25/05/2018, 14:40

Siêu họ Cá nhà táng (Physeteroidea)

Siêu họ Cá nhà táng (danh pháp khoa học: Physeteroidea) là một siêu họ chứa 3 loài còn sinh tồn trong 2 họ thuộc phân bộ cá voi có răng (Odontoceti): * Họ Cá nhà táng (Physeteridae): - Chi Physeter + Cá nhà táng, Physeter macrocephalus ...

Siêu họ Cá nhà táng (danh pháp khoa học: Physeteroidea) là một siêu họ chứa 3 loài còn sinh tồn trong 2 họ thuộc phân bộ cá voi có răng (Odontoceti):

* Họ Cá nhà táng (Physeteridae):

- Chi Physeter

+ Cá nhà táng, Physeter macrocephalus

* Họ Cá nhà táng nhỏ (Kogiidae)

- Chi Kogia

+ Cá nhà táng nhỏ, Kogia breviceps

+ Cá nhà táng lùn, Kogia sima

Trong quá khứ, 2 chi này được xếp trong cùng 1 họ Physeteridae với 2 loài thuộc chi Kogia được xếp trong 1 phân họ (Kogiinae), tuy nhiên hiện nay chi Kogia nằm trong 1 họ riêng - họ Kogiidae tách ra từ họ Physeteridae. Như vậy họ Physeteridae chỉ còn 1 loài duy nhất được biết đến.

Cá nhà táng (Physeter macrocephalus)

Trong tiếng Anh, cá nhà táng (Sperm Whale) có nghĩa là cá voi tinh dịch, và tên gọi này xuất phát từ các thủy thủ săn cá voi khi họ tưởng rằng chất dầu trên đầu cá nhà táng (sáp cá nhà táng) chính là tinh dịch của nó.

Cá nhà táng là loài lớn nhất trong phân bộ cá voi có răng, con đực trưởng thành có thể dài 15-18 m (50-60 ft), nặng 45-70 tấn. Hai loài cá voi lùn và nhỏ thì nhỏ hơn nhiều, dài 2,5 tới 3,5m (9-11 ft), nặng khoảng 350-500 kg (770-1.100 lb).

Hóa thạch cá nhà táng cổ nhất được tìm thấy tồn tại ở cuối thế Oligocen - khoảng 25 triệu năm trước, cùng với một họ hàng của nó cuối thế Eocen trước khi chúng tách ra thành phân bộ cá voi có răng Odontoceti.

Hóa thạch đã ghi nhận được cá nhà táng rất phổ biến trong thế Miocen, nơi những loài cá nhà táng nguyên thủy (như Zygophyseter và Naganocetus) đã tồn tại; một số hóa thạch khác chỉ ra rằng họ Cá nhà táng (Physeteridae) còn bao gồm các chi Ferecetotherium, Helvicetus, Idiorophus, Diaphorocetus, Aulophyseter, Orycterocetus, Scaldicetus và Placoziphius, trong khi đó hóa thạch của họ Kogiidae bao gồm Kogiopsis, Scaphokogia và Praekogia.Hóa thạch cổ nhất của họ Kogiidae được biết đến là cuối thế Miocen, khoảng 7 triệu năm trước.

* Bộ: Cá voi

- Phân bộ: Mysticeti

- Phân bộ: Cá voi có răng Odontoceti

+ Siêu họ Cá heo sông (Platanistoidea)

+ Họ Cá heo biển (Delphinidae)

+ Họ Cá heo chuột: (Phocoenidae)

+ Họ Kỳ lân biển: Monodontidae

+ Họ: Cá voi mỏ khoằm (Ziphiidae)

+ không phân hạng: Physeteroidea

  • Diaphorocetus (Tuyệt chủng)
  • Zygophyseter (Tuyệt chủng)
  • Brygmophyseter (= Naganocetus)(Tuyệt chủng)
  • Aulophyseter (Tuyệt chủng)
  • Họ Cá nhà táng (Physteridae)

* Cá nhà táng Physeter catodon (đồng nghĩa P. macrocephalus)

* Orycterocetus (Tuyệt chủng)

* Placoziphius (Tuyệt chủng)

* Idiophyseter (Tuyệt chủng)

* Physeterula (Tuyệt chủng)

- Họ Cá nhà táng nhỏ (Kogiidae)

* Cá nhà táng nhỏ Kogia breviceps

* Cá nhà táng lùn Kogia simus

* Scaphokogia (Tuyệt chủng)

0