06/05/2018, 08:10

Thuyết minh về một vùng đất giàu tiềm năng – Văn mẫu hay lớp 9

Xem nhanh nội dung Thuyết minh về một vùng đất giàu tiềm năng – Bài làm 1 của một học sinh giỏi Văn tỉnh Cà Mau U Minh là một vùng đất sình lầy, chẳng chịt kênh rạch, rừng xanh điệp trùng bao la, trải dài trải rộng trên một diện tích gần 2000km 2 . ...

Xem nhanh nội dung

Thuyết minh về một vùng đất giàu tiềm năng – Bài làm 1 của một học sinh giỏi Văn tỉnh Cà Mau 

U Minh là một vùng đất sình lầy, chẳng chịt kênh rạch, rừng xanh điệp trùng bao la, trải dài trải rộng trên một diện tích gần 2000km2.

Rừng U Minh tựa lưng vào miền Tây Nam Bộ, mặt hướng ra Vịnh Thái Lan, trải dài từ sông Ông Đốc phía Nam (tỉnh Cà Mau) cho đến sông Cái Lớn (tỉnh Kiên Giang) phía bắc. Sông Trèm Trẹm và sông Cái Tàu chia U Minh thành hai phần xấp xỉ nhau, đó là U Minh Thượng ở phía Bắc và U Minh Hạ ở phía Nam.

Thiên nhiên ở U Minh vô cùng hoang sơ và hùng vĩ. Trước năm 1945, hai tiếng U Minh gợi lên cái gì xa xăm và thăm thẳm, heo hút và mênh mông. Nhà văn Sơn Nam trong cuốn "Văn minh miệt Vườn" đã viết: "U Minh có nghĩa là tối và mờ, u u minh minh, có lẽ ở đây cây cỏ quá dày và rậm rạp, nước ngập lênh láng, đất lại thấp nên thuở xưa còn gọi là Láng Biển, Láng U Minh."

Có thể đến U Minh bằng đường thủy hoặc đường bộ, những đường thủy thuận tiện hơn. Đi xuồng máy tới Cà Mau, theo sông Cái Tàu và sông Trèm Trẹm mà đi lên. Hoặc dùng tàu, thuyền từ Rạch Giá men theo bờ biển mà đi xuống.

Rừng ngập mặn ở Cà Mau là rừng đước. Còn rừng ở U Minh là rừng tràm. Cây tràm cao từ 10-20m, từ xa nhìn chỉ thấy một màu xanh vô tận của rừng tràm nối tiếp với màu xanh bao la của da trời. Cây tràm là thứ gỗ quý của rừng U Minh. Ngoài ra còn có cây móp và dây choai. Dây choai dẻo và bền không kém gì song mây, để bện đăng hoặc làm nguyên liệu cho hàng thủ công mĩ nghệ. Rễ móp rất nhẹ, dai , xốp, để làm phao lưới cá, làm nút chai.

Mùa hè đến, rừng chàm nở hoa trắng xóa, dâng hương ngào ngạt. Hàng ngàn, hàng vạn…đàn ong kéo về hút nhụy hoa, mật hoa. Những người "ăn ong" kéo nhau vào rừng tràm "Gác kèo" cho ong làm tổ. Mỗi tổ ong có thể cho vài lít mật, mỗi người " gác kèo" có thể lấy được hàng trăm lít mật ong sau mỗi mùa hoa. Mật ong rừng tràm U Minh có màu vàng óng, trong veo, để lâu không biến màu, biến chất, có hương vị ngát thơm ngọt ngào đặc biệt. Rừng tràm U Minh mỗi năm có thể cung cấp khoảng 50 – 60 tấn mật ong. Hoa tràm chứa 2% tinh dầu. Tinh dầu màu vàng xanh trong suốt là một dược liệu quý hiếm.

Rừng U Minh là xứ sở của muỗi mòng và thú dữ. Heo ường, khỉ già, rắn, kì đà, trăn, cá sấu, cọp. Ca dao còn truyền lại:

"U Minh, Rạch Giá, thị quán sơn trường,
Dưới sông sấu lội, trên rừng cọp đua."

