24/05/2018, 14:43

Tác hại của tham nhũng

Hồ Chủ Tịch đã từng nhận định: “Tham nhũng là kẻ thù nguy hiểm của nhân dân, của bộ đội và của chính phủ vì nó không mang gươm mang súng mà nó nằm trong các tổ chức của ta để làm hỏng ta. Nó làm hỏng tinh thần trong sạch và ý chí khắc ...

Hồ Chủ Tịch đã từng nhận định: “Tham nhũng là kẻ thù nguy hiểm của nhân dân, của bộ đội và của chính phủ vì nó không mang gươm mang súng mà nó nằm trong các tổ chức của ta để làm hỏng ta. Nó làm hỏng tinh thần trong sạch và ý chí khắc khổ của cán bộ ta. Nó phá hoại đạo đức cách mạng ta là cần- kiệm - liêm - chính”.

Tham nhũng còn gây ra tác hại làm giảm sút lòng tin của công dân đối với bộ máy và công chức, viên chức Nhà nước, triệt tiêu động lực cơ bản nhất của sự phát triển. Điều này đã được V.I. Lênin khuyến cáo: “Nếu có cái gì đó có thể triệt tiêu được chủ nghĩa xã hội thì đó chính là tham nhũng, quan liêu”. Đây cũng là bài học hàng đầu mà Đảng ta rút ra tại đại hội lần thứ 6. Đó là bài học lấy dân làm gốc, dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra. Đây cũng là bài học mà ông cha ta đã truyền lại cho con cháu. Trần Quốc Tuấn đã từng nói: “Người dân vốn không hài lòng, sợ ta thì khinh địch, sợ địch thì khinh ta, để dân khinh là mất nước”.

Tham nhũng gây tổn hại to lớn về mặt kinh tế cho sự phát triển xã hội kéo lùi sự phát triển tuỳ theo quy mô và mức độ gây hại của nó. Tham nhũng đã gây thiệt hại vật chất hàng ngàn tỷ đồng, hàng trăm triệu đô la của Nhà nước. Chi phí kinh tế của tham nhũng là rất khó xác định nhưng một số công trình nghiên cứu đã đưa ra đó là:

  • Tăng từ 3-10% cho giá của một giao dịch để đẩy nhanh giao dịch.
  • Một mức tổn thất tới 50% nguồn thu từ thuế của chính phủ do hối lộ và tham nhũng.

Một số minh chứng điển hình về tác hại của tham nhũng đối với nền kinh tế: chỉ riêng tổng thống của nước Công gô (Zaire cũ) với số tiền tham nhũng trong các năm cầm quyền lên tới 9-10 tỷ USD, bằng 70% số nợ nước ngoài của nước này.Tại Việt Nam với mức thu nhập bình quân đầu người vào khoảng 400 USD/năm nhưng những vụ tham nhũng gây thiệt hại nghiêm trọng về kinh tế vẫn diễn ra hàng năm điểm hình như vụ án Minh Phụng - EPCO đã chiếm đoạt hơn 3.547 tỷ đồng và 25,4 triệu USD của Nhà nước. Ngoài ra tính đến khi vụ án bị khởi tố ngân sách Nhà nước còn bị thiệt hại 115 tỷ đồng và 596.303 USD là phí bảo lãnh và lãi phát sinh của các khoản thiệt hại nói trên. Bên cạnh đó còn là những vụ gây thiệt hại nhiều đến tiền của Nhà nước và nhân dân như vụ Tamexco đã thiệt hại 500 tỷ đồng, dệt Nam Định khoảng 900 tỷ đồng… Đặc biệt hiện nay tình trạng tham nhũng ở Việt Nam gây thiệt hại về kinh tế đang diễn ra mạnh mẽ trong đầu tư xây dựng cơ bản, hoàn thuế giá trị gia tăng,lạm dụng quyền lực để bản thân và gia đình tham nhũng …

không chỉ dừng lại ở phương diện thiệt hại vật chất hàng ngàn tỷ đồng, hàng trăm triệu USD của Nhà nước mà tham nhũng sẽ làm tầm thường hoá hệ thống pháp luật của Nhà nước, kỷ cương xã hội không thể giữ vững, gây mất đoàn kết nội bộ, làm giảm uy tín của Đảng và Nhà nước trước nhân dân và là cơ hội để cho kẻ thù pháp hoại, xâm lược. Nếu các nhà hành pháp mà tự mình phá hoại luật pháp thì làm sao có thể duy trì được phép nước. Những kẻ tham nhũng chính là những tên đầu trò trong việc làm tê liệt hệ thống hành pháp là cho Nhà nước trở thành đối lập và gánh nặng cho công dân.

