Sử thi Iliade- Thi hào Homère: Thiên trường ca bất tử của nhân loại (bài 1)
Nhất Uyên Phạm Trọng Chánh Thơ Thi Hào Homère là một chuổi châu ngọc toàn hảo, không thể thay một câu, không thể thế một chữ. Từ ba ngàn năm trước nền văn minh Hy Lạp đã tạc tượng thần Apolon, tượng thần Vệ Nữ toàn hảo, người xem ngày nay phải rung động trước vẽđẹp bằng ...
Nhất Uyên Phạm Trọng Chánh
Thơ Thi Hào Homère là một chuổi châu ngọc toàn hảo, không thể thay một câu, không thể thế một chữ. Từ ba ngàn năm trước nền văn minh Hy Lạp đã tạc tượng thần Apolon, tượng thần Vệ Nữ toàn hảo, người xem ngày nay phải rung động trước vẽđẹp bằng đá trắng tuyệt mỹ pho tượng. Nhìn đôi cánh thần, nhìn nếp tàáo quyện trên thân thể, ta thấy được gió thoảng trên thân thể ngọc ngà thần Vệ Nữ trên đỉnh Olympe. Cũng như thế thi ca Homère là những dòng châu ngọc. Thật khổ sở cho người đọc, chỉ đọc được các bản dịch bằng văn xuôi như xem một cái xác ướp không hồn đen đủi, mất đi âm thanh, nhịp điệu, màu sắc.. không thấy được cái cô động hình ảnh, ý tứ, bi hài, đẹp đẽ của thi ca.
Vì mối ưu tư ấy, tôi đã chuyển ngữ ra thơ lục bát hai sử thi Odyssée (12110 câu) và Illiade (16931 câu) trong 10 năm liên tục. Khuê Văn xuất bản tại Paris. Tôi đã năm lần viếng thăm các nơi có di tích trong hai sử thi : thăm đảo động đá thiên đường của Calypso, thăm bờ biển vắng nơi Ulysse chiều chiều ra ngồi khóc nhớ vợ con. Thăm đền địa ngục ca thần Hadès, nơi Ulysse cầu tiên tri được gặp mẹ, thăm thành trì cung đình vua Agamennon, vua Nector, thăm những nơi có chiến trận, những nơi các nhân vật Homère đãđi qua, vào viện bảo tàng Hy Lạp và các nước Âu Châu xem các vật dụng, vàng, bạc đồng Homère đã mô tả, tôi đã từng cắm trại, ngủ lại đêm trên bờ biển vắng, đi tàu trong đêm, rùng minh trong giông bão, nghe tiếng cá heo như tiếng các nàng nhân ngư, đi qua các đảo núi lửa, Homère đã nhân cách hóa thành những ông khổng lồ ném đá.. Tôi đã tham khảo hàng trăm quyển sách, xem nhiều bộ phim về đề tài Odyssée và Iliade. Tôi có ý dịch thơ Homère từ năm 1976, khi nhận được hai sử thi là quà tặng Duy Nga, người bạn đời của tôi, nhưng mãi năm 2001 khi đi Malte vàđi Hy Lạp thăm viếng các di tích, tôi đã khởi hứng. Tôi đã công phu dịch thuật, diễn ca, chú thích, tái sáng tạo bằng thơ lục bát để người Việt Nam ai đọc cũng hiểu và thưởng thức được kiệt tác văn chương vĩđại của nhân loại. Hai tác phẩm đã được in ra, và phổ biến được 500 bản với các tranh bìa của J.D. Ingres, trong viện Bảo Tàng Louvre, Lyon.. một họa sĩ hàng đầu nước Pháp. Nhiều bạn đọc lấy làm buồn không mua được tác phẩm, việc in ấn và phát hành sách ngày nay là một khó khăn cho các nhà xuất bản hải ngoại và trong nước, thu nhập không đủ trả chi phí và cước phí cho ấn phẩm và dịch giả cũng không đủ khả năng để tặng toàn bộ tác phẩm cho các bạn yêu văn chương.. Để bạn đọc xa gần có dịp tiếp xúc với thi ca Homère, tôi sẽđăng tải trên các sitre internet quen biết, tôi sẽ lần lượt đăng từng chương vài trăm câu, kèm theo chú thích, bình luận.. Mỗi sử thi gồm 24 chương sẽđăng làm 48 lần cho gần 30000 câu thơ. Ước mong các bạn đọc muốn tìm đọc Homère sẽ có cơ hội tiếp xúc được kiệt tác văn chương của nhân loại.
Illiade và Odyssée là hai thiên trường ca bất tử của nhân loại, tác phẩm văn học vĩđại do Thi hào Homère, Hy Lạp sáng tác cách chúng ta 2900 năm và vẫn làm say mê nhân loại trong suốt 29 thế kỷ.Iliade kể chuyện về cuộc chiến thành Troie, Odyssée kể chuyện Ulysse sau cuộc chiến trở về quê hương phải vượt qua bao gian nan. Illiade chỉ kể lại một giai đoạn hơn bốn mươi ngày, nhưng qua đó cuộc chiến mười năm 1193 – 1183 trước Tây Lịch. Một truyện thơ hàng trăm nhân vật qua đó nổi bật hai anh hùng trong sáng như thần : Achille và Hector đối mặt nhau từ sống đến chết. Một kiệt tác văn chương viết về chiến tranh, anh hùng ca lẫn thần thoại. Cõi thần can dự trực tiếp vào cõi người, những vần thơ tuyệt tác tả cảnh chiến tranh, hùng tráng sắt thép rợn người, những tâm lý trái ngang cõi người. Mối bất hòa giữa dũng tuớng Achille và Vua Agamemnon vì mất đi một giai nhân, mối tình chia ly trong chiến tranh giữa Hector và Andromaque, tình bạn nhận ra giữa chiến trường thù nghịch giữa Diomède và Glaucos, tâm sự Hélène giữa người yêu quyến rủ Pâris và người chồng chung thủy Ménélas. Thế giới Thần lại mang đầy cái xấu con người , Thần Vương Zeus mê gái nhưng sợ vợ, Thần đầy dục vọng, Zeus bị bùa mê Héra, giăng mây vàng làm tình giữa núi Ida. Các Thần đố kỵ nhau, chia phe can thiệp vào cõi người, mượn tay người đểđánh nhau, chẳng khác chi các Cường quốc mượn tay các nước nhược tiểu đểđánh nhau trong Chiến Tranh Lạnh. Sửthi Iliade rất xưa và cũng rất hiện đại trong thế giới ngày nay.