Kênh rạch U Minh nhiều tôm cá. Rừng U Minh là một sân chim khổng lồ với hàng trăm loại chim. Tiếng chim xào xạc trong vòm cây lá. Chiều chiều, từng đàn chim bay về ríu ra ríu rít làm xôn xao cả khu rừng. Trong màn đêm vẫn có một số loài chim gọi nhau đi ăn đêm. Tiếng chim gọi đàn, tiếng lá reo, tiếng sóng vỗ trên sông cái Tàu, sông Trèm Trẹm, trên vịnh Thái Lan… lao xao, rì rầm suốt đêm ngày tạo nên khúc nhạc rừng U Minh đã mấy ngàn năm qua.

Đến thăm thú sân chim U Minh, du khách ngạc nhiên và vô cùng thú vị khi nhìn thấy những con ngỗng trời có đôi cách đồ sộ hàng sải tay, nặng bảy tám kí, đậu oằn cả những cành cây lớn, những con giang sen cao lêu nghêu, chàng bè cổ quái, mỏ to bằng cổ tay người lớn. Nhiều loài cò, điên điển, cồng cộc, le lé, ó biển…quy tụ về đây thành đàn, đẻ trứng, sinh con, sinh cháu, làm cho họ hàng nhà chim ngày một đông đúc, đàn đàn lũ lũ không kể xiết.

Những vỉa than bùn dày 2 – 5 m là kho vàng đen có trữ lượng hàng tỉ tấn mà rừng U inh đã và đang làm giàu cho quê hương xứ sở.

Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, U Minh được đầu tư và khai phá. Giao thông thủy bộ được mở mang. Nhiều thị tứ, làng mạc nối tiếp nhau mọc lên theo bờ kênh rạch, sông ngòi. Cảnh quan ngày một thay đổi to lớn.

Rừng U Minh là một vùng đất giàu có với bao tiềm năng kì diệu. U Minh hứa hẹn. U Minh đang vẫy tay đón chờ những bàn tay, khối óc và lòng dũng cảm của tuối trẻ chúng ta.

Thuyết minh về một vùng đất giàu tiềm năng của quê hương em – Bài làm về vùng đất Yên Thành 

Vùng đất Yên Thành từ xưa tới nay vốn được coi là chốn nhiều danh thắng, cảnh quan, bởi thế núi, dáng sông đã tạo nên một vùng đất nhiều truyền thuyết. Trải qua năm tháng, miền đất này còn tiềm ẩn những nét cổ xưa thú vị cho du khách mỗi khi tìm về.

Khu du lịch tâm linh rú Gám là một danh sơn nổi tiếng từ xa xưa và trở thành biểu tượng của quê hương Yên Thành. Thời Tiền Lê, vùng đất này cư dân quần tụ đông đúc, Lê Long Ngân, con thứ 8 của vua Lê Đại Hành đã chọn vùng đất phía Tây rú Gám để thành lập lỵ sở Đông Thành… Rú Gám hiện có gần 150 ha thuộc rừng nguyên sinh đang được bảo tồn, có thảm thực vật đa dạng chung sống phân tầng rõ nét.

Trong không gian hùng vĩ, thơ mộng với sông Dinh chạy quanh co bên những ngọn đồi, chùa Gám (Chí Linh tự) hiện ra với kiến trúc cổ kính, điêu khắc hết sức tinh xảo. Hiện nay, UBND tỉnh đã cho phép khôi phục hoạt động Phật giáo tại chùa Gám, đồng thời xây dựng nơi đây một thiền viện, phái Trúc Lâm với quy mô lớn của vùng. Dự án có tổng diện tích quy hoạch xây dựng 316,575 ha thuộc địa phận 2 xã Xuân Thành và Tăng Thành, bao gồm 5 khu vực chính: Khu di tích gốc được bố trí tại chùa Chí Linh (Xuân Thành) thờ các vị thần đã có công bảo quốc hộ dân; thờ Phật và Chư vị Bồ tát; Khu tâm linh – lễ hội ở rú Gám; Khu đền Bạch Y (xã Tăng Thành); Khu nghĩa trang và nhà thờ các anh hùng liệt sỹ. 