Tham nhũng tất yếu dẫn đến phá hoại đội ngũ cán bộ Nhà nước bởi vì những kẻ tham nhũng sẽ lừa dối và hư hoá cấp trên làm cho bộ máy trở thành quan liêu, chúng sẽ tăng cường đưa thêm kẻ xấu vào guồng máy và triệt hại đội ngũ viên chưa tốt. Những kẻ tham nhũng chính là những tên phá hoại từ bên trong của hệ thống hành pháp quốc gia.Tham nhũng sẽ làm cho quần chúng mất đi sự tin tuởng vào đường lối lãnh đạo của Đảng và Nhà nước và đây cũng là nguyên nhân căn bản nhất dẫn đến thất bại của Đảng và Nhà nước.

Chính với những tác hại to lớn kể trên cũng như nhiều tác hại do bệnh tham nhũng tạo ra, nhiều nước đã coi tham nhũng là quốc nạn của đất nước, là giặc nội xâm nguy hiểm.Trong các văn kiện đại hội VIII, IX Đảng ta khẳng định: Nạn tham nhũng đang là một nguy cơ trực tiếp quan hệ đến sự sống còn của hệ thống chính trị. Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đã có nhiều biện pháp khắc phục, song hiệu quả còn thấp. Phải tiến hành đấu tranh kiên quyết, thường xuyên và có hiệu quả chống tham nhũng trong bộ máy Nhà nước, trong tất cả các ngành, các cấp từ Trung ương đến cơ sở. Kết hợp những biện pháp cấp bách với những giải pháp có tầm chiến lược nhằm hoàn thiện cơ chế, chính sách, kiện toàn tổ chức, chấn chỉnh công tác quản lý, khắc phục sơ hở, vừa xử lý nghiêm kịp thời mọi vi phạm, tội phạm, huy động và phối hợp chặt chẽ mọi lực lượng đấu tranh nhằm ngăn chặn, đẩy lùi và loại trừ tham nhũng. Thủ trưởng cơ quan đơn vị, cán bộ chủ chốt các cấp phải gương mẫu đi đầu trong đấu tranh chống tham nhũng, trước hết là đối với bản thân. Đấu tranh chống tham nhũng phải gắn liền với đấu tranh chống buôn lậu, lãng phí, quan liêu, tập trung vào các hành vi tham ô, chiếm đoạt làm thất thoát tài sản Nhà nước, đòi hối lộ, đưa và nhận hối lộ.

Tham nhũng đã có từ rất lâu trong lịch sử loài người, có thể từ thời kỳ xuất hiện những hình thức ban đầu của Nhà nước. Do tác hại của tham nhũng là vô cùng lớn nên việc phòng chống tham nhũng luôn được coi là nhiệm vụ bức xúc hàng đầu của các quốc gia. Tuy nhiên gần đây một quan điểm trái ngược đã xuất hiện cho rằng tham nhũng không thể không nhất quán với phát triển, và đôi khi nó thậm trí còn thúc đẩy phát triển. Những người nêu ra quan điểm hiện đại này đã phủ một đám mây mơ hồ lên vấn đề tham nhũng. Chẳng hạn họ cho rằng định nghĩa về tham nhũng rất khác nhau giữa các nền văn hoá, hàm ý rằng những gì bị coi là tham nhũng ở phương Tây sẽ được lý giải một cách khác trong khuôn khổ những tập quán của các nền kinh tế mới nổi. Những người theo chủ nghĩa xét lại cũng nều đặc trưng về những hiệu ứng của tham nhũng đối với tăng trưởng kinh tế, đây là những lý luận mơ hồ. Dựa trên thực tế là, cho đến gần đây một số “con hổ” châu Á vẫn trải qua tăng trưởng kinh tế phi thường lẫn tham nhũng ở mức độ cao. Cuối cùng người ta cho rằng hiệu ứng của những cải cách thị trường đến tình trạng tham nhũng là không rõ ràng.