Homère được xưng tụng là con Thần Nữ Thi Ca, là Thủy Tổ Văn Học Tây Phương, là Vua các nhà thơ, và là nhà thơ các vua, các bậc Văn hào qua bao thế kỷ đều kính phục học tập. Sinh sau cuộc chiến thành Troie 300 năm, ông tái tạo lại những đoạn thơ truyền khẩu do các du tử sáng tác trước ông thành hai kiệt tác văn chương. Ba nghìn năm qua các thần thánh, vua chúa, anh hùng, giai nhân, thành quách, lâu đài đều tan biến, và chỉ còn thơ Homère như viên ngọc quý giá bất tử với thời gian.
Iliade có nghĩa là chuyện thành Ilion, một tên gọi khác của thành Troie, một xứ nằm giữa Hellespont, Phrygie vàđảo Lesbos, kinh đô nằm phía tả ngạn sông Mendérès-Scamandre, chu vi khoảng 12km, có thành Bunar-Baschi vòng thành 2km dựng trên mõm đá cao 154m. Nhưng theo Schieman, người Đức năm 1871-1890 khai quật di tích, lại cho rằng thành Troie nằm trong khu vực Hissarlik tiếng địa phương gọi là Cổ thành. Vùng này xưa kia thuộc Hy Lạp, nay thuộc Thổ Nhỉ Kỳ.
Ngày xưa hai truyện thơ Odyssée và Iliade, được các du tử chuyên nghiệp đi khắp vùng Địa Trung Hải, ngâm thơ kể chuyện, đệm đàn lia (Lyre), Mỗi lần kể một chương vài trăm câu. Mỗi năm mùa biển động, dân chúng ngồi say mê, vừa bắt chí cho nhau, vừa nghe thơ. Iliade nếu được kể liên tục bốn ngày bốn đêm và Odyssée nếu được kể liên tục trong ba ngày ba đêm. Họ nghe đi nghe lại say mê đến thuộc lòng, nhiều người thuộc cả hai truyện thơ như người Việt Nam ngày xưa thuộc Truyện Kiều. Truyện thơ Hy Lạp bắt nguồn từ truyền thống tang lễ, khi có một nhân vật quyền quý chết, gia đình thường mời một du tử đến kể lại chuyện đời. Du tử có tài ứng khẩu biến lời kể thành vần điệu và ngâm nga trước tang lễ cho mọi người nghe suốt ba ngày ba đêm. Thơ Homère thịnh hành thời CổĐại, trong hơn 1600 bộ sách viết trên giấy da tìm thấy ở Ai Cập bằng tiếng Hy Lạp cổđiển, phân nửa là thơ Homère. Thơ có thể khởi đầu bất cứđoạn nào, đời vua Hadrien Hy Lạp đầu Công Nguyên chia mỗi sử thi thành 24 chương.
Từ thế kỷ thứ năm trước Tây Lịch trẻ em Hy Lạp thường học với ba vị thầy : Một người dạy văn phạm, dạy thơ Homère, một người dạy thể dục, và một người dạy đàn lia. Thời Trung Cổ từ năm 393 bắt đầu với sự hưng thịnh Thiên Chúa Giáo, quyển Thánh Kinh trở thành quyển sách duy nhất. Các sách vở Hy Lạp bị cất dấu, trường Lycée, Accadémie, vận động trường Olympic.. bịđóng cửa, thì tại các nước Á Rập, văn minh Hy Lạp vẫn được tiếp tục dạy dỗ, nối tiếp, các đế quốc Á Rập trở nên hùng mạnh, chiếm cứ cả Tây Ban Nha hai trăm năm, đánh chiếm đếnphân nửa nước Pháp, Hy Lạp bị chiếm trong bốn thế kỷ, các nước Thiên Chúa Giáo đầu tiên tại cận đông như Ai Cập, Syrie, Liban, thánh địa Thiên Chúa Giáo Jésusalem, thủ đô Contanstinoble rơi vào tay các đế quốc Ottoman, Á Rập Hồi Giáo.. Ý thức sự yếu kém trước nền văn minh Á Rập, Tây Phương đã tìm lại nền văn minh Hy Lạp, họ dịch thuật, tái sáng tạo từ những tác phẩm Hy Lạp, tại Pháp Molière (1622-1673), Jean de la Fontaine (1621-1695) tái sáng tạo những đề tài từ kịch nghệ, thơ ngụ ngôn Hy Lạp. Tây Phương đã tạo nên thời đại Phục Hưng. Phục Hưng là khôi phục lại lại nền văn minh huy hoàng thời Cổ Đại Hy Lạp, bị chôn vùi bởi thời Trung Cổ. Nền Phục Hưng chiếm lĩnh lãnh vực Văn học, Nghệ Thuật đến Giáo dục, biến các Trường Đại Học được lập ra ban đầu để dạy Thần Học thành những cơ sở giảng dạy đa dạng với đủ các ngành Khoa Học, Triết Học, Y Học.. Giáo Dục từng bước tách rời khỏi Giáo Hội Thiên Chúa Giáo trở thành một động lực phát triển khoa học kỹ thuật, tạo nên một cách mạng kỹ nghệ với vô vàn những phát minh tiến bộ, từđó. Thời đại Ánh Sáng tiếp theo vàđem văn minh truyền bá và chinh phục cả thế giới. Các nền văn minh Trung Quốc, Ấn Độ dậm chân một chỗ, bị các cường quốc Tây Phương xâu xé, chiếm cứ , trừ Nhật Bản đã nhanh chóng mở cửa và cải cách giáo dục đã nhanh chóng tiến kịp cùng với Tây Phương. Thái Lan nhanh chóng tiếp xúc gửi những sứđoàn sang các nước Tây Phương giữ độc lập bằng ưu thế ngoại giao. Tây Phương gọi Thời Trung Cổ hay Trung Đại là Thời nằm giữa Thời Hoàng Kim CổĐại Văn minh Hy Lạp thời Phục Hưng. Nước Việt Nam ta không có thời Cổđại huy hoàng và không có thời Phục Hưng thì không thể gọi các thời Quân chủ Phật Giáo và Quân chủ Khổng Giáo là thời Trung Đại .
