Soạn bài Nhớ rừng trang 3 SGK Văn 8
Soạn bài Nhớ rừng trang 3 SGK Văn 8 3. Với hình ánh con hổ, tác giả đã có một biếu tượng rất thích hợp và đẹp đẽ đế thể hiện chủ đề bài thơ. ...
Soạn bài Nhớ rừng trang 3 SGK Văn 8
3. Với hình ánh con hổ, tác giả đã có một biếu tượng rất thích hợp và đẹp đẽ đế thể hiện chủ đề bài thơ.
1. Bài thơ chia làm 5 đoạn với nội dung mỗi đoạn:
- Đoạn 1: Cảnh ngộ bi kịch — bị tù hãm, bị biên thành thứ đồ chơi cua đám người nhỏ bé mà ngạo mạn, ngang bầy vói “bọn gấu dở hơi”, “cặp báo (...) vô tư lự’ và tâm trạng uất hận, ngao ngán đành buông xuôi bất lực cua con hổ.
- Đoạn 2 và đoạn 3: Nỗi nhung nhớ, niềm khao khát tự do mãnh liệt qua hoài niệm về cảnh núi rừng đại ngàn dữ dội, kỳ vĩ tương xứng với vẻ đẹp oai hùng, sức mạnh vô biên của vị chúa sơn lâm.
- Đoạn 3, ngoài nỗi nhớ, niềm khao khát tự do và sự kiêu hãnh còn có cả nỗi thất vọng, nuối tiếc với tiếng thở dài chua xót của chúa te rừng xanh: “Than ôi! Thời oanh liệt nay còn đâu?”.
- Đoạn 4: Sự khinh ghét của con hổ về vẻ đơn điệu, tầm thường và giả dối của cảnh vườn Bách thú, nơi hoàr toàn đối lập với chốn núi rừng thâm nghiêm, hùng vĩ...
- Đoạn 5: Niềm đau đớn và vô vọng của kẻ anh hùng sa cơ, đành thả hồn trong “giấc mộng ngàn to lớn” - giấc mộng về rừng thẳm, giấc mộng tự do.
2. Bài thơ có sự tương phản gay gắt giữa cảnh vườn Bách thú, nơi con hổ bị nhốt (đoạn 1 và đoạn 4) với cảnh núi rừng hùng vĩ, nơi con hổ ngự trị những ngày xưa (đoạn 2 và 3)
a/ Cảnh nơi vườn Bách thú tù túng (cũi sắt), nhàm tẻ (những cảnh “không đời nào thay đổi”, nhân tạo (chứ không phải là thế giới của tự nhiên), đều do bàn tay sửa sang, tỉa tót của con người và hết sức tầm thường giả dối, “học đòi, bắt chước” đại ngàn hoang vu.
Đối lập với cảnh vườn Bách thú tầm thường là cảnh núi rừng oai linh, hùng vĩ với vẻ thâm nghiêm bóng cả cây già chứa đựng nhiều bí ẩn: “hang tối”, “thảo hoa không tên tuổi”, “rừng sâu bí mật”, với nhừng thanh âm dừ dội, man dại, “gió gào ngàn”, “nguồn hét núi”. Cảnh vật không chỉ oai hùng, linh nghiêm mà còn rực rỡ vô cùng, “những đên: vàng bẽn bờ suối”, “những ngày mưa chuyển bốn phương ngàn”, “những bình minh cây xanh nắng gội”, những chiểu lênh lảng máu sau rừng”, tươi vui vô cùng: “tiếng chim ca giấc ngủ ta tưng bừng”.
b) Đoạn 2 và 3 là hai đoạn hay nhất của bài thơ miêu tả cảnh rừng núi đại ngàn phóng khoáng dữ dội mà thơ mộng và hình ảnh vị chúa rừng xanh uy nghi, lẫm liệt ngự trị trong vương quốc cùa nó.
