Sự cần thiết phải tăng cường quan hệ liên kết giữa khoa học và sản xuất của hộ gia đình nông dân
Khái niệm Liên kết kinh tế là tổ chức phối hợp hoạt động kinh tế giữa các chủ thể kinh tế với nhau để thực hiện nhiệm vụ sản xuất kinh doanh nhằm đem lại hiệu quả kinh tế cao nhất cho mỗi bên tham gia . Chủ ...
Khái niệm
Liên kết kinh tế là tổ chức phối hợp hoạt động kinh tế giữa các chủ thể kinh tế với nhau để thực hiện nhiệm vụ sản xuất kinh doanh nhằm đem lại hiệu quả kinh tế cao nhất cho mỗi bên tham gia .
Chủ thể tham gia liên kết giữa khoa học và sản xuất là các nhà khoa học và hộ gia đình nông dân .
Nhà khoa học gồm các cán bộ nghiên cứu của các viện, các trung tâm nghiên cứu, các cán bộ khuyến nông.
Hộ gia đình nông dân là những người trực tiếp làm ra sản phẩm nông nghiệp. Họ chịu trách nhiệm trả chi phí cho các sản phẩm khoa học được ứng dụng và thực hiện các cam kết trong hợp đồng kỹ thuật với các nhà khoa học. Bên cạnh đó hộ gia đình nông dân phải thực hiện các qui định về sản xuất, chế biến và tiêu thụ cũng như các cam kết tín dụng với ngân hàng. Hộ gia đình nông dân là đơn vị kinh tế tự chủ trong nền kinh tế thị trường, là đơn vị kinh tế cơ sở trong nền kinh tế hàng hoá và là đơn vị sản xuất quy mô nhỏ có hiệu quả.
Thực chất của quan hệ liên kết kinh tế
Tiền đề của quá trình liên kết là sự phát triển của quá trình phân công lao động xã hội, chuyên môn hoá sản xuất kinh doanh. Quá trình liên kết kinh tế xuất hiện trong nền sản xuất hàng hoá, nền kinh tế thị trường, khởi thuỷ của nó là quan hệ kinh tế, quan hệ trao đổi, mua - bán sản phẩm, hàng hoá trên thị trường, vận động phát triển qua nhiều nấc thang trình độ cố kết bền vững của các quan hệ kinh tế giữa các doanh nghiệp. Quá trình liên kết kinh tế giữa các doanh nghiệp diễn ra trước hết trong lưu thông, trao đổi sản phẩm. Nó được đánh dấu bởi sự hợp tác trao đổi sản phẩm giữa các doanh nghiệp. Sự mua - bán trao đổi hàng hoá không phải diễn ra một cách ngẫu nhiên, nhất thời giữa các doanh nghiệp mà đã trở nên thường xuyên liên tục, có hợp đồng kế hoạch từ trước và ổn định bạn hàng trong một thời gian tương đối dài .
Như vậy ,quan hệ kinh tế giữa các doanh nghiệp đã chuyển biến về chất, nâng quan hệ lên một trình độ cao hơn ,thường xuyên, ổn định và cố kết hơn, có sự thoả thuận hợp tác lâu dài và bền vững hơn.
Quá trình đó được phát triển lên một giai đoạn cao hơn ,tức là sự hợp tác diễn ra ngay trong quá trình sản xuất. Giai đoạn này cũng được phát triển qua nhiều nấc thang của nó. Bắt đầu chỉ là thoả thuận phân công chuyên môn hoá sản xuất sản phẩm, chi tiết, bán thành phẩm hoặc kinh doanh tiêu thụ sản phẩm cung ứng vật tư thiết bị giữa các doanh nghiệp với nhau hoặc là cùng góp vốn để thực hiện một dự án, một nhiệm vụ chung cho các doanh nghiệp như đầu tư vào nghiên cứu khoa học, công nghệ, áp dụng tiến bộ khoa học-kỹ thuật, tìm nguồn nguyên liệu mới, sản xuất sản phẩm mới, khai thác thị trường, nguồn tài nguyên và lao động dồi dào ...Qúa trình liên kết kinh tế ngày càng phát triển lên những giai đoạn cao hơn .