Thế kỷ 20, 21 hàng năm vẫn có hàng trăm tác phẩm luận án Tiến sĩ nghiên cứu về thi ca Homère, vẫn tiếp tục khai thác các đề tài qua hàng chục bộ phim, nhạc kịch, hội họa, điêu khắc. Trong ngôn ngữ hằng ngày có những thành ngữ : trái táo bất hòa, cuộc Odyssée, gót chân Achille, tấm khăn Pénélope, lời tiên tri Cassandre… Đi đường ta gặp những bảng hiệu : Hermès, Pénéloppe, Ulysse, Calypso, Ino, Poséidon, Ajax, Hector.. Biết truyện thơ Homère là một chìa khóa để mở cách cửa vào nền văn minh Tây Phương, thưởng thức được những cái hay cái đẹp trong Hội Họa, Điêu Khắc, Âm Nhạc, Kiến Trúc, Văn học Tây Phương.
Nền văn minh Hy Lạp cách đây 2500 năm, nơi đây hình thành nền móng cho mọi ngành từ triết học, thiên văn học, y khoa, toán học, thể thao, thi ca, kịch nghệ, sử học.. Nơi đây đã hình thành những giá trị nhân bản của nhân loại : cộng hòa, tự do, dân chủ, hạnh phúc, dân quyền, phân quyền.. Những cơ sở : Trường học lycée, Hàn lâm viện, Nghị Viện, vận động trường Olympic, sân khấu, thư viện.. Để lại hàng trăm tên tuổi bất tử với sách viở : Socrate, Platon, Aristote, Thalès, Archimède, Pythagore, Hyppocrate, Homère, Aristophane, Diogène, Epicure, Eschyle, Ésope, Euclide, Euripide, Hérodote, Pausanias, Pindare, Sappho, Sophocle, Périclès.., Alexandre le Grand.. Ngôn ngữ Hy Lạp từng là ngôn ngữ chính thức của Âu Châu, trong nhiều thập kỷ, nền văn minh Latinh tiếp nối lại truyền bá những thành tựu của văn minh Hy Lạp. Hầu hết các ngành khoa học ngày nay đều bắt đầu từ một ông tổ Hy Lạp thời CổĐại. Hiểu biết nền văn minh Hy Lạp ta không chỉ viết ta từđâu đến và tương lai đi vềđâu ?
Homère gọi người Hy Lạp bằng các tên : Achéens, Argiens, hay Danaens. Đàn ông thường mô tả : tóc nâu để dài, coí râu quai hàm hay râu mép. Người Hy Lạp có một nền văn minh khá cao so với các dân tộc đương thời. Biết nuôi lợn, nuôi bò, nuôi cừu với quy môđông đúc hàng trăm con. Đặt biệt là biết nuôi ngựa và xử dụng ngựa trong chiến trận sớm hơn các dân tộc khác. Vai trò con ngựa rất quan trọng trong việc chuyên chỡ vũ khí, lương thực, đi xa, nhanh chóng và chiếm được ưu thế bất ngờ trên chiến trường. Ngoài ra họ là những thủy thủ giàu kinh nghiệm trên biển, biết đóng thuyền bọc đồng, chỡ vũ khí, áo giáp, dụng cụ bằng đồng.. Họ tổ chức gia đình theo phụ hệ hay bộ tộc. Mỗi vùng có một vị vua cai trị và thần phục một vị vua mạnh nhất. Khi có chiến tranh các vua liên minh với nhau, với sự chỉ huy của vua các vị vua. Trong thơ Homère, Agamemnon là vua các vị vua. Họ có một tôn giáo, đấng tối cao là Thần Zeus : Zeus, Dies là gốc tích chữ Dieu của Tây phương. Zeus thường được xem là cha các vị vua. Hy Lạp có một hệ thống thần thoại phong phú. Đỉnh cao của phổ hệ thần thoại là Chaos, Thần Hổn Mang khởi đầu vũ trụ. Sinh ra Ouranos (Uranus) làÔng Trời và Gaîa (Terra Mater) là Mẹ Đất. Sinh ra 12 Titans ở dưới lòng đất, các anh em Géants, Hécatonchires các quái vật năm mươi đầu, trăm tay và trên mặt đất là Thần Chronos ( còn viết là Cronos, Saturnes) là Thần Thời Gian và Bốn Mùa. Chronos hay ganh ghét chiếm quyền cha Ouranos, nuốt các con trai, vàphá hũy các công trình mình làm ra. Chronos lấy Thần Rhéa (Cybèle) tượng trưng cho sự thụ thai, sinh ra ba con là Zeus, Poséidon và Hadès. Thần Rhéa dùng mưu kế, cho chồng nuốt cục đá vàcứu ba con trai thoát chết. Zeus trưởng thành nổi loạn cướp ngôi cha. Chronos gọi các Titans giúp sức. Nhưng Zeus và hai em chiến thắng, đầy lùi các Titans về Tartare một vùng sâu thẳm dưới cả dưới Địa Ngục. Zeus trở nên toàn quyền cai trị thế giới, đóng đô trên núi Olympe. Zeus (Jupiter) chia cho hai em Poséidon (Neptune) cai trị Biển Cảở cung điện dưới Thủy Cung và Hadès (Pluton) cai trị cõi Âm Phủ.