- Ớ đây, tác giả đã sử dụng những động từ, tính từ mạnh đế dựng nén sự kỳ vĩ của núi rừng cũng như tư thế uy nghi cua con mãnh thú: tung hoành, hống hách, gào, hét, thét, dữ dội, dõng dạc, cuộn, quắc. Cộng thêm là cách dùng đại từ xưng hô “Ta” đầy quyền uy và kiêu hành, góp phần tôn xưng tư thế vị chúa sơn lâm.
- Hình ảnh phong phú, gợi cảm, đặc biệt giàu chất tạo hình.
Giữa cảnh núi rừng kì vĩ hiện lên (hình ảnh) oai linh của chúa sơn lâm. Trước khi đế con hổ xuất hiện, tác giả dựng nên một không gian rộng lớn, một không khí oai hùng kinh sợ. Khi rừng xanh “thét gào khúc trường ca dữ dội, chúa sơn lâm xuất hiện. Trước hết là bàn chân, một bước chân dõng dạc đường hoàng và sau đó mới là tấm thán với chiều dài uốn lượn của tấm lưng “lượn tấm thân như sóng cuộn nhịp nhàng vờn bóng âm thầm lả gai, cỏ sắc ’ rất uyên chuyến, mồm mại - một vẻ đẹp của sự “tích trữ sức mạnh” (Vũ Quốc Phương). Cuối cùng, tác giả tập trung thế hiện ánh mắt “mắt thần khi đã quắc là khiến cho mọi vật đều im hơi”. Cách chọn lựa các chi tiết đà giúp tác giả thê hiện được vẻ đẹp vừa dũng mãnh vừa mềm mại cúa chúa sơn lâm. Nếu đoạn 2, Thế Lừ tập trung thế hiện các chi tiết của động tác con mãnh thú thì đoạn 3 ông dựng nên những chi tiết lấy từ sinh hoạt của ác thú, từ đó, người đọc cảm nhận đầy đủ vẻ đẹp và sức mạnh của chúa rừng xanh. Có bốn cảnh như một bộ tứ bình với nhừng nét đậm rõ, những mảng màu lớn đậm: đêm trăng, ngày mưa, sáng xanh chiều đỏ. Đối diện với bốn khung cảnh của thiên nhiên vũ trụ. con hố đều ở thế chế ngự với nhừng tư thế chủ động. Có khi là thi sĩ mơ màng “đứng uống ánh trõng tan”, khi là nhà hiền triết "lặng ngắm giang san”, khi thành bậc đế vương có “chim ca” hầu ugiấc ngu", khi lại là bạo chúa làm chú bóng tối
Ở đoạn 3, sức mạnh của con mành thú không còn giới hạn chỉ trong xứ sờ cua mình mà mở ra phạm vi VÜ trụ. Tập trung khắc họa uy quyền của vị chúa té rừng xanh, vù trụ là hình ảnh:
Đâu những chiểu lênh láng máu sau rừng
Ta đợi chết mảnh mặt trời gay gắt
Để ta chiếm lấy riêng phần bi mật
Hình ảnh rực rờ và dễ sợ trong gam màu đỏ của máu lênh láng. Nhưng đây không phai màu cua con thú rừng xấu số nào đó mà của mặt trời trong giây phút hấp hôi. Ánh tà dương lúc mặt trời sắp tắt qua cảm nhận của con mãnh thú chính là sắc màu lênh láng đỏ. Nếu từ “chết" biến mặt trời thành một sinh thể đang hấp hối sau cuộc đọ sức ghê gớm thì từ “mảnh” đã nâng cao vị thế chúa son l.-.m. Dưc CGT mắt cùa nó, mặt trời cũng chi là “mánh” mà thòi, thật nho be va hại! Bàn chân ngạo nghề của con thú như đã dẫm đạp lên cả bầu trời và cái bóng cúa nó như bao trùm cả vũ trụ. Thế Lữ, với hình ảnh đà nâng con mành thú này lèn tầm vóc vũ trụ với bút pháp cường điệu.
