng đầu của thế kỷ XX đã nêu câu hỏi đã từng làm Darwin thắc mắc : "Tại sao những gì xấu xa ở trong ta thì bị xem là di sản của khỉ, còn những gì tốt đẹp là riêng của con người ? Tại sao ta không đi tìm những phẩm chất “cao quý” trong ta như là sự tiếp nối với những con vật khác" ?

Trong Nguồn gốc các loài (1859), Darwin chưa đề cập đến khỉ, càng chưa bàn về con người. Nhưng từ 1859 cho đến 1871, ông tích cực quan sát, ghi nhận nhiều sự tương đồng giữa người và thú vật, nhất là với những thú vật nuôi trong nhà (trở thành phong trào rầm rộ ở nước Anh đương thời nhờ đường hàng hải quốc tế phát triển) và nhất là với các loài linh trưởng (đười ươi, tinh tinh…). Quyển Descent of Man / Nguồn gốc con người (1871) cùng với Expression of the Emotions in Man and Animals / Diễn tả xúc cảm nơi người và thú vật, một năm sau đó (1872) đúc kết những nhận định cơ bản của ông :
 

  • khác với Ernst Haeckel, nhà động vật học người Đức (1874), Darwin không đặt con người ở vị trí trung tâm hay cao nhất, trái lại, xem đười ươi và tinh tinh là họ hàng gần gũi nhất của con người, và con người chỉ là một giống loài bên trong giới linh trưởng mà thôi.

  • khác với Nietzsche (trong tác phẩm di cảo Về sự thật và nói dối theo nghĩa ngoài luân lý, 1873), theo đó con người vì yếu đuối so với thú vật nên thi thố sức mạnh bằng sự giả vờ, vuốt ve, dối trá, lừa đảo, Darwin lại rút ra các đức tính tốt từ đó : thiện cảm, tình yêu và sự hợp quần. (Về sau, Arnold Gehlen xem con người là "sinh vật bất toàn", vì thế con người ra sức phát triển định chế, tổ chức để tìm chỗ dựa và sự an toàn ; Frans de Waal, chuyên gia về loài linh trưởng, nhìn thấy thêm các đức tính như : trung thành, tin cậy, trắc ẩn và vị tha.

Như thế, với Darwin, sự tương đồng giữa con người và thú vật không chỉ ở phương diện sinh lý học hay cơ thể học mà còn cả ở trong bản tính, đầu óc và "tinh thần". Một phát hiện lý thú và hết sức căn bản vào thời gian Darwin chuẩn bị quyển Diễn tả cảm xúc nơi người và thú vật, làm thay đổi nhận định quen thuộc trước đó : con vật cũng biết cười, một đặc điểm tưởng chỉ là đặc quyền của con người. Như thế, họ hàng gần gũi giữa con người và thú vật không tạo nên một dã thú mà mang lại một con khỉ tươi cười ! Trong khi những nhà tiến hoá luận khác như Ernst Haeckel hay Thomas Henry Huxley không ngần ngại xem những người châu Phi hay châu Úc là mắt xích nối liền khỉ và người, thì Darwin lại thấy những người Anh đồng hương của ông giống với… những thú vật nuôi trong nhà ! Họ hàng thân thích với thú vật không làm hạ giá con người, trái lại, Darwin đã "cao quý hoá" thú vật. Sự nối kết giữa con người và thú vật không tạo nên một con người mang thú tính, mà ngược lại, một động vật mang tính người !
 