Chủ đề trọng tâm của luận điểm “dầu bôi trơn bánh xe” là hối lộ có thể là một cách làm có hiệu quả để vượt qua những qui định phiền hà và những hệ thống pháp luật vô tích sự. Cách lập luận này không thể khởi nguồn cho những mô hình mang tính học thuật phức tạp, mà còn hợp pháp hoá cách ứng xử của các công ty tư nhân sẵn sàng hối lộ cho được việc. Khi xem xét sâu hơn lập luận này có rất nhiều lỗ hổng. Nó lờ đi quyền tự do làm theo ý mình vốn rất lớn mà nhiều chính trị gia và quan chức, nhất là ở các xã hội tham nhũng, có được trong việc tạo dựng, gia tăng và giải thích các quy định phản tác dụng. Do đó thay vì bôi trơn những bánh xe kêu cót két của một nền hành chính vững chắc, tham nhũng lại trở thành thứ tiếp sức cho những quy định quá đáng và tuỳ tiện. Đây là một cơ chế mà nhờ đó tham nhũng tự nuôi sống chính bản thân nó.

Một biến thái kinh tế phức tạp của lập luận “dầu bôi trơn là tích cực” là quan điểm cho rằng hối lộ cho phép cung cầu hoạt động. Quan điểm này kiên định rằng trong cuộc đặt giá cạnh tranh để có được một hợp đồng mua hàng cuả chính phủ, người hối lộ nhiều nhất sẽ giành phần thắng và công ty có chi phí thấp nhất sẽ có khả năng chịu đựng số tiền hối lộ lớn nhất. Điều đó chỉ hay về lý thuyết nhưng lại không đúng.

Thứ nhất

Bằng cách chỉ tập trung vào tệ hối lộ lập luận này không tính đến tham nhũng là ăn cắp các nguồn lực công cộng, làm suy yếu tính ổn định kinh tế vĩ mô. Không những thế những người nhận hối lộ có xu thế chuyển những đồng tiền tham nhũng được vào các tài khoản ở nước ngoài. Ví dụ theo cách này Nigiênia đã tổn thất hàng tỷ tiền ngân sách trong những thập kỷ vừa qua.

Thứ hai

Việc giả định năng lực đấu thầu cao nhất bắt nguồn từ khía cạnh hiệu quả - chi phí là không đúng, thay vào đó nó thường gắn với chất lượng dưới mức tiêu chuẩn.

Thứ ba

Các chính trị gia hiếm khi chịu làm đối tượng của một khoản chi trả bất hợp pháp trong cuộc đấu thầu cạnh tranh, trái lại họ đòi tiền hối lộ một cách kín đáo từ những đối tượng mà họ tin là sẽ được giữ bí mật.

Thứ tư

Việc nhìn nhận hối lộ như một cơ chế làm cân bằng cung cầu không tính đến thực tế là nhiều hàng hoá công cộng không nên được phân phối cho những người đặt giá cao nhất,thay vào đó mục tiêu của các chương trình xoá đói giảm nghèo là phân bổ cac nguồn lực theo sự cần thiết của những người nhận.

Cuối cùng quan điểm cung và cầu về tham nhũng cho rằng những kẻ hối lộ nhận được những hàng hoá mà họ đã phải trả tiền cho chúng, điều này không phải lúc nào cũng đúng vì không thể cưỡng chế thi hành các giao dịch tham nhũng bằng luật pháp. Một trường phái “ biện hộ cho tham nhũng” lý luận rằng hối lộ có thể làm tăng hiệu quả bằng cách giảm đáng kể thời gian cần thiết cho các thủ tục xin phép và công việc giấy tờ. Vấn đề đối với lý lẽ “đồng tiền đi trước” này nằm ở giả định rằng cả hai phía đều thực sự tham gia vào vụ việc và không đòi hỏi thêm tiền hối lộ. Ở Ấn Độ một công chức cấp cao được hối lộ không thể giải quyết các thủ tục xin phép nhanh hơn được một chút nào vì có nhiều người trong giới quan liêu cùng tham gia vào quá trình đó, nhưng ông ta sẵn sàng đưa ra giải pháp làm chậm trễ quá trình cấp giấy phép đối với các công ty đối thủ. Ngay cả trong những xã hội mà vô vàn các qui định phản tác dụng đã được tạo ra nhằm moi của hối lộ vẫn phải có một hạt nhân của các luật lệ và các qui định phục vụ những mục tiêu xã hội hữu ích. Những bộ luật đơn giản và minh bạch về xây dựng, những qui định hợp lý về môi trường, những qui định rõ ràng nhằm đảm bảo sự lành mạnh của hệ thống ngân hàng và những qui định nghiêm ngặt về mua bán hạt nhân, ma tuý….là cần thiết trong bất cứ một xã hội nào. Trong bối cảnh này lý lẽ tham nhũng như chất dầu bôi trơn là đặc biệt nguy hiểm vì tiền hối lộ sẽ phục vụ cho việc giày xéo lên những qui định như vậy và làm tổn hại các mục tiêu xã hội .