Zeus giết cha lấy người chị cả Héra làm vợ. Héra (Junon, Hạ Cơ) là Thần nữ Hôn nhân, sinh ra Thần Arès(Thần Chiến Tranh) và Héphaîstos (Thần Hoả Thái). Zeus còn có nhiều vợ và sinh nhiều Thần khác.
Athéné (Minerve, Pallas, Quán Trí Tuệ, Quán Trí)), Zeus tự bổ trán sinh ra. Thần nữ Thông minh và khôn ngoan, cóđôi mắt sáng cú mèo. Thần nữ bào hộ nghệ thuật, nghệ thuật và các việc khéo tay. Athéné còn là nữ thần chiến thắng mang chiếc khiên, gươm, giáo và cũng là nữ thần hòa bình mang nhành ô liu.
Apollon(Phoebé, Phoebus, An Long, An Đông) : Thần Mỹ Thuật và Nghệ Thuật, con Zeus và Léto, song sinh với Artémis. Thần ngự trên núi Parnasse, thường cầm cây cung bạc vàđàn lyre, thần của thi sĩ, nhạc sĩ và mục đồng. Thần gieo nạn dịch bằng cây cung bạc để trừng trị.
Artémis (Diane, Đạt Thế Mỹ) Thần nữ mặt trăng, thiên nhiên và săn bắn, thường hiện ra với trăng lưỡi liềm,, con nai và mang cung , nữ thần xinh đẹp và có lời nguyền là trinh nữ mãi mãi.
Hermes (Mercure, Hạc Mai, Mai Hạc) Con Zeus và Maia, tiên nữ làm mưa. Thần của Thương mại, của người trộm cắp và người giang hồ, là sứ thần truyền tin của Thiên Đình, và dẫn các linh hồn xuống địa ngục.
Héphaïstos (Vulcan, Hỏa Thái) Con Zeus và Héra . Thần Lửa và Kim loại. Bênh mẹ bị Zeus ném xuống trần nên bị thọt chân, lập lò rèn trong núi lửa Etna (Ý), chồng của Aphrodite (Vệ Nữ) nhưng vợ ngoại tình với thần Arès. Héphaïstos làm bẩy sắt bắt được hai thần đang làm tình bất động trên giường và gọi các thần khác đến phán xét.
Arès (Mars, Chiến Thần) Thần chiến tranh, thường đi với hai người hầu là Terreur và Effroi, mang mũ đồng và vũ khí, bản tính hung bạo và can đảm.
Aphrodite (Vénus, Vệ Nữ), Nữ thần sắc đẹp và tình yêu, mẹ của cây cỏ và làm đẹp sự sống.
Dionysos (Bacchus) Thần Nho và Rượu vang. Con Zeus và Sémélé. Bị Héra ghen nên sảy thai, Zeus đón bào thai nuôi trong đùi cho đến ngày sinh.
Theo truyền thuyết, nguyên nhân cuộc chiến thành Troie, là do quả táo bất hòa. Truyện kể rằng trong đám cưới của vua Pélée và Nữ thần biển Thétis. Họđã quên mời Eris Nữ Thần Bất Hòa đến dự. Để phá vỡ cuộc vui và gây nên bất hòa những người đến dự. Eris lăn quả táo vàng vào giữa bàn tiệc, quả táo có đề chữTặng người đẹp nhất rồi vội vả về ngay. Thế là cả bàn tiệc sôi động hẵn lên. Ai cũng muốn dành quả táo ấy, họ tranh cải cuối cùng bỏ cuộc chỉ còn ba thần : Héra, Athéné và Aphrodite.. Họ bảo nhau đến Zeus phân xử, nhưng Zeus lắc đầu sợ vợ bảo răng thiên vị, Zeus bèn sai Hermès dẫn ba thần sang phương Đông, nhờ mộtngười trần đẹp nhất là Pâris phân xử.
Pâris vốn là con vua Priam, lúc sinh ra Hoàng Hậu Hécube) nằm mơ thấy mình sinh ra ngọn đuốc tiêu hủy thành Troie. Tiên tri đoán mộng đứa bé này sẽ mang tai hoạ ghê gớm cho thành Troie. Vua bèn cho đem Pâris bỏ vào rừng. Pâris được một con gấu cái đến ấp ủ, và được một người chăn chiên Arélaos đem về nuôi. Lớn lên Pâris khôi ngô tuấn tú, được bạn bè chăn cừu đặt cho tên Alexandre là người xuất chúng, người bảo vệ bởi vì chàng có sức khỏe hơn người, đánh bại thú dữ và kẻ cướp. Một hôm cóđoàn lính nhà vua Priam đến mua cướp 50 con bò đẹp nhất của Pâris để làm lễ hiến tế và trao phần thưởng cho cuộc thi thể thao. Pâris không thể cưỡng lệnh nhà vua, nhưng đi theo nhất quyết dành phần thắng trong các cuộc thi để mang bò về. Quả nhiên Pâris dành hết các giải vàđánh bại hết các địch thủ anh em ruột mình, kể cả anh cả Hector. Một người con trai vua Priam là Déiphobe toan rút gươm giết Pâris. Pâris chạy đến tượng Thần Vương cầu xin che chỡ. Déipobe phải bỏý đồ hung bạo. Cô em gái Cassandre có tài tiên tri nhận ra chàngtrai chăn bòđó là Pâris. Vua Priam và Hoàng Hậu cảm động nhận ra con vàđón vào cung. Cassandre còn tiên tri Pâris dẽ gây nên sự diệt vong thành Troie, nhưng lời nói nàng chẳng ai nghe. Ngày nay điển tích lời tiên tri Cassandre, chỉ những sự sáng suốt tiên liệu thông minh, nhưng chẳng ai nghe và không được áp dụng, để tránh tai họa. Pâris sống trong cung điện nhưng thường về núi Ida thăm chốn xưa. Một hôm đang chơi đồng nội thì thần Hermès hiện xuống bắt phải phân xử tranh chấp quả táo bất hòa. Thật là khó phân xử vì cả ba vị nữthần đều đẹp. Héra hứa cho chàng làm vua toàn cõi châu Á, Athéné hứa cho chàng thông minh, trí tuệ trở nên một dũng tướng bách chiến bách thắng. Aphrodite hứa cho chàng lấy được Hélène, người xinh đẹp nhất Châu Âu.