Tronghoạt động liên kết kinh tế có thể thiết lập mối quan hệ liên kết ở tất cả các khâu của quá trình tái sản xuất mở rộng, từ khâu chuẩn bị các yếu tố sản xuất đến sản xuất và phục vụ sản xuất, nghiên cứu ứng dụng khoa học công nghệ, đào tạo, bảo vệ tài nguyên môi trường, khai thác thị trường ,thúc đẩy quá trình lưu thông tiêu thụ sản phẩm... Hoạt động liên kết kinh tế có thể diễn ra ở phạm vi không gian hẹp như trong một địa phương, một vùng và cũng có thể diễn ra ở phạm vi không gian rộng như thông qua hình thức hợp đồng liên kết giữa các chủ thể kinh tế độc lập cũng có thể thực hiện thông qua việc hình thành một loại hình tổ chức mới, làm nhiệm vụ điều phối hoạt động của các bên tham gia. Khi quá trình liên kết đạt tới việc sát nhập hình thành nên một tổ chức, một doanh nghiệp mới lớn hơn đó là sự biểu hiện của tập trung sản xuất. Có thể nói thực chất của quá trình liên kết kinh tế là quá trình xã hội hoá về phương diện kinh tế nền sản xuất xã hội. Sự phát triển của liên kết kinh tế làm cho lực lượng sản xuất ngày càng cao, làm cho các khu vực kinh tế ngày càng xích lại gần nhau, gắn bó, cấu kết với nhau hơn.
Động cơ và mục đích chủ yếu của liên kết kinh tế là nhằm đạt tới lợi nhuận tối đa và ổn định, là nhằm tăng cường sức cạnh tranh trên thị trường, ngày càng mở rộng phạm vi. Lợi ích kinh tế là sợi dây ,là chất nhưạ làm gắn bó các doanh nghiệp, các chủ thể liên kết lại với nhau. Cạnh tranh là nhân tố khách quan thúc đẩy các chủ thể "tự nguyện bắt buộc" liên kết lại với nhau trên cơ sở đảm bảo lợi ích sống còn trên thị trường .Để đạt tới lợi nhuận tối đa và ổn định giữa các thành viên, hoạt động liên kết kinh tế là nhằm phát triển, tìm kiếm khai thác ngày càng nhiều nguồn nguyên liệu cho sản xuất, đa dạng hoá mặt hàng, tăng nhanh khối lượng và chất lượng sản phẩm , rút ngắn và đẩy nhanh quá trình lưu thông, tiêu thụ sản phẩm, mở rộng phát triển thị trường, tức là nâng cao năng suất lao động, tồn tại , phát triển và mang lại hiệu quả kinh tế ngày càng cao.
Liên kết kinh tế là một quá trình vận động phát triển tự nhiên, tuỳ thuộc trình độ phạm vi của phân công lao động và chuyên môn hóa sản xuất kinh doanh, tuỳ thuộc vào quá trình vận động phát triển của các quan hệ kinh tế giữa các doanh nghiệp, vào lợi ích của các bên tham gia liên kết, vào môi trường cạnh tranh. Liên kết kinh tế còn phụ thuộc vào mối quan hệ nội tại giữa các doanh nghiệp cũng như giữa các bộ phận,các khâu của quá trình tái sản xuất xã hội, phụ thuộc vào sự "thử thách" của quá trình quan hệ, vào trình độ công nghệ quản lý, cũng như năng lực điều hành của đội ngũ cán bộ quản lý. Không thể áp dụng về phương diện tổ chức từ bên ngoài, hoặc từ bên trên bất kỳ một hình thức tổ chức liên kết kinh tế theo ý muốn chủ quan .
Như vậy, về bản chất hay thực chất các mối quan hệ liên kết kinh tế đều là những quan hệ kinh tế. Nhưng những quan hệ kinh tế đó phải phản ánh sự phối hợp mang tính cộng đồng trách nhiệm của các chủ thể kinh tế liên quan. Liên kết kinh tế bắt đầu được hình thành trong quá trình lưu thông hàng hoá ,trao đổi sản phẩm của các doanh nghiệp. Khi nền kinh tế hàng hoá phát triển, đòi hỏi quá trình liên kết ở phạm vi rộng hơn, không chỉ diễn ra trong một doanh nghiệp, trong một lĩnh vực, trong một ngành mà diễn ra ở tất cả các lĩnh vực và có sự liên kết giữa các ngành với nhau. Trong nông nghiệp cũng vậy, muốn tạo ra sản phẩm có sức cạnh tranh trên thị trường đòi hỏi phải có sự liên kết giữa khoa học và sản xuất .
Từ những lý luận trên có thể khẳng định rằng: thực chất quan hệ liên kết giữa khoa học và sản xuất của hộ gia đình nông dân là gắn bó khoa học với sản xuất, gắn nghiên cứu với ứng dụng. Trong điều kiện chuyển nông nghiệp, nông thôn sang phát triển hàng hoá thì việc ứng dụng các tiến bộ khoa học công nghệ vào sản xuất sẽ tạo khả năng cho các đơn vị sản xuất ra những sản phẩm có chất lượng cao, có sức cạnh tranh trên thị trường trong nước và quốc tế. Mặt khác, ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ vào sản xuất sẽ đảm bảo sử dụng triệt để, tiết kiệm các nguồn lực trong nông nghiệp, nông thôn.