- Giọng điệu rất phong phủ: khi hào hùng sôi nối mà đĩnh đac (Thuở tung hoành hống hách /những ngày xưa... Giữa chốn thảo hoa không tên, không tuổi), khi than thở nuối tiếc mà xót xa, mà chất ván Giọng điệu đó phù hợp tâm trạng COI1 hô từ đinh cao huy hoàng cua sư hồi tưởng, hố sực tính cảnh ngộ tù hàm.
d. Với việc tạo dựng hai cánỉì tượng đối lập như đà nêu trên, Thế Lữ đã thể hiện thành công tâm sự con hố ỏ' vuờn Bách thú. Đó là nỗi bất hòa, chán ghét thực tại tầm thường, tù túng và niềm khao khát tự do mãnh liệt.
Trước hết đây là tâm trạng cua nhân vật lãng mạn: khát khao vưon tới cái cao cả, phi thường, không chấp nhận cái tầm thường, vò nghĩa. Khao khát ấy là một cách thức khăng định cái “tôi”, khang định ca tính. Với khao khát đó, con người lãng mạn mang tâm trạng bát hòa với thực tại, bởi thực tại chi là tầm thường bó buộc, giam hàm, (tối lập với ước mơ, sự tự do, cái cao cá.
Hơn thế, có ý kiến cho rằng tâm sự con hố ở đây có bóng dáng xa gần với tâm trạng người dân Việt Nam mất nước lúc bấy giờ. Họ cùng sống trong cảnh nô lệ “bị nhục nhằn tù hãm”, cùng “ngậm một khối căm hờn trong cũi sát”, cùng tiếc nhớ khôn nguôi "thời oanh liệt" với những trang sử vẻ vang của cha ông.
3. Với hình ánh con hổ, tác giả đã có một biếu tượng rất thích hợp và đẹp đẽ đế thể hiện chủ đề bài thơ. Con hổ có một vẻ đẹp oai hùng, lại được coi là chúa sơn lâm, huy hoàng đầy hống hách ớ chốn đại ngàn sâu thăm, trong vũ trụ rộng lón, hay bị giam hãm trong cũi sắt là biếu tượng rất đắt về anh hùng chiến bại mang tâm sự u uất. U uât vì tù túng, mà phái chấp nhận cái té nhạt, tầm thường. Cảnh rừng khoáng đạt, hùng vĩ - giang sơn cua chúa sơn lâm - là biéu tượng của thế giới rộng lớn, tự do và cao ca. Với hình anh có ý nghĩa biêu tượng đó, nhà thơ rât thuận lợi trong việc nói lên tâm sự vã cảm hứng lãng mạn cua mình.
4. Dàn ý sơ lược:
a. Giải thích ý kiến:
- Hoài Thanh đề cập đến nội dung cảm xúc mãnh liệt tương ứng với một hình thức thê hiện khoáng đạt, linh hoạt.
— Từ đỏ. òng đánh giá tài nghệ của Thê Lữ trong việc “điếu khiển đội quân Việt ngữ”.
b. Chứng minh ỷ kiến của Hoài Thanh: ý kiến đó được thế hiện rò ờ những khía cạnh:
— Cảm xúc phong phú, mãnh liệt
- Sự mãnh liệt của cảm xúc thể hiện qua:
+ Giọng thơ sôi nổi, da diết và hùng tráng với nhịp điệu linh hoạt
+ Mạch thơ cuồn cuộn, dạt dào.
+ Hình ảnh thơ rực rỡ giàu tính tạo hình, biểu cảm với những so sánh và ẩn dụ táo bạo.
+ Từ ngữ phong phú được sử dụng rất ấn tượng, đắc địa.
Tóm lại, “Nhớ rừng” là một “khúc trường ca dữ dội” thế hiện tâm trạng vĩ đại của chúa sơn lâm đồng thời là một tác phẩm hội họa hoành tráng, kì vĩ làm hắn lên mặt bằng câu chữ hình tượng vị “chúa tế cả muôn loài”.