Hàng năm, vào dịp Lễ hội đền – chùa Gám được tổ chức từ ngày 14-16/2 (âm lịch) có hàng vạn khách thập phương thành kính tìm đến. Mới đây, vào dịp tháng Tám, tổ chức Jica (Nhật Bản) đã có chuyến đi về Yên Thành để khảo sát để hướng tới đầu tư cho một số loại hình du lịch đặc trưng. Được thưởng thức trích đoạn vở tuồng "Trưng Trắc, Trưng Nhị" ngay tại sân chùa Gám, cả đoàn đã tỏ ra rất mến mộ các diễn viên và vở tuồng cổ diễn ra trong một không gian cổ.

Yên Thành đã được biết đến từ lâu đời là một vùng đất cổ. Từ thời Tiền Lê, thời Lý, nhiều cuộc di dân, khai hoang về miền đất này đã được đẩy mạnh, lập nên những hương ấp, xóm làng trù phú. Đến thời Trần, đã hình thành nên những cánh đồng màu mỡ, phì nhiêu. Xưa kia, Yên Thành còn được chọn làm lỵ sở của đất Hoan Châu với nhiều nét văn hóa đặc sắc. Con cháu đời sau cứ thế kế thừa và lưu truyền qua nhiều thế hệ. Bởi thế, thật thú vị khi chúng ta về “vùng lúa nước đặc trưng” này, bắt gặp cả một miền quê hát chèo ở xã Lăng Thành. Nơi đây, từ các cụ già đến các bạn trẻ đều có thể hát chèo và thể hiện rất nhuần nhị, thấm đẫm một nét văn hóa chèo trên xứ Nghệ. 

Bên cạnh đó, nhiều lễ hội truyền thống có quy mô cấp huyện cũng đã được phục hồi như Lễ hội đền Phúc Hoàng, Lễ hội đền chùa Gám, đền Cả (Nhân Thành), Lễ hội Đại Điển – đình Mõ (Hậu Thành), đền Cả (Hoa Thành)… Đất Yên Thành từ xưa đến nay còn là vùng đất văn hoá, nổi tiếng hiếu học, chính những tên đất, tên làng từ lâu đã được nhân dân hình tượng hoá thể hiện khát vọng vươn tới đỗ đạt khoa bảng, với triết lý “học để biết, biết để làm người” điều đó lại được chắt lọc chưng cất qua bao thế hệ trở thành truyền thống hiếu học và tôn trọng nhân tài của người dân Yên Thành ngày nay.

Trên địa bàn huyện, khu hồ đập Vệ Vừng đã trở thành một địa chỉ ưa thích cho du khách tìm về. Ngoài việc điều hòa khí hậu cho cả vùng miền Tây Yên Thành, cung cấp nước tưới cho trên 2.000 ha lúa của các xã Kim Thành, Quang Thành, Phúc Thành, Hoa Thành, Văn Thành… đến với Vệ Vừng, du khách được tận hưởng cảm giác bồng bềnh cùng du thuyền, ngắm cảnh, leo núi, câu cá đắm mình trong làn nước ngọt trong lành, thưởng thức nhiều món cá tôm tươi rói và đắm mình cùng những câu hò, điệu ví. Nơi đây còn có nhiều những thắng cảnh thiên nhiên, công trình kinh tế phục vụ đời sống con người, nằm cạnh các khu văn hóa như chùa Gám, chùa Bảo Lâm, chùa Non Nước, nhà thờ đá Bảo Nham… cạnh đó còn là những di tích lịch sử nổi tiếng như: Khu lưu niệm Bác Hồ về thăm Vĩnh Thành, Nhà lưu niệm đồng chí Phan Đăng Lưu (Hoa Thành)… Điệp trùng những di tích – danh thắng ấy trên vùng quê lúa đã đi vào truyền thuyết "Nghệ Yên Thành, Thanh Nông Cống" sẽ là những điểm du lịch tham quan, vãn cảnh, nghiên cứu và học tập đầy hấp dẫn. 

Huyện Yên Thành có trên 200 di tích – danh thắng đã được lập danh mục quản lý, trong đó có 21 di tích được công nhận di tích quốc gia, 33 di tích xếp hạng cấp tỉnh, là huyện có nhiều di tích được công nhận nhất tỉnh. Yên Thành còn là vùng đất giàu truyền thống khoa bảng, văn hiến với 22 vị đại khoa mà tiêu biểu là trạng nguyên Bạch Liêu – ông tổ khai khoa của xứ Nghệ. Nơi đây còn là một địa danh cách mạng lâu đời, nơi có căn cứ địa của phong trào Cần Vương chống Pháp do cụ Nguyễn Xuân Ôn, Lê Doãn Nhã lãnh đạo, là địa chỉ đỏ của phong trào Xô viết Nghệ Tĩnh 1930 – 1931… Đó là niềm tự hào mà Đảng bộ, nhân dân của huyện Yên Thành đang ra sức phát huy, để những giá trị đó trường tồn, đem đến những giá trị tinh thần, vật chất trong giai đoạn mới ".