Liên kết kinh tế trong các ngành sản xuất kinh doanh là một tất yếu khách quan :
- Do yêu cầu bảo đảm tính thống nhất của quá trình sản xuất xã hội
Tái sản xuất xã hội mở rộng là một quá trình thống nhất, nhưng do tác động của sự phát triển phân công lao động xã hội và lực lượng sản xuất làm cho quá trình đó bị phân chia làm nhiều khâu độc lập tách rời nhau. Để đảm bảo tính thống nhất của quá trình tái sản xuất xã hội đòi hỏi phải kết hợp các khâu. Có nhiều cách để thực hiện sự kết hợp trên, nhưng sự kết hợp thông qua quan hệ liên kết kinh tế thường mang tính chặt chẽ và đảm bảo hiệu quả kinh tế cao hơn .
- Do tác động của quy luật cạnh tranh và quy luật tối đa hoá lợi nhuận. Cạnh tranh để dành ưu thế trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm là qui luật vốn có của các doanh nghiệp trong nền kinh tế phát triển theo cơ chế thị trường. Liên kết kinh tế là hoạt động có quan hệ mật thiết, gắn bó với cạnh tranh .Các doanh nghiệp phát triển quan hệ liên kết kinh tế để tăng cường sức mạnh trong cạnh tranh với các đối thủ. Cạnh tranh thúc đẩy liên kết kinh tế. Trong sản xuất kinh doanh các doanh nghiệp đều mong đạt được tối đa lợi nhuận trong khả năng vốn có của mình. Hoạt động liên kết kinh tế có thể cho phép doanh nghiệp bù đắp chỗ yếu. Khai thác điểm mạnh lẫn nhau để thực hiện những hợp đồng kinh doanh mà tự mình không thể thực hiện được, hoặc thực hiện nhanh chóng và có hiệu quả hơn.
- Do tác động của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại.
Trong mấy thập kỷ gần đây, cuộc cách mạng khoa học và công nghệ có bước phát triển mới sâu rộng chưa từng có, trực tiếp tác động vào mỗi ngành kinh tế và đời sống xã hội của các quốc gia trên thế giới. Các doanh nghiệp phải tăng cường liên kết kinh tế để nắm bắt ứng dụng nhanh các thành tựu mới của tiến bộ khoa học và công nghệ nhằm tăng cường khả năng sản xuất sản phẩm mới đáp ứng kịp thời mọi nhu cầu kinh tế xã hội.
Thực tiễn phát triển kinh tế nói chung và nông nghiệp nông thôn nói riêng của các nước, đặc biệt là những nước có nền kinh tế hiện đại đều khẳng định vai trò quan trọng của tiến bộ khoa học công nghệ. Các cuộc cách mạng khoa học công nghệ đã làm thay đổi vai trò bốn yếu truyền thống của lợi thế cạnh tranh. Hiện nay, yếu tố trí tuệ (kỹ năng, công nghệ) có tính quyết định nhất còn các yếu tố tài nguyên, vốn, sức lao động thì ngày càng giảm vai trò, trở thành thứ yếu. Kinh nghiệm cho thấy có những nước giầu tài nguyên nhưng không phát triển vì không có nguồn năng lực, không có năng lực nội sinh về khoa học công nghệ. Trái lại, có những nước không có tài nguyên nhưng biết phát huy nguồn nhân lực, vận dụng tốt các thành tựu khoa học công nghệ thế giới đã phát triển rất nhanh.
Trong điều kiện nước ta, khoa học công nghệ là nội dung then chốt trong mọi hoạt động của tất cả các ngành, là nhân tố chủ yếu trúc đẩy tăng trưởng nền kinh tế. Ngày nay khoa học công nghệ dã xâm nhập vào tất cả các lĩnh vực khác nhau của nền kinh tế quốc dân. Trong nông nghiệp nông thôn nội dung khoa học công nghệ cũng rất phong phú và đa dạng. Tuy nhiên, nhiệm vụ chủ yếu phát triển khoa học công nghệ là nhằm thực hiện công nghiệp hoá và hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn.
Khi khoa học công nghệ trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp và ngày càng tiến bộ không ngừng, thì sự liên kết giữa khoa học và sản xuất là một trong những điều kiện quan trọng để phát triển kinh tế. Cuộc cạnh tranh trên thương trường hiện nay đặc biệt ở thị trường quốc tế đòi hỏi chỉ có những sản phẩm có hàm lượng khoa học cao mới tiêu thụ được và mới thu được hiệu quả. Trong nông nghiệp, muốn sản phẩm có sức cạnh tranh trên thị trường thế giới, đòi hỏi sự cố gắng nỗ lực của quá trình liên kết giữa khoa học và sản xuất nhằm nâng cao chất lượng, chủng loại, năng suất cây trồng, mỗi sản phẩm làm ra đều chứa đựng hàm lượng khoa học ngày càng cao trong đó. Ở tất cả các công đoạn của quá trình sản xuất và tiêu thụ đều có sự liên kết giữa cơ quan khoa học với người sản xuất kinh doanh. Bắt đầu từ khâu tuyển trọn lai tạo, nhân giống, đến quy trình kỹ thuật gieo trồng, chăm sóc, thu hoạch, chế biến, vận chuyển, bảo quản, tiêu thụ,... tất cả đều có sự liên kết chặt chẽ với cơ quan khoa học, các nhà khoa học. Nếu không sẽ không có bất kỳ một kg sản phẩm nào tiêu thụ được trên thị trường thế giới.
