Soạn bài Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga trang 109 SGK Văn 9
Soạn bài Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga trang 109 SGK Văn 9 2. Hành động nghĩa hiệp của Lục Vân Tiên trong đoạn truyện gợi nhớ tới hoạt động của một nhân vật trong truyện cổ là chàng Thạch Sanh đánh đại bàng, cứu công chúa Quỳnh Nga. ...
Soạn bài Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga trang 109 SGK Văn 9
2. Hành động nghĩa hiệp của Lục Vân Tiên trong đoạn truyện gợi nhớ tới hoạt động của một nhân vật trong truyện cổ là chàng Thạch Sanh đánh đại bàng, cứu công chúa Quỳnh Nga.
1. Truyện Lục Vân Tiên cũng như các truyện truyền thống trong văn học Việt Nam thường có kiểu kết cấu ước lệ, gần như đã thành khuôn mẫu. Người tốt thường gặp nhiều gian truân, trắc trở trên đường đời, bị kẻ xấu hãm hại, lừa lọc, nhưng họ vần được phù trợ, cưu mang, giúp đỡ, cuối cùng đều nạn khỏi tai qua, được đền trả xứng đáng, kẻ xấu phải bi trừng trị. Đối với loại văn chương nhằm tuyên truyền đạo đức, kiểu két cấu đó vừa phản ảnh chân thực cuộc đời vốn đầy rẫy những sự bất cõng, vô lí, vừa nói lên khát vọng ngàn đời của nhân dân ta: ở hiền thì gặp lành, thiện thắng ác, chính nghĩa thắng gian tà.
2. Hành động nghĩa hiệp của Lục Vân Tiên trong đoạn truyện gợi nhớ tới hoạt động của một nhân vật trong truyện cổ là chàng Thạch Sanh đánh đại bàng, cứu công chúa Quỳnh Nga.
- Lục Vân Tiên là một nhân vật lý tưởng của tác phẩm. Đây là chàng trai vừa rời trường học bước vào đời, lòng đầy hăm hở, muốn lập công danh (“Danh tôi đặng rạng, tiếng thầy bay xa”), cũng mong thi thố tài năng cứu người, giúp đời. Gặp tình huống “bất bằng” này là một thử thách đầu tiên, cũng là một cơ hội hành động.
Hoạt động đánh cướp bộc lộ trước hết tính cách anh hùng, tài năng và tấm lòng vị nghĩa của Vân Tiên. Chàng chỉ có một mình, hai tay không trong khi bọn cướp đông người, gươm giáo đầy đủ, thanh thế lầy lừng “Người đều sợ nó có tài khôn dương”. Vậy mà Vân Tiên vẫn bẻ cây làm gậy xông vô đánh cướp. Hình ảnh Vân Tiên trong trận đánh được miêu tả thật đẹp - vẻ đẹp của người dũng tướng cũng theo phong cách văn chương thời xưa nghĩa là so sánh với những mẫu hình lí tưởng như dũng tướng Triệu Tử Long mà người Việt Nam, đặc biệt là người Nam Bộ - vốn mê truyện Tam Quốc - không mấy ai không thán phục!
Hành động của Vân Tiên chứng tỏ cái đức của con người “vị nghĩa vong thân” (vì việc nghĩa quên thân mình), cái tài của bậc anh hùng và sức mạnh bênh vực kẻ yếu, chiến thắng những thế lực bạo tàn.
Thái độ cư xử của Kiều Nguyệt Nga sau khi đánh cướp lai bộc lộ tư cách con người chính trực, hào hiệp, trọng nghĩa khinh tài, cũng rất từ tâm, nhân hậu. Thấy hai cô gái còn chưa hết hãi hùng, Vân Tiên “động lòng” tìm cách an ủi họ “Ta đã trừ dòng lâu la" và ân cần hỏi han. Khi nghe họ nói muốn được lạy tạ ơn. Vân Tiên vội gạt đi ngay "Khoan khoan ngồi đó chớ ra.” Ở đây có phần câu nệ của lễ giáo nhưng chủ yếu là do đức tính khiêm nhường của Vân Tiên “Làm ơn há dễ trông người trả ơn”. Chàng không muốn nhận cái lạy tạ ơn của hai cô gái, từ chối lời mời về thăm nhà của Nguyệt Nga, để cha nàng đền đáp, và ờ đoạn từ chối nhận chiếc trâm vàng của nàng, chỉ cùng nhau xướng họa một bài thơ rồi thanh thản ra đi, không hề vấn vương. Dường như đối vơi Vân Tiên, làm việc nghĩa là một bổn phận, một lẽ tự nhiên, con người trọng nghĩa khinh tài ấy không coi đó là công trạng. Đó là cách cư xử mang tinh thần nghĩa hiệp của các bậc anh hùng hảo hán.