3.3. Darwin : nhà vô thần ?

William Whewell, William Paley, Friedrich Engels

Tạm gác lại sự ồn ào của cuộc tranh chấp, nhiều khi rất quyết liệt giữa thuyết tiến hoá và thuyết sáng tạo kéo dài mãi cho đến ngày nay, ta thử đến với bản thân Darwin chung quanh vấn đề này. Trước hết, ông không thể tán thành môn Thần học tự nhiên giáo điều theo kiểu William Whewell, giáo sư ở Cambridge vào năm 1840 hay của William Paley, 1802 : "Làm gì có sự ngẫu nhiên đối với ta? Trong cơ thể con người, sự ngẫu nhiên có chăng là ở vết tàn nhang hay nốt ruồi mà thôi, chứ không bao giờ ở con mắt được !". Với Darwin, sự ngẫu nhiên gắn liền với sự chọn lọc có chức năng then chốt trong sự ra đời cái mới trong lịch sử tiến hoá. Ông còn đi xa hơn : sự ngẫu nhiên không chỉ tác động ở cấp độ trật tự hay sự phân loại của tự nhiên mà cả đối với từng cá thể. Ông không thấy có sự hoàn hảo nào trong thế giới hữu cơ cả, kể cả nơi đôi mắt của con người, để từ đó có thể quy về cho một trí tuệ siêu nhiên : "Trong sự biến dị của sinh thể hữu cơ và trong tiến trình chọn lọc tự nhiên, dường như chẳng có một kế hoạch nào nhiều hơn so với hướng gió thổi !". Sự bất toàn của thế giới sinh vật không phải là lý do để xem thường chúng : ông nghiên cứu hoa lan, dây leo, côn trùng với tất cả tình âu yếm. Nhưng sự chết chóc đau thương – trường hợp cô con gái cưng của ông – làm ông sụp đổ lòng tin vào một Đấng sáng tạo lòng lành ! Tuy nhiên, như nhiều đồng nghiệp của mình, Darwin tự nhận mình là một người "bất khả tri", một khái niệm do Thomas Henry Huxley du nhập vào năm 1889. Khác với nhà vô thần luận, người "bất khả tri" xem câu hỏi về sự tồn tại của Thượng đế là không thể trả lời được. Trong triết học, thái độ này có một truyền thống lâu dài ngay từ thời Platon khi ông thuật lại câu nói nổi tiếng của Protagoras, nhà biện sĩ vào thế kỷ V tr. CN : "Tôi chẳng biết gì về thần linh cả: họ tồn tại hay không tồn tại, làm sao tôi biết được ?". Vì thế, một mặt Darwin chủ trương : "thần học và khoa học nên đi riêng con đường của mình", mặt khác, ông cũng không có xu hướng muốn biến khoa học thành một định chế luân lý duy nhất trong đời sống công cộng, khác hẳn thái độ bài tôn giáo cực đoan của Ernst Haeckel. Khoa học tìm cách trả lời câu hỏi "như thế nào" chứ không có tham vọng trả lời câu hỏi rốt ráo : "tại sao" và "có ý nghĩa gì", vốn là một nan đề triết học từ muôn thuở : tại sao lại có sự tồn tại chứ không phải là không có gì hết ? Ngày nay, thái độ ấy của Darwin góp phần vào việc giảm căng thẳng giữa tôn giáo và khoa học, để cả hai thực sự góp phần vào việc bảo tồn và trân trọng sự hiện hữu "có một không hai" của các giống loài, một sự thật mà không phía nào có thể nghi ngờ cả.

3.4. "Chọn lọc" : một định luật tự nhiên ?

Khi nói về sự "chọn lọc" như một định luật tự nhiên, ta thường nhập chung hai chuyện vốn cần được tách rời nhau ra ! Một mặt, khái niệm "định luật tự nhiên" có ý nghĩa mô tả (bằng phương pháp toán học hay thống kê) về những hiện tượng : ví dụ sự rơi, không có gì nhanh bằng tốc độ ánh sáng v.v… Điều ấy không chỉ cho phép ta mô tả mà còn tiên đoán nữa, nhất là dựa vào đó để tạo ra… máy hơi nước hay máy bay. Đó là một nghĩa cơ bản của định luật tự nhiên.

Nhưng khi ta dùng khái niệm này đối với sự chọn lọc, ta lập tức gặp phải một ý nghĩa thứ hai, mang màu sắc quy phạm (normativ) : cái gì đã là "định luật tự nhiên" thì hầu như bất biến, phải tuân theo. Đó chính là trường hợp đối với thuyết "nhân mãn" khét tiếng của Malthus : nếu dân số tăng theo cấp số nhân mà sản xuất lương thực tăng theo cấp số cộng thì chiến tranh, bệnh tật, đói kém là biện pháp tự nhiên để cân đối lại. Hơn thế, các "định chế tự nhiên" này là mẫu mực để con người làm theo : không được tương trợ người nghèo ! Sự khắc nghiệt của Tự nhiên là tấm gương cho sự khắc nghiệt của xã hội !

Ta thấy ngay rằng ở đây sự nối kết giữa hành vi con người và "định luật tự nhiên" tuyệt nhiên không phải là một chuỗi nhân quả đơn giản như sẩy tay thì rơi xuống vực. Ngược lại, quyết định chính trị hay việc ban hành luật pháp là ở trong quyền hạn cân nhắc của chính con người. Sự kết hợp giữa "định luật" và "hành vi" theo kiểu Malthus là có tính quy phạm, nghĩa là : nội dung của nó là một cái "phải là" chứ không phải cái "là".