Mặt khác, do năng suất lao động trong nông nghiệp phụ thuộc rất lớn vào việc áp dụng những kỹ thuật mới, tiên tiến nhưng vì nhiều lý do như thiếu vốn, thiếu tri thức ... Mà kinh tế hộ rất hạn chế trong việc tiếp nhận kỹ thuật mới. Điều này có nghĩa là , sự phát triển của kinh tế hộ đến một chừng mực nào đó thì tự nó sẽ có nhu cầu hợp tác, xuất phát từ đòi hỏi tất yếu của việc phát triển lực lượng sản xuất. Với vai trò là đơn vị kinh tế cơ sở tiếp nhận khoa học kỹ thuật, đổi mới công nghệ, nâng cao sản xuất và hiệu quả kinh tế, điều đó buộc các hộ gia đình tìm mọi biện pháp để tăng năng suất lao động và cạnh tranh thắng lợi. Để đạt được điều này, một mặt các chủ hộ phải sử dụng hiệu quả những kinh nghiệm sản xuất lâu đời, cha truyền con nối, mặt khác phải áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ mới vào sản xuất kinh doanh. Ở đây động cơ lợi nhuận và lợi ích kinh tế là động lực thúc đẩy hộ gia đình áp dụng tiến bộ khoa học công nghệ vào sản xuất. Nó là một quá trình tự giác gắn với lợi ích thiết thực từng hộ gia đình, khác với việc áp dụng kỹ thuật, công nghệ trong chế độ kinh tế của hợp tác xã trước đây. Thông qua việc áp dụng các tiến bộ khoa học và công nghệ vào sản xuất kinh doanh ở từng hộ cũng đồng thời diễn ra quá trình sàng lọc và cải tiến kỹ thuật làm cho nó thực sự thích ứng và mang lại hiệu quả cao .Như vậy, kinh tế hộ gia đình vừa là nơi lưu giữ những kinh nghiệm truyền thống, vừa là nơi tiếp nhận, phát triển hoàn thiện thêm những công nghệ mới _ là điều kiện vững chắc đảm bảo cho việc nâng cao năng suất lao động và hiệu quả kinh doanh của hộ gia đình nông dân .
Cần phải tăng cường quan hệ liên kết giữa khoa học và sản xuất bởi vì có liên kết chặt chẽ mới nâng cao khả năng cạnh tranh nông sản, làm cho kết quả nghiên cứu khoa học gắn với thực tiễn. Nhà khoa học cần liên kết với nông dân trong việc xác định các nghiên cứu ưu tiên , chuyển giao các kỹ thuật tiên tiến vào sản xuất. Các nhà khoa học sẽ hỗ trợ nông dân nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm. Ngược lại, họ sẽ có thị trường để bán các sản phẩm khoa học, công nghệ của họ và áp dụng các công trình nghiên cứu ấy vào sản xuất. Các hộ gia đình nông dân cần nhà khoa học cung cấp giống, kỹ thuật quy trình sản xuất bảo quản chế biến đảm bảo sản xuất ra được nông sản có chất lượng, có sức cạch tranh trên thị trường. Như vậy, Nhà nông là người làm ra sản phẩm, song để nâng cao chất lượng, số lượng, chủng loại các sản phẩm phải dựa vào các nhà khoa học .
Nhà khoa học cung cấp giống, kỹ thuật, quy trình sản xuất, bảo quản, chế biến đảm bảo cho nhà nông sản xuất ra được nông sản có chất lượng các nhà khoa học có vai trò rất lớn trong việc giúp nông dân kỹ thuật tiên tiến để nâng cao năng suất chất lượng nông sản, tăng giá bán và tăng sức cạnh tranh của nông sản hàng hoá, giảm chi phí sản xuất. Mặt khác do xuất phát từ thực tiễn ở nước ta hiện nay, quá trình nghiên cứu và ứng dụng không gắn kết với nhau, có khi còn có khoảng cách rất lớn, nhiều kết quả nghiên cứu đã không ứng dụng được trong thực tiễn hoặc được ứng dụng nhưng không mang lại kết quả cao. Do đó đòi hỏi phải tăng cường quan hệ liên kết.