Pâris đã kính cẩn trao quả táo vàng cho Nữ Thần Sắc đẹp và Tình Yêu vì lý do đơn giản Vệ Nữ là Thần đẹp nhất. Do không được quả táo vàng Héra và Athéné đem lòng thù ghét Pâris va cả dòng giống dân Troie. Ngày nay thành ngữQuả táo bất hòachỉ nguyên nhân một sự bất đồng ý kiến, tranh cải, xung đột, mâu thuẫn.
Nhưng Hélène là một cô gái có chồng, có con gái. Chồng nàng là Ménélas, vua thành Sparte. Em vua Agamemnon, vua các vị vua.
Thần Vệ Nữ sau khi nhận được quả táo vàng bảo, Pâris đóng con thuyền vượt bể sang đô thành Sparte. Cùng đi còn có người em họ Enée. Vua Ménélas tiếp đãi nồng hậu, được vài hôm Ménélas nhận được tin phải đi Crète dự lễ Hiến tế quan trọng. Nhà vua cáo biệt khách và dặn Hoàng hậu Hélène tiếp đãi chu đáo. Vệ Nữđã cho Pâris mượn chiếc thắt lưng quyến rũ kỳ diệu, hễ ai mang nó sẽ chinh phục được trái tim người mình yêu. Hélène bị bùa mêđã xuống thuyền theo Pâris, mang theo tất cả tư trang và bỏ đứa con gái lạI.
Hành động xấu xa của Pâris khiến các thần Olympe nổi giận. Ménélas trở về mất vợ, gặp anh Agamemnon, họ tập họp đại binh đánh thành Troie. Quân Hy Lạp gồm 1186 chiến thuyền và hơn 100 000 quân.. Ban đầu họ thương thuyết đểđòi lại Hélène nhưng bất thành. Họ chiến đấu trong 9 năm bất phân thắng bại. Quân Hy Lạp phải đi đánh các vùng lân cận để tiếp tế lương thực và bắt nhiều chiến lợi phẩm, trong đó có nhiều phụ nữ xinh đẹp. Sử thi Iliade chỉ kể lại giai đoạn cuối cùng trong 42 ngày và bắt đầu bằng chuyện nàng Chrysèis một giai nhân phần thưởng chiến công dành cho vua Agamemnon, nhưng cha nàng là Tế tự thần Apollon, đem nhiều của cải đến xin chuộc lại con gái. Hội Đồng Tướng lĩnh đều chịu, nhưng vua Agamemnon, vì thương cô gái không chịu,đuổi cha nàng . Chrysès viên tế tự cầu xin thần Apollon trừng trị. Apollon nổi giận đem cung tên đến gieo bệnh dịch, quân Hy Lạp chết nhiều. Hội Đồng tướng lãnh họp Hội Đồng, Achille cầu tiên tri cho biết nguyên nhân.. Vua Agamemnon đồng ý trả nhưng bắt giai nhân của Achille để đền bù. Thế là nổi trận bất hòa Achille đóng quân bất động không thèm tham gia trận chiến và cầu mẹ là nữ thần Thétis lên xin Thần Vương Zeus làm cho quân Hy Lạp bại trận. Zeus có tình ý với người yêu xưa nên nghe lời. Héra vợ Zeus lại bênh vực quân Hy Lạp. Thế là thêm những bất hòa vợ chồng Thần Vương Zeus, Héra nơi thiên đình.
THI CA KHÚC I
TRẬN DỊCH – CƠN GIẬN DŨNG TƯỚNG AN SINH (ACHILLE)
TóM LƯỢC : Sang năm thứ 10, cuộc vây thành Troie của dân Hy Lạp, bỗng xuất hiện một trận dịch, người và thú chết la liệt, các giàn cũi đốt xác ngày đêm. Trước tình thế nguy cấp An Sinh mời họp Hội Đồng Tướng Lãnh Hy Lạp, mời tiên tri Cát Sĩ (Calchas) đến tiên đoán sự việc. Cát Sĩ xin An Sinh bảo vệ tính mạng mới dám nói ra.