Trước thế kỷ XVIII, phương Tây tin vào trật tự do Thượng đế sắp đặt, thì từ thế kỷ XIX, người ta tin vào "quyền uy luân lý của tự nhiên" : "tự nhiên" là tốt, "trái tự nhiên" là xấu ! Trong tiến trình lịch sử này, thuyết tiến hoá, nhất là hiện tượng "chọn lọc tự nhiên" giữ vai trò quyết định. Friedrich Engels là người đã sớm nhận ra điều ấy, ông viết : "Bên cạnh học thuyết dân số của Malthus, toàn bộ học thuyết của Darwin về đấu tranh sinh tồn chỉ đơn giản là việc chuyển học thuyết của Hobbes về bellum omnium contra omnes [cuộc chiến tranh của tất cả chống lại tất cả] của Hobbes và học thuyết kinh tế tư sản từ xã hội vào cho giới Tự nhiên có sự sống. Rồi sau khi người ta làm xong công việc giả tạo ấy (…), họ lại chuyển các học thuyết ấy từ giới Tự nhiên hữu cơ vào cho lịch sử, và bấy giờ, khẳng định rằng người ta đã chứng minh được tính hiệu lực của chúng như là các định luật vĩnh cửu của xã hội loài người".

Ở đây, Engels cho thấy thuật ngữ "đấu tranh sinh tồn" đã nhiều lần bị chuyển dịch lĩnh vực từ lịch sử tự nhiên sang kinh tế học và lý thuyết về nhà nước. Trong quá trình ấy, khái niệm "định luật" bắt đầu chao đảo, trộn lẫn cấp độ mô tả với cấp độ quy phạm. Cái gọi là "định luật vĩnh cửu của xã hội loài người" hoàn toàn không phải là bất biến và bất khả thay đổi như định luật trọng trường ! Vậy, phải chăng sự chọn lọc tự nhiên không phải là một định luật tự nhiên ?

Hơn ai hết, chính Darwin đã bàn kỹ về "tính định luật tự nhiên" của thuyết tiến hoá. Bản thân ông đã giới thiệu một Biểu đồ (Diagramm) tiến hoá trong Nguồn gốc các loài (1859), như là một chuỗi những đường giao thoa, bất định. Ông nói rõ trong Ấn bản lần thứ 6 : "Tuy nhiên, ở đây tôi muốn lưu ý rằng tôi không hề muốn nói tiến trình diễn ra một cách hợp quy tắc và ổn định như đã được trình bày trong Biểu đồ, cho dù bản thân Biểu đồ cũng đã tỏ ra phần nào bất định". Nghĩa là, ông còn muốn Biểu đồ tỏ ra bất định và phức tạp hơn nhiều nữa !

Lý do khiến sự tiến hoá không phải là một con đường thẳng tắp là ở tính ngẫu nhiên của sự biến dị. Ta chỉ nắm bắt được sự chọn lọc ở những nơi nào sự biến dị tỏ rõ sức mạnh của nó. Vì thế, đối với những nhà nghiên cứu quen với những quy luật toán học trong thế giới vô cơ, sự tiến hoá đầy hỗn loạn và bất ngờ kiểu Darwin không thể mang lại câu trả lời thoả đáng. Chẳng hạn nhà thiên văn John Herschel nhạo báng thuyết tiến hoá của Darwin là "law of the higgledy-piggledy" (quy luật của sự lung tung, bừa bãi!).

Như ta đã biết, Darwin chưa giải thích được nguồn gốc của sự biến dị. Ông cũng chưa giải thích được tại sao một số đặc điểm là có thể di truyền, còn các đặc điểm khác thì không. Ông thú nhận năm 1868 trong Sự biến dị của thú vật và cây cối : "không thể nêu rõ lý do cho sự khác biệt này", và để sự việc dừng lại ở đó.

150 năm sau Darwin, sự ngẫu nhiên cũng không thể được gạt bỏ ra khỏi sự di truyền. Tuy nhiên, sự tiến hoá không thể diễn ra tuỳ tiện, mà trong số ranh giới nhất định nào đó, thường được các nhà sinh vật học gọi là "những ước chế phát triển" (developmental constraints). Nhưng, vì khôn

0