Sông Vàm Nao
, hay Vàm Lao, Vàm Giao, tên chữ là Hồi Oa, hay Vàm Giao Giang và tên Khmer là pãm pênk Nàv, là một dòng sông tại tỉnh An Giang, nối sông Tiền với sông Hậu. Vàm Nao có vai trò quan trọng đối với đồng bằng sông Cửu Long về thủy lợi và giao thông vận tải. Vàm ...
, hay Vàm Lao, Vàm Giao, tên chữ là Hồi Oa, hay Vàm Giao Giang và tên Khmer là pãm pênk Nàv, là một dòng sông tại tỉnh An Giang, nối sông Tiền với sông Hậu. Vàm Nao có vai trò quan trọng đối với đồng bằng sông Cửu Long về thủy lợi và giao thông vận tải. Vàm Nao còn nổi tiếng vì là nơi xảy ra trận thủy chiến khốc liệt giữa quân Việt và quân Xiêm vào cuối năm 1833, và còn vì các đặc sản như cá hô, cá bông lau...
dài 6,5 km[1], rộng bình quân 700m, độ sâu trên 17m, một bờ thuộc xã Kiến An (huyện Chợ Mới), một bờ thuộc xã Tân Trung (huyện Phú Tân), chảy theo hướng Đông Bắc - Tây Nam nối liền sông Tiền với sông Hậu. Đây là một tuyến giao thông đường thủy quan trọng ở đồng bằng sông Cửu Long, thuộc hệ thống sông ngòi do trung ương quản lý [2].
Tương truyền, thuở xa xưa, nguyên sông này là con đường của những đàn voi và trâu rừng đi, lâu ngày thành con rạch nhỏ, rồi dần dần bị áp lực của sông Tiền và sông Hậu chảy xiết, mà thành một con sông rộng lớn ngày nay.
Và sở dĩ có tên Hồi Oa (nước xoáy tròn) hay Vàm[3]Nao, với nghĩa "nao núng, nao lòng", là vì hàng năm vào khoảng tháng 7 cho đến tháng 10 âm lịch (cư dân miền Tây Nam Bộ gọi là mùa nước nổi), nước sông đỏ ngầu từ thượng nguồn, theo hai nhánh sông Tiền, sông Hậu cùng cuồn cuộn đổ về, rồi giao nhau nên xoáy tròn như thác lũ... Do đó, người chưa quen cách chèo lái khi qua khúc sông này, thường sợ hãi vì rất dễ đắm thuyển.
Về sau triều đình Huế cho Hán hóa tên Vàm Nao và muốn cho nó nên thơ và đừng nao nữa, nên ban cho nó cái tên Thuận Giang hay Thuận Cảng [4].
Hiện nay, chính quyền đang triển khai dự án kiểm soát lũ Bắc Vàm Nao [5].
Vào năm Quý Tỵ (1833), theo lời cầu viện của Lê Văn Khôi, vua Xiêm sai tướng Chiêm Phi Nhã Chất Tri (Chao Phraya Chakri Bodin, Chao Phraya Chakri hay Chao Phraya Bodin) và Chiêu Phi Nhã Phật Lăng (Chao Phraya Phra Klang) đem 20 vạn quân cùng với 350 chiến thuyền, chia làm 5 đạo, bằng nhiều hướng đánh vào một số tỉnh ở miền Trung, Châu Đốc và Hà Tiên[6].
Ngày 28 tháng 11 năm 1833, quân Trương Minh Giảng trên đến Vàm Nao thì hay tin Hà Tiên đã thất thủ. Quân Xiêm theo đường kênh Vĩnh Tế chiếm Châu Đốc. Quân Việt đành phải rút về Đông Khẩu (Sa Đéc) để bảo toàn lực lượng. Trước tình hình nguy ngập này, Tướng Giảng và tướng Nguyễn Xuân tức tốc chiếm giữ Vàm Nao và cho người cấp báo về Huế xin viện binh...Ở Châu Đốc, sau khi chuẩn bị xong, thủy quân Xiêm tiến xuống sông Vàm Nao.