Nguyên nhân trận dịch là do Thần An Long (Apollon) nổi giận vì An Gia Đại Vương (Agamemnon) vua các vị vua đối xử tàn tệ với Sĩ Tiết (Chrysès), người tế tự thần An Long đã mang trượng vàng, khăn trắng và phẩm vật hậu hỉ đến xin chuộc con gái bị bắt trong trận chiến và được tiến cung cho An Gia Đại Vương. Sĩ Tiết bị vua đuổi đi. An Gia Đại Vương không tin lời tiên tri và nổi giận vì cho rằng An Sinh bày mưu để tước đoạt người thiếp yêu quý của mình. Nhưng trước tình thế nguy cấp An Gia Đại Vương chiều ý mọi người, trả lại con gái cho Sĩ Tiết. Nhưng lại bắt lại nàng Băng Tuyết ( Briséis) của An Sinh để bù phần thiệt. An Sinh nổi giận mắng An Gia Đại Vương. Nhà vua cho rằng kẻ dưới phải phục tùng cấp trên. Mặc cho Thần Nữ Quán Trí Tuệ (Athéné) và vua Ninh Tô (Nector) khuyên giải. An Sinh tuyên bố rời Hội Đồng Liên Quân và không đánh trận cho An Gia Đại Vương nữa. An Sinh ra bờ biển buồn than. Mẹ la Thần nữ Thê Túc (Thétis) hiện đến. An Sinh bảo mẹ xin Thần Vương Dớt (Zeus) làm cho An Gia Đại Vương thua trận. Thần Vương chìu lòng, nhưng vợ là Hạ Cơ (Héra) lại muốn quân Hy Lạp thắng quân Troa (Troie).
Hát lên, Thần nữ Thi Ca,(Muse) 1
An Sinh dũng tướng bất hòa gát gươm.(Achille)
Mặc bao thảm hại vô cùng,
Xuống hàng quân tướng vây thành An Kinh (Achéens),
Hồn tử sĩ về cõi âm,
Xác thân sói xé, diều ăn chiến trường.
Ý Thần Vương Dớt định phần,
Gây nên chia rẽ, tương tàn vua, tôi.
An Trích , vua cõi người (Atride)
Gây hờn dũng tướng thần trời An Sinh. 10
Thần nào gieo nỗi bất bình,
An Long, con Dớt và nàng Lã Tiên (Latone)
Cung vàng tên rải trận tiền,
Dịch thần gieo bóng thê lương tội tình.
Vì vua An Trích lỗi lầm,
Mắng Sĩ Tiết (Chrysès), tế tự thần An Long.
Sĩ Tiếtđã đến van xin,
Anh em An Trích, quần thần An Kinh:
“Tôi người tế tự An Long,
Trượng vàng khăn trắng, xin dâng vật quà. 20
Thiên đình chứng giám lòng ta,
Giúp Ngài phá được thành vua Bam (Priam) này;
Chiến công phúc lộc cao dày,
Tạ Ngài, nhận lễ tỏ bày cầu xin.
Tha con tôi chẳng tội tình,
Chiếntranh loạn lạc, lỡ lầm sắc hương.
Bị người bắt giải tiến cung,
Xin Ngài kính Dớt, An Long tha giùm.”
Quần hùng dưới trướng sẵn sàng,
Nhận qua hậu hĩ, thả nàng cho cha. 30
An Gia Vương mặt tối sa,
Mất nàng Sĩ Tuyết (Chryséis), phần quà chiến công.
Chẳng vui đuổi kẻ tế thần :
“Lão già, chớ dọa trượng vàng tối cao.
Lễ người ta chẳng nhận đâu,
Con người ta chẳng khi nào thả ra,
Nàng hầu ta mãi đến già,
Về Đạt Gô Lịch (Argolide) xa nhà quê hương.
Bên ta cung phụng chiếu giường,
Bên ta khung cữi sớm hôm cung đình, 40
Về đi nếu muốn yên thân,
Từ đây chớ đến lăng nhăng quấy rầy. »
Cụ già sợ hãi ra đi,
Bên bờ biển vắng, sầu bi ngàn trùng.
Khẩn cầu Thần linh An Long :
“Xót thương cho kẻ ngày đêm phụng thờ,
Giữ đền tế tự chăm lo,
Tế bao đùi béo dê bò lễ nghi.
Hãy ban ơn hiển linh vì,
Oán thù giọt nước mắt đầy đớn đau. 50
Tên vàng trừng trị tiêu hao,
Người An Kinh trả nhục nào hôm nay.”
Thần An Long lắng nghe lời,
Thiên đình vì tiếng bề tôi, đùng đùng,
Vác cung vàng đội mũ đồng,
Nửa đêm đến giữa binh thuyền An Kinh.
Nhắm đoàn binh bắn vãi tên,
Chó, lừa gục ngã chẳng màng vìđâu.
Đến người dịch rụng rơi mau,
Lửa giàn thiêu xác ngút cao khói mù; 60
Chín ngày trận dịch thương đau,
An Sinh mời tướng quan mau họp bàn.
Hạ Cơ(Héra) Bạch Thủ Nữ Thần,
Lo âu mặc khải Hội Đồng Quân Trung.
An Sinh đứng dậy, lời rằng:
“Tình hình nguy cấp nếu không giải tìm,
Một bên chiến trận triền miên,
Một bên nạn dịch đảo điên hoành hành.
Chỉ còn bỏ trận vây thành,
Rút quân lìa bến tay không trở về. 70
Mời tiên tri đến lắng nghe:
Bói cho điềm mộng, giải bề thần trao.
An Long gieo dịch vì sao ?
Lễ nghi, tế tự, thế nào hỏi tra.
Ý thần từ đó tìm ra,
Lễ thần cúng tế cho qua nạn này.”
Cát Sĩ Thế Tô tiên tri. (Calchas Thestor)
Hiện tại, quá khứ, vị lai tinh tường.
Thần An Long dạy bói điềm,
Đứng lên ngỏ với quần hùng thiết tha. 80
« An Sinh có ý mời ta :
Giải điềm Thần Dớt, dịch là vì đâu ?
An Long gieo rắc thương đau,
Nhưng điều tôi nói, trước sau mất lòng.
Tướng Quân suy nghĩ cho cùng :
Mệnh tôi bảo đảm mới hòng nói ra.
