Thực trạng tài sản và nghiệp vụ tài chính
Thực trạng tài sản trong mỗi đơn vị kinh doanh hay hành chính sự nghiệp đều được biểu hiện dưới nhiều hình thái vật chất khác nhau, với yêu cầu về quy cách, phẩm chất, bảo quản, bảo dưỡng... khác nhau, và được lưu giữ trên nhiều kho, nhiều bãi ...
Thực trạng tài sản trong mỗi đơn vị kinh doanh hay hành chính sự nghiệp đều được biểu hiện dưới nhiều hình thái vật chất khác nhau, với yêu cầu về quy cách, phẩm chất, bảo quản, bảo dưỡng... khác nhau, và được lưu giữ trên nhiều kho, nhiều bãi khác nhau và những người quản lý khác nhau.
Giữa những người quản lý, cũng như giữa người quản lý và người sở hữu tài sản, họ thực hiện theo phương hướng và xu hướng khác nhau, nhưng đều có xu hướng tăng dần sự cách biệt giữa người sở hữu với người bảo quản và sử dụng tài sản. Mặt khác khi sản xuất phát triển, quy mô kinh doanh mở rộng, các mối liên hệ kinh tế ngày càng đa dạng phức tạp, thêm vào đó, sự phong phú thêm của khái niệm truyền thống về tài sản đặc biệt là sự xuất hiện của các tài sản vô hình, các quan hệ vay- mua, thuê - mua, các hậu quả của rủi ro dẫn đến thu nhập hoặc tổn thất (chi phí) bất thường về tài sản, sự thâm nhập của các quan hệ thị trường, giá cảm tỷ giá mở ra trong phạm vi quốc tế... Tất cả những yếu tố này dẫn đến khả năng thông tin kế toán... Tất cả những thực tế đó đã thúc đẩy sự ra đời của kiểm toán cùng tính tất yếu phải đặt tài sản vào đối tượng của kiểm toán.
Tài sản của Nhà nước, của các doanh nghiệp trong kinh doanh cũng như trong mọi lĩnh vực hoạt động khác thường xuyên vận động. Quá trình vận động này được cấu thành bởi các nghiệp vụ cụ thể. Các nghiệp vụ cụ thể này có thể quy về các nghiệp vụ cơ bản như: cấp vốn – nhận vốn, vay – cho vay, cấp phát – thụ hưởng, xuất – nhập – tồn kho hoặc mua – bán – sản xuất (hoặc dịch vụ). Tuy nhiên, do đặc tính của từng loại tài sản cũng như mối quan hệ kinh tế của mỗi loại tài sản cũng khac nhau, sự đa dạng về chủng loại nghiệp vụ cũng như đặc tính của tài sản chứa đựng trong nghiệp vụ đòi hỏi phải chia công tác kiểm toán các nghiệp vụ này thành những phần hành kiểm toán khác nhau. Khác với các phần hành kế toán, phần hành kiểm toán trước hết được phân chia trên cơ sở đầu mối quan hệ tài chính và sau nữa là vị trí và đặc điểm của từng loại nghiệp vụ. Trên cơ sở đó, các phần hành kiểm toán cơ bản có thể gồm:
- Các nghiệp vụ về tiền mặt (thu – chi – tồn quỹ).
- Các nghiệp vụ về thanh toán (không phân biệt vay, nợ, phải thu, phải trả).
- Các nghiệp vụ về tài sản cố định (đầu tư, xây dựng, mua sắm, sử dụng, khấu hao, tăng giảm tài sản cố định).
- Các nghiệp vụ về hàng hoá (bảo quản, sử dụng).
- Các nghiệp vụ về kinh doanh (mua, bán, sản xuất hoặc dịch vụ) hoặc các nghiệp vụ sự nghiệp, xã hội... đối với các đơn vị kinh doanh.
- Các nghiệp vụ tài chính (tạo vốn, liên doanh, liên kết, kết quả tài chính).
Tuỳ theo đặc điểm của mỗi đơn vị về quy mô, về phương hướng hoạt động, về
tổ chức kinh doanh và tổ chức quản lý, và tuỳ thuộc loại hình cũng như yêu cầu kiểm toán cụ thể, có thể lược bỏ, tách riêng hay sát nhập, các loại nghiệp vụ cơ bản trên để có những phần hành kiểm toán phù hợp với đơn vị cụ thể và mục tiêu kiểm toán cụ thể. Tuy nhiên trong bất kỳ điều kiện nào, các nghiệp vụ tài chính vẫn là đối tượng kiểm toán.