Thuyết minh về một vùng đất giàu tiềm năng mà em biết – Bài làm 3

Vào mỗi dịp cuối tuần hay những kỳ nghỉ lễ tết, không ít du khách đã tìm về những làng quê yên bình, những đền chùa, miếu mạo để tận hưởng bầu không khí trong lành, thoáng đãng và tìm kiếm những phút giây thư thái, thanh tịnh trong tâm hồn. Cách trung tâm thành phố Hà Nội khoảng 40km về phía bắc, Sóc Sơn là một địa điểm thú vị cho những chuyến dã ngoại cuối tuần khi du khách muốn tìm về với du lịch văn hóa, tâm linh.

Nằm ngay dưới chân núi Vệ Linh, ẩn mình dưới những tán cây cổ thụ hàng trăm năm, đền Trình mở đầu cho một thế giới linh thiêng, huyền bí. Bên trong đền còn lưu giữ những pho tượng cổ rất đẹp. Đặc biệt, trên gác đền có viền tường chạy theo hình bậc thang, lượn sóng với những hoạ tiết cầu kỳ, đẹp mắt. Bên cạnh đền Trình là chùa Đại Bi. Ngôi chùa nhỏ nhưng có kiến trúc độc đáo, từ mái  vòm uốn cong hai đầu, đến những cánh cửa còn nguyên màu sơn son. Bên trong đền treo nhiều hoành phi, câu đối lộng lẫy và uy nghiêm. Đối diện với chùa Đại Bi là đền Mẫu – nơi thờ mẹ Thánh Gióng – gồm 3 gian, 2 nếp xây tường hồi bít đốc. Cảnh đền thanh tịnh, nghi ngút khói hương.
Thuộc địa bàn thôn Vệ Linh, xã Phù Linh, quần thể di tích đền Sóc nằm trải dài từ chân núi lên đến đỉnh núi Vệ Linh, bao gồm các công trình: đền Trình, chùa Đại Bi, đền Mẫu, đền Thượng, tượng đài Thánh Gióng và nhà bia. Quần thể di tích này gắn liền với với huyền thoại Thánh Gióng từ thuở hồng hoang trong lịch sử chống giặc ngoại xâm của dân tộc. Đến đây, du khách sẽ cảm nhận được vẻ đẹp vừa cổ kính, thâm nghiêm, vừa thơ mộng, hữu tình của một vùng núi đồi bao la, thoáng đãng, bốn mùa cây cối xanh tươi.

Từ đền Sóc, tiếp tục leo lên đỉnh núi Vệ Linh ở độ cao 302m, du khách sẽ thấy tượng đài Thánh Gióng bằng đồng, nặng 85 tấn, được hoàn thành vào năm 2010, đúng dịp Đại lễ kỷ niệm 1.000 năm Thăng Long – Hà Nội. Tượng khắc hoạ hình ảnh Thánh Gióng tay cầm gậy tre, cưỡi trên lưng tuấn mã trong tư thế chuẩn bị bay vút lên trời xanh. Đứng ở vị trí này, Đức Thánh có thể phóng tầm nhìn bao quát toàn cõi đất Việt, trở thành vị thần "hộ quốc an dân" trường tồn cùng mảnh đất thiêng Thăng Long – Hà Nội.Nằm ở lưng chừng núi Vệ Linh là đền Sóc (còn gọi là đền Thượng), nơi thờ Thánh Gióng – một trong tứ bất tử của tín ngưỡng dân gian Việt Nam. Tương truyền, sau khi đánh thắng giặc Ân, tới chân núi Vệ Linh, ngài đã để lại áo giáp sắt ở lưng chừng núi và cưỡi ngựa sắt bay về trời. Được xây dựng từ năm 980, đền Sóc mang đậm phong cách cổ của Phật giáo với kiến trúc theo kiểu chuôi vồ. Ngôi đền gồm 5 gian hai chái; phía trong là hậu cung – nơi đặt tượng thờ Phù Đổng Thiên Vương, đôi ngựa gỗ tượng trưng cho ngựa sắt năm xưa Đức Thánh cưỡi để dẹp giặc Ân cùng tượng bốn vị quan đã từng phò giúp ngài.