Sách Địa chí An Giang kể:
...Chiều ngày mùng 4 tháng Chạp năm 1833,lợi dụng rừng rậm um tùm hai bên bờ sông, quân ta chiếm đóng và sẳn sàng ứng chiến. Đúng canh tư, quân ta bất ngờ đánh úp quân giặc. Với sự giúp sức của các tướng sĩ ở Vĩnh Long, Định Tường và Gia Định, chẳng bao lâu, thì đẩy lùi được quân Xiêm. Mười lăm chiến thuyền giặc bị nhấn chìm, ta thu được nhiều súng ống và đạn dược...[7]
Bị thua nặng, quân Xiêm rút về Châu Đốc. Tháng Giêng năm Giáp Ngọ (1834), quân Xiêm lại tràn xuống theo ngã Sông Tiền. Quân Việt lui đến Cù Hu[8] thì đánh tan được quân Xiêm, buộc họ phải lui về Chân Lạp. Sau đó, quân Xiêm lại tổ chức tấn công. Lần này thì bị Vệ úy Phạm Hữu Tâm đánh tan, toàn bộ quân Xiêm phải tháo chạy hết về nước.
Người ta kể rằng năm 1819, Thoại Ngọc Hầu được nhận lệnh đào kênh Vĩnh Tế[9] để nối liền Châu Đốc và Hà Tiên. Lúc bấy giờ, trọn vùng đào con kênh này hãy còn hoang vu, rừng thiêng, nước độc và đầy thú dữ. Vì nguy hiểm, bệnh tật, kham khổ quá, nên một số dân phu sau đó tìm đường trốn tránh. Và khi đến con sông Vàm Nao này, họ tự kết bè chuối vượt sông, nhưng đa phần họ đều bị sóng to nhấn chìm hay làm mồi cho cá dữ.
Lúc Bùi Hữu Nghĩa bị đày làm lính coi giữ đồn ở Vĩnh Thông (thuộc Châu Đốc), có đi qua Núi Sập và sông Vàm Nao, thấy muỗi nhiều và sóng gió to, phải buộc miệng than rằng:
Núi Sập sấm rền vang tiếng muỗi,
Vàm Nao nước chảy đứt đuôi xà...
(Đi thuyền qua Thoại Sơn)
Còn Nguyễn Liên Phong thì mô tả sông Vàm Nao như sau:
Chỗ nhằm mũi nước chảy qua quanh dòng
Sông sau, sông trước hai dòng
Phân ra hai ngã ngoài trong vận dào
Các ngã gần chảy nhập vào,
Tục kêu là xứ Vàm Nao rõ ràng…
(Nam Kỳ phong tục nhơn vật diễn ca, năm 1909)
Đại Nam Nhất thống chí ghi nơi khúc sông này có đồn Hồi Oa. Vào năm 1787, Nguyễn Phúc Ánh từ nước Thái Lan về, liền hội binh ở đây để chống lại với quân Tây Sơn. Năm Tự Đức thứ 2 (1849)[10], đốc thần Doãn Uẩn phỏng tra việc cũ, cho dựng bia trên nền xưa, để ghi thắng tích. [11]
Ngoài lợi ích về mặt giao thông thủy, khi xưa nơi đây là một ổ cá lớn với nhiều chủng loại, nhưng có tiếng nhất là cá hô[12] và cá bông lau[13]...
Thuyền xuôi Châu Đốc, thả xuống Vàm Nao,
Thẳng tới Ba Sao, coi chừng con nước đấy.
Ngó lên Châu Đốc, Vàm Nao
Thấy tàu giặc chạy như dao cứa lòng.
Vàm Nao, Giao Lửa các cồn,
Tục dân cư xử lưu tồn cổ phong.
Bắp non mà nướng cửa lò,
Đố ai ve được con đò Vàm Nao.
Tôi với Anh đi giữa dòng kênh Cái Hố,
Lấy miểng vùa tát cạn bến Vàm Nao.
Ở trên Châu Đốc, ngó xuống Vàm Nao
Thấy con cá đao nó nhảy nhào vô lưới,
Anh ngồi chắc lưỡi,
Không biết chừng nào mới cưới đặng em.