Một yếu tố khác góp phần vào nạn hối lộ là quyền tự do định đoạt của các chính trị gia trong việc hạn chế sự tiếp cận các đối thủ cạnh tranh tiềm năng vào thị trường dành cho những kẻ hối lộ. Khối lượng “ dầu bôi trơn” đã gia cố những cấu trúc độc quyền khổng lồ. Thông lệ tham nhũng cố hữu của những hệ thống tài chính được giám sát một cách yếu kém và việc có tay trong đã góp phần những cuộc khủng hoảng kinh tế vĩ mô ở Anbani, Bungari và mới đây là ở các nước Đông Á.

Hối lộ, tìm kiếm tiền tô cũng đòi hỏi một chi phí kinh tế lớn. Tài năng được sử dụng không đúng chỗ vì những việc làm có tiềm năng thu được những khoản đút lót sinh lợi thu hút những người mà lẽ ra đã chấp nhận những phần thưởng tài chính khiêm tốn hơn do những nghề nghiệp thực sự có ích mang lại. Các quan chức tham nhũng đưa ra những quyết định tồi tệ về mặt công nghệ, việc ủng hộ những dự án không đạt tiêu chuẩn, phức tạp, đòi hỏi vốn lớn song dễ hớt được những món tiền lớn hơn. Do đó một hợp đồng lớn về quốc phòng hay cơ sở hạ tầng có thể được ủng hộ hơn việc xây dựng hàng trăm trường tiểu học và trạm y tế. Tai hại hơn các quan chức cho phát triển nhiều dự án “voi trắng” (cồng kềnh, chi phí cao) không có ích gì mà chỉ làm giầu cho một số quan chức và một số nhà cung cấp. Tình trạng không hoạt động của bốn nhà đối tác mới đây ở Lagos, Nigieria là một ví dụ. Không những thế các nhà thầu và các quan chức dính líu vào các hoạt động tham nhũng gây ra những chi phí khổng lồ về thời gian và năng suất bỏ ra. Việc thương lượng những vụ làm ăn và những khoản thanh toán bất hợp pháp, đảm bảo bí mật của chúng và đề phòng những rủi ro luôn hiện hữu là sẽ không nhận được những chữ ký và giấy phép đã được hứa hẹn đều là những công việc mất thời gian, cả sự cần thiết phải đàm phán lại hay hối lộ thêm cho một quan chức khác nữa như vẫn từng xảy ra, cũng tốn thời gian không kém. Trên thực tế bằng chứng từ nhiều quốc gia cho thấy mối quan hệ cùng chiều giữa mức độ hối lộ và lượng thời gian mà một doanh nghiệp phải dành cho các quan chức Nhà nước. Một cuộc điều tra năm 1993 đối với hơn 1.500 doanh nghiệp ở 49 quốc gia cho thấy: chẳng hạn như ở Ucraina các ông chủ công ty mất nhiều tiền hối lộ phải dành thời gian cho các quan chức và chính trị gia nhiều hơn gần một phần ba so với những người hối lộ ít. Những công ty hối lộ nhiều cũng phải mất 75 tuần công lao động mỗi năm trong thời gian quản lý cho việc thương lượng với các quan chức so với con số trung bình hàng năm là 22 tuần công lao động của các doanh nghiệp hối lộ ít. Thêm vào đó các số liệu thu được từ hơn 3.600 doanh nghiệp ở 69 nước chứng tỏ rằng ở những nước có tình trạng tham nhũng cao hơn các doanh nghiệp thường dành một phần lớn hơn trong thời gian quản lý cho các quan chức. Ngoài ra cuộc điều tra cũng cung cấp bằng chứng cho thấy ở những nơi mà tệ hối lộ phổ biến hơn thì chi phí vốn và chi phí đầu tư của các doanh nghiệp có xu hướng cao hơn …

Như vậy tác hại của tham nhũng là vô cùng lớn và đặc biệt nguy hiểm đối với tất cả các quốc gia. Tham nhũng đã trở thành “quốc tế nạn” là một trong những vấn đề toàn cầu mà tất cả các quốc gia đều có trách nhiệm cùng tham gia giải quyết .

0