Lên đỉnh núi Vệ Linh, du khách còn có dịp ghé thăm nhà bia đã tồn tại hàng trăm năm, được xây dựng hoàn toàn bằng đá phiến. Phần thân nhà vững chãi gắn liền với đỉnh hình chóp nón, trông tựa như chiếc mũ sắt của Đức Thánh Gióng năm xưa. Đặc biệt, tại đây còn có bia đá ghi lại lịch sử hình thành đền Sóc và lễ hội đền Sóc, giúp du khách hiểu rõ hơn về nguồn gốc của quần thể di tích này.   

Đền Sóc không chỉ là quần thể di tích linh thiêng thờ vị thánh của dân tộc, mà còn là một khu du lịch văn hóa, tâm linh đặc biệt của thủ đô. Năm 1962, quần thể di tích đền Sóc đã được Bộ Văn hóa (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) công nhận là Di tích lịch sử  – văn hóa cấp quốc gia.  

Cùng nằm trên núi Vệ Linh, ở độ cao 110m so với mực nước biển, chùa Non Nước (có tên chữ là Sóc Thiên Vương Thiền tự) là một trong những ngôi chùa cổ kính của Việt Nam với hơn 1000 năm tuổi. Được xây dựng từ thời Tiền Lê, ngôi chùa gắn liền với vị quốc sư đầu tiên của Việt Nam – Khuông Việt Đại Sư. Theo thuyết phong thủy, chùa được dựng trên thế long chầu hổ phục, nằm ở chính giữa dãy núi hình vòng cung, tựa như người ngồi trên chiếc ngai nhìn xuống phong cảnh làng quê bên dưới. Năm 2002, chùa được xây dựng lại trên nền chùa cũ, theo kiến trúc chùa cổ gồm 7 gian 2 chái; hoạ tiết, hoa văn được trang trí cũng theo nguyên mẫu của thời Tiền Lê. Khuôn viên chùa rộng rãi, tôn nghiêm với phong cảnh hữu tình, thanh tịnh. Đặc biệt, chùa có pho tượng Phật bằng đồng đúc liền khối, nặng 30 tấn, cao 6,5m. Bức tượng được đánh giá là một công trình nghệ thuật đặc sắc, góp phần tôn vinh nghề đúc đồng truyền thống của Việt Nam.

Dời quần thể đền chùa ở khu vực núi Vệ Linh, đi khoảng 2km đến xã Hiền Ninh, du khách sẽ được tham quan một “bảo tàng” ngoài trời độc đáo, mang đậm phong cách dân dã của người Việt, đó là Việt Phủ Thành Chương. Đây là một trong những công trình kiến trúc, nghệ thuật lưu giữ những giá trị truyền thống của nền văn hóa Việt.

Được xây dựng từ tháng 8/2001 và hoàn thành vào năm 2009, Việt Phủ có diện tích hơn 10.000m², lưng dựa vào núi Sóc, kề bên là hồ Kẻo Cả quanh năm nước trong xanh. Từ cổng chính, đi qua con đường lát gạch Bát Tràng, du khách sẽ vào bên trong Việt Phủ với hàng chục ngôi nhà được xây dựng theo kiến trúc nhà truyền thống ở nhiều vùng miền khác nhau: nhà Thanh Tĩnh bằng gỗ lim của người Công giáo vùng Nam Định; nhà sàn cổ của người Mường ở Hòa Bình; nhà Tường Vân tiêu biểu cho phong cách của tầng lớp quan lại dưới thời nhà Nguyễn tại kinh đô Huế; nhà Đại Khoa được làm bằng gỗ xoan, đặc trưng cho kiến trúc của vùng đất Kinh Bắc xưa; nhà Long Đình được thiết kế mang dáng dấp của một ngôi đình, nơi khách tham quan có thể ngồi thưởng trà, ngắm sen và thưởng thức các chương trình biểu diễn nghệ thuật dân gian cổ truyền như: ca trù, quan họ, chèo, chầu văn, múa rối nước…; nhà nghỉ chân dành cho du khách được làm bằng gỗ, lợp cói khô… Ở trung tâm của Phủ còn có một tháp nước cao 25m được xây dựng theo kiến trúc chùa Dâu.