Với những nét tính cách đó, hình ảnh Lục Vân Tiên là một hình ảnh đẹp, hình ảnh mà Nguyễn Đình Chiêu gửi gắm niềm tin và ước vọng của mình.
3. Những nét đẹp tâm hồn của Kiều Nguyệt Nga
- Trước hết, đó là lời lẽ của một cô gái khuê các, thùy mị, nết na, có học thức: cách xưng hô: “quân tử”, “tiện thiếp" khiêm nhường; cách nói năng văn vẻ, dịu dàng, mực thước (“Làm con đâu dám cãi cha”, “Chút tôi liễu yếu đào tơ, Giừa đường gặp phải bụi dơ đã phần”), cách trình bày vấn đề rõ ràng, khúc chiết, vừa đáp ứng đầy đủ những điều thăm hỏi ân cần của Lục Vân Tiên, vừa thể hiện chân thành niềm cảm kích, xúc động của mình:
Trước xe quân tử tạm ngồi,
Xin cho tiện thiếp lạy rồi sẽ thưa.
- Nguyệt Nga là người chịu ơn, lại là một cái ơn trọng, không chỉ là ơn cứu mạng, mà còn cứu cả cuộc đời trong trắng của nàng (đối với người con gái, điều đó còn quý hơn tính mạng)
Lâm nguy chằng gặp giải nguy,
Tiết trăm năm cũng bỏ đi một hồi.
Nàng thấy rất áy náy, băn khoăn tìm cách trả ơn chàng, đủ hiểu rằng có đền đáp đến mấy cũng là chưa đủ:
Lấy chi cho phỉ tấm lòng cùng ngươi.
Bởi thế, cuối cùng nàng đã tự nguyện gắn bó cuộc đời với chàng trai khảng khái, hào hiệp đó, và đã dám liều mình để giữ trọn ân tình, thủy chung với chàng.
Nét đẹp tâm hồn đó đã làm cho hình ảnh Kiều Nguyệt Nga chinh phục được tình cảm yêu mến của nhân dân, những con người bao giờ cũng rất xem trọng ơn nghĩa “ơn ai một chút chẳng quên".
Nhân vật trong đoạn truyện được miêu tả qua hoạt động, cử chỉ, lời nói. Nhân vật ở đây thường được đặt trong những mối quan hệ xã hội, trong những tình huống, những xung đột của đời sống rồi bằng hoạt động cử chỉ, lời nói của mình, nhân vật tự bộc lộ tính cách và chiếm lĩnh tình cảm yêu hay ghét của người đọc, người nghe. Thêm vào đó nhiệt tình ngợi ca hay phê phán của tác giả cũng làm cho nhân vật trở nên sống động, để lại những ấn tượng khó quên.
5. Nhận xét về ngôn ngữ của tác giả trong đoạn thơ
- Ngôn ngữ mộc mạc, bình dị, gần với lời nói thông thường và mang màu sắc địa phương Nam Bộ. Nó có phần thiếu trau chuốt, uyển chuyển nhưng lại phù hợp với ngôn ngữ người kể chuyện, rất tự nhiên, dễ đi vào quần chúng.
- Ngôn ngữ thơ đa dạng, phù hợp với diễn biến tình tiết: Lời lẽ mộc mạc nhất là ở đoạn đầu. Giữa không khí cuộc chiến đang sôi sục, một bên là lời Vân Tiên đầy phẫn nộ, một bên là lời tên tướng cướp hống hách, kiêu căng. Đến đoạn đối thoại cuối giữa Vân Tiên và Nguyệt Nga thì lời lẽ mềm mỏng, xúc động, chân thành.