Tướng Quân thề với Dớt là :
Sẵn sàng cứu mệnh can qua vì lời.
Một lời đụng chạm đến người,
Quyền hành thù ghét ắt thời họa mang. 90
Căm thù để giữa tim gan,
Có ngày rồi sẽ quay sang giết người. »
An Sinh trước Dớt thề bồi:
“Yên tâm Cát Sĩ bói lời tiên tri.
Nói ra sự thật dẫu vì,
Dù lời đụng chạm bất kỳ đến ai.
Ngày ta còn sống trên đời,
Quyết tâm ta bảo vệ người chẳng nan.
Dầu đụng An Gia Đại Vương,
Dầu chạm bất cứ cấp trên quyền hành. “ 100
Tiên tri Cát Sĩ yên tâm,
Ngỏ lời nói với Hội đồng Quân nghi:
“Các thần chẳng giận ta vì,
Lễ Thần cúng tế hội kỳ hàng năm?
Hay điều cấm kị thiêng liêng,
Chúng ta chẳng phạm những điềm thần răn,
Họa tai là bởi vị thần,
Có cây cung bạc An Long giận vì.
An Gia nhục mạ khinh khi.
Môn đồ Sĩ Tiết nơi này cầu xin. 110
Cụ dâng phẩm vật chuộc con.
Nhà vua lăng nhục, lại còn đuổi đi.
Cho nên thần đã ra tay.
Chỉ còn một cách: thả ngay, tha nàng.
Dâng cụ lễ vật tế thần,
Cầu xin tạ tội mới hòng thoát nguy.
An Gia sa mặt tức thì,
Quắc nhìn sang vị tiên tri dằn lời:
“ Người tiên tri thiệt ta thôi,
Chẳng bao giờ nói được lời dễ thương. 120
Âm mưu hắc ám trong lòng,
Bói điều thiệt hại rõràng cho ta.
Nàng Sĩ Tuyết phần đã chia,
Ta đà từ chối nhận quà đổi trao,
Vì ta quyến luyến biết bao,
Yêu nàng lòng chẳng muốn sao xa lìa.
Xa Ly Tâm Khánh vợ nhà (Clytemnestre),
Thì nàng chẳng kém mặn mà sắc hương.
Bây giờ trả phải bồi thường,
Lẽ nào chịu thiệt đêm không lạnh lùng. 130
Bồi thường tương xứng giai nhân,
Mình ta chịu thiệt, ta không thể nào !
An Sinh khuyên nhủ trước sau:
Đại Vương An Trích chớ nào xót xa !
Kho tàng mỹ nữ đã chia,
Chẳng còn chi nữa để mà thay chân,
Hứa rằng mai mốt chiến công,
Đền bù xứng đáng được phần nhiều hơn.
An Gia Vương đáp giận hờn:
An Sinh bày kế mưu toan dối lừa. 140
Trả nàng Sĩ Tuyết về nhà,
Cùng đàn súc vật cho cha tế thần.
Song ta, chịu thiệt rằng không !
Thì ta sẽ đoạt lấy phần của ngươi,
Phần nàng mỹ nữ đẹp tươi.
Hay của Uy Lĩnh (Ulysse), An Bắc (Ajax) mới thời chẳng thua !
Thế là nỗi trận bất hòa,
An Sinh tức giận, lời ra bừng bừng:
Hỡi người trân tráo tham lam,
Tướng, quân còn có nhất tâm phục tòng. 150
Bao nhiêu vương, tướng tùy tùng,
Làm sao kính phục đem lòng thương yêu.
Quên mình giao chiến quân thù,
Đạn tên, cái chết thiên thu sẵn sàng.
Như ta tham chiến chẳng màng
Người Troa (Troie) chẳng ghét, chẳng mang hận gì.
Bò ngựa chẳng cướp mang đi,
Mùa màng chẳng phá, chẳng chi phiền lòng.
Hai bên cách núi ngàn trùng,
Cách bờ sóng vỗ mênh mông chân trời. 160
Chỉ vì ta kính nể người,
Xót Mai Ninh Lạc (Ménélas), đến nơi báo thù.
Đầu rơi máu chảy mặc dù,
Thế người chẳng lấy làm điều nghĩ suy.
Toan dùng quyền lực tước đi,
Đoạt phần kẻ dưới, còn gì sĩ liêm.
Hỡi người mặt chó vô lương,
Hỏi rằng chiến phẩm ai hơn bằng người ?
Người ngồi hậu cứ xa vời,
Còn ta sinh tử kề vai nhọc nhằn. 170
Xông pha mũi giáo đường tên,
Từ nay ta sẽ chẳng nên vì người !
Về Phi Thy (Phthie) quê ta thôi,
Thuyền ta ngang dọc đất trời quê hương.
Chẳng thèm chiến đấu gian nan,
Chỉ vì mục đích giàu sang cho người.
An Gia Vương gay gắt lời:
Đi đi, ta chẳng cần người kiêu căng !
Vạn người dưới trướng phục tòng,
Ý Thần Vương Dớt hộ ban đủ rồi. 180
Người là vương đáng khinh thôi,
Chiến trường nào chỉ mình người đấu tranh.
Nếu người hùng mạnh, anh hùng,
Có thần phù hộ vẫy vùng bao la,
Về quê đi với mẹ cha,
Dù người giận chẳng làm ta sờn lòng !
Nếu vì kính Thần An Long,
Trả nàng Sĩ Tuyết là phần của ta,
Thì ta sẽ khiến người qua,
Bắt nàng Băng Tuyết (Breisès) thay ra, của người. 190
Phận thần dưới trướng : vua tôi,
Phục tùng là phận của người trung quân.
Mọi người lấy đó làm gương,
Tướng quân vâng lệnh chớ nên xem thường.