Trong Việt Phủ trưng bày nhiều hiện vật cổ bằng đồng, gốm, sứ có từ các thời kỳ: Đinh, Lý, Trần, Lê. Ngoài sân trưng bày rất nhiều vật dụng đặc trưng của người nông dân Việt Nam  như: chum nước, vại sành, cối giã gạo, cối xay thóc, cày, cuốc, nơm lờ, thúng, mủng, dần, sàng… Ngoài ra, đến đây, du khách còn có thể thưởng thức nhiều món ăn dân dã của người Việt tại khu nhà ẩm thực, như: nem, bún riêu, bánh đa, bánh đúc…

Với cảnh quan thiên nhiên, khí hậu trong lành, cùng những di tích văn hóa, lịch sử, tâm linh đặc sắc, Sóc Sơn đã trở thành một điểm du lịch văn hóa hấp dẫn của thủ đô.

Thuyết minh về một vùng đất giàu tiềm năng – Bài làm 4

Giữa bao la, mênh mông của núi đồi, với bạt ngàn màu xanh bát ngát của mía, ngô, sắn, lúa, lạc, khoai trên những cánh đồng tít tắp thẳng cánh cò bay, Thọ Xuân được ví như một bức tranh sơn thủy hữu tình của tạo hóa ban tặng.

Lễ hội kỷ niệm 520 năm ngày mất của Thái hậu Ngô thị Ngọc Dao tại huyện Thọ Xuân

Với cấu trúc địa lý một cách hài hòa giữa núi non, ruộng đồng, sông suối, lại ẩn chứa trong lòng nhiều huyền thoại đặc sắc nhất là cố đô Lam Kinh đầy tính sử thi và hùng tráng, cùng hơn 200 di tích văn hóa lịch sử của một vùng đất cổ thiêng liêng, quê hương phát tích của triều đại nhà Lê, đã ngự trị ngai vàng, giữ vững quốc thái dân an, xã tắc thanh bình đến 362 năm, qua 26 đời vua Lê.

Thọ Xuân là huyện có bề dày lịch sử văn hóa xuyên suốt hàng nghìn năm lịch sử dựng nước và giữ nước vẻ vang của dân tộc. Từ xa xưa, nhân dân cả nước biết đến Thọ Xuân không chỉ là vùng đất lịch sử phát triển lâu đời, mà còn là nơi diễn ra nhiều sự kiện lịch sử sôi động, hào hùng của dân tộc, là quê hương của nhiều danh nhân, hào kiệt, đặc biệt là vùng đất phát tích của hai vương triều Tiền Lê và Hậu Lê. Có thể nói Thọ Xuân là cái nôi linh thiêng của Xứ Thanh “địa linh nhân kiệt”, có tiềm năng dồi dào, phong phú về nhiều loại hình du lịch văn hóa lịch sử, du lịch tâm linh, du lịch sinh thái và du lịch danh lam thắng cảnh.

Trên địa bàn huyện có tới hơn 200 di tích lớn nhỏ các loại, trong đó 6 di tích đã được xếp hạng cấp quốc gia, 38 di tích xếp hạng cấp tỉnh và hai danh lam thắng cảnh như núi Mục Sơn, đập Bái Thượng.

Ngoài ra, di sản phi vật thể cũng phong phú và đa dạng với nhiều trò diễn dân gian, lễ hội, nghề truyền thống như trò Xuân Phả, Ca Trù, bánh gai Tứ Trụ…

Với nhận thức về du lịch là ngành công nghiệp không khói, đặc biệt là từ khi Luật Di sản văn hóa, Luật Du lịch được ban hành, du lịch huyện Thọ Xuân đã có những bước chuyển biến tích cực. Công tác tôn tạo, tu bổ văn hóa và phát huy giá trị các di tích lịch sử và danh lam thắng cảnh ở Thọ Xuân được các cấp, ngành quan tâm như: Dự án Khu di tích lịch sử Lê Hoàn, khu di tích lịch sử Lam Kinh, Di tích cách mạng Lê Văn Sỹ…