Xem vua vai vế ngang hàng,
Uy quyền, sức mạnh vua không ngang người.
An Sinh tức giận khôn nguôi,
Chẳng dằn cơn nóng toan thời rút gươm.
Quán Trí (Athéné) Thần nữ hiện bên,
Dằn tay, nắm tóc, nói riêng cùng chàng : 200
An Sinh bày tỏ phân trần:
Cớ chi Thần Nữ hiện trong lúc này,
Nghe lời ngạo ngược chẳng hay,
Chướng tai gai mắt phơi bày thế gian.
Quán Trí Tuệ khẽ xa gần:
Chớ nên nóng tính, hãy dằn giận thôi.
Hạ Cơ (Héra) Thần nữ truyền vời :
Xuống trần khuyên nhủ những lời thẳng ngay .
Hãy nguôi cơn giận hôm nay,
Chớ nên vì bất bình này rút gươm. 210
Làm cho xâu xé anh em,
Hãy vì đại cuộc, thiệt hơn xá gì !
An Sinh cúi mặt vâng lời :
Cầu xin Thần nữ xét soi tấm lòng,
Lời Thần răn dạy xin vâng,
Tôi người tuân lệnh các Thần trên cao.
Tra gươm dũng tướng vái chào,
Quán Trí Tuệ thoáng biến theo cánh hồng.
Về Thiên Sơn (Olympe) chốn Thiên Đình,
Bàn đào tiên hội, các Thần tiệc vui. 220
An Sinh lòng vẫn chưa nguôi,
Quay sang An Trích tiếp lời hờn dai :
Đồ tham, mắt chó, tim nai,
Chiến trường, đột kích, ai người đấu tranh.
Còn người chết nhát hậu quân,
Đến chia lợi phẩm, lại dành phần hơn.
Làm Vua xương máu của dân,
Người là Vua những kẻ hèn ích chi !
Với ta lần cuối lời này,
Cầm cây ngôn trượng, ta nay thề là : 230
Cây này, lá chẳng mọc ra,
Lời ta vững chắc như là núi cao.
An Kinh (Achéens) hối hận ngày nào,
Dưới đòn kẻ địch Hắc Tô (Hector) trận tiền.
Ra vào chiến trận đảo điên,
Sĩ quân gục ngã chiến trường thảm thương.
Dù người có xé con tim,
Để mà hối hận ô danh tướng tài.
Để cho chiến trận thiệt thòi,
Lỗi lầm đốn nhục của ngươi hôm nay. 240
Nói rồi vất trượng trên tay.
Ninh Tô (Nector) Vương lão đến ngay khuyên rằng .
Cất lời mật ngọt dỗ dành,
Bao nhiêu kinh nghiệm quân trung luận bàn.
Đã ba thế hệ trị dân,
Phi Lô (Pylos) thành vững, muôn dân hùng cường :
Than ôi đau đớn nào hơn !
Người chung một giống An Kinh tranh phần.
Vua Bam (Priam) con cái cười thầm,
Dân Troa sung sướng, nức lòng nào hơn. 250
Hai người cao cấp Đa Niên (Daniens),
Giành nhau vì gái, thiệt hơn bất hòa.
Hai người trẻ tuổi hơn ta,
Lắng nghe ta ngỏ, điều là thiệt hơn :
Hai người trách nhiệm ba quân,
Giữa trong trận chiến ngày càng khó khăn.
Dù làm Vua lắm quyền hành,
Chẳng nên cướp đoạt tranh giành mỹ nhân.
Chỉ nên lấy đó làm phần,
Thưởng cho tướng lĩnh trung quân, hiền tài. 260
An Sinh phận tướng làm tôi,
Chớ nên ỷ sức tranh thôi, chẳng chừa.
Làm tôi dẫu phận thiệt thua,
Trượng vàng Thần Dớt, lệnh Vua tuân hành.
Dẫu người sức mạnh hùng anh,
Mẹ người Thần Nữ, ai tranh sức cùng.
Làm Vua trị nước an dân,
Nào đâu xe ngựa, thanh gươm chiến trường.
An Trích, phận ngôi cửu trùng,
Hãy nguôi cơn giận với cùng tướng quân. 270
An Sinh, thành lũy anh hùng,
Là người cột trụ cuộc chinh chiến này.
An Gia Vương phán quyết ngay:
Cám ơn Vương lão tỏ bày thiệt hơn,
Nhưng người này thói ngang tàng,
Muốn hơn tất cả chẳng màng quân giai.
Muốn hơn hết, chẳng vâng lời,
Cả Thần chẳng nể, chi người làm Vua.
An Sinh hờn dỗi chẳng vừa:
Ta người ương ngạnh, chẳng ưa lệnh gì. 280
Hãy sai khiến kẻ khác đi,
Còn ta mặc kệ, nói gì đến ta.
Một lời hãy nhớ lấy là :
Ta không vì một đàn bà đấu tranh,
Chẳng vì người, chẳng ai cùng,
Của người cứ lấy, ta không tranh giành.
Của ta mang đến quân thuyền,
Chớ nên đụng đến mà phiền ngọn lao.
Số phần sẽ đẩm máu đào.
Nói rồi bước thẳng đi mau xuống thuyền. 290
Hội Đồng giải tán, tan hàng,
Trở về tuyến trận, bàng hoàng ba quân.
An Sinh về hậu cứ thuyền,
Cùng bạn Ban Tuấn (Patrocle) vàđoàn sĩ quan.
An Trích ra lệnh chọn thuyền,
Hai mươi chèo lái, vật mang tế thần.
Tận tay dắt bước xuống thuyền,
Đưa nàng Sĩ Tuyết má hồng về cha.
Uy Lĩnh (Ulysse) điều khiển thuyền ra,
Hướng đền trực chỉ, thuyền qua biển ngàn. &