Trong những năm qua, việc khai thác tiềm năng du lịch ở huyện Thọ Xuân chủ yếu thông qua các tổ chức lễ hội truyền thống như lễ hội Lê Hoàn, lễ hội Lam Kinh, lễ hội Xuân Phả, lễ hội Cao Sơn, lễ hội Lê Thánh Tông, qua đó du lịch đã bước đầu được quan tâm và đầu tư bằng những chương trình quảng cáo trên đài phát thanh, truyền hình, báo chí, tờ rơi, pa nô, áp phích, khẩu hiệu, băng zôn và những gian hàng chợ quê truyền thống, những phòng trưng bày triển lãm. Do đó đã đón và giới thiệu hàng triệu lượt du khách về tham quan du lịch và dâng hương tại địa phương.

Tiềm năng du lịch của Thọ Xuân rất phong phú và đa dạng, song việc phát triển ngành du lịch ở địa phương còn nhiều khó khăn và trở ngại như: Nguồn vốn trùng tu, tôn tạo các di tích lịch sử từ nguồn ngân sách nhà nước còn quá ít, một số công trình, dự án do nhiều nguyên nhân nên tiến độ thi công chậm. Đội ngũ cán bộ công chức có chuyên môn, nghiệp vụ làm chức năng tham mưu, quản lý nhà nước về du lịch chưa nhiều. Cán bộ, chuyên viên làm du lịch chuyên nghiệp còn hạn chế, việc quan tâm đào tạo bồi dưỡng nguồn nhân lực cho phát triển du lịch còn giới hạn. Chưa có chiến lược phát triển du lịch, quy hoạch, kế hoạch, đề án phát triển du lịch giai đoạn, thời kỳ chưa mang tính bài bản, đồng bộ, chưa xây dựng được các tuor du lịch với những thuyết minh chuyên nghiệp, có sức cuốn hút du khách…

Dù nhận thức về du lịch là ngành công nghiệp xanh, sạch, đẹp, văn minh và bước đầu đã được các cấp, các ngành quan tâm, song sự đầu tư cho ngành du lịch tại địa phương chưa tương xứng với tiềm năng vốn có cả về chương trình chiến lược, cũng như cơ sở hạ tầng và con người. Tuy nhiên, với một số lượng di tích và danh thắng khổng lồ (trên 200 di tích) như vậy, nếu để cho mình địa phương tự lo liệu, đầu tư, chỉnh trang và tu tạo thì không đủ sức làm nổi, bởi phần lớn những di tích này đã bị phong hóa theo cùng với thời gian và năm tháng.

Để du lịch Thọ Xuân được lan tỏa rộng khắp trong khu vực và cả nước, huyện đã triển khai nhiều giải pháp như đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng cho du lịch (hệ thống đường giao thông, khách sạn, nhà nghỉ và những dịch vụ kèm theo như ăn, ở, đi lại, đồ lưu niệm. Tích cực trùng tu, tôn tạo các di tích lịch sử, danh lam thắng cảnh, khôi phục các di tích phi vật thể (trò diễn dân gian, lễ hội truyền thống, nghề truyền thống). Nâng cao nhận thức của cấp ủy, chính quyền, nhân dân về vị thế, vai trò du lịch trong việc phát triển kinh tế, xã hội. Thành lập ban quản lý di tích cấp huyện, đào tạo, tuyển chọn đội ngũ cán bộ năng lực có hiểu biết về di tích lịch sử và danh lam thắng cảnh làm công tác du lịch để đưa Thọ Xuân thành điểm du lịch hấp dẫn trong và ngoài tỉnh.

Những năm qua, do hạn chế về tài chính, nên những tiềm năng và giá trị lớn lao đó chưa đạt được như ước muốn. Vì vậy để du lịch Thọ Xuân vươn lên xứng đáng ngang tầm với các địa phương khác, rất cần có sự quan tâm mạnh mẽ của Trung ương, các bộ, ngành và tỉnh Thanh Hóa trong việc đầu tư, tạo điều kiện thuận lợi để du lịch Thọ Xuân vươn lên xứng với tầm cỡ và vị thế vốn có, trở thành điểm đến của du khách trong nước và quốc tế thời kỳ hội nhập. 

Thu Thủy (Tổng Hợp)

Từ khóa tìm kiếm

0