Rủi ro trong tín dụng trong hoạt động kinh doanh của các ngân hàng thương mại
Nhiều nhà kinh tế học đã định nghĩa “ rủi ro “ theo các cách khác nhau . Frank Knight , một học giả người Mỹ đầu thế kỷ 20 định nghĩa “rủi ro là sự bất trắc có thể đo lường được “. Alain Willet cho rằng ” ...
Nhiều nhà kinh tế học đã định nghĩa “ rủi ro “ theo các cách khác nhau .
Frank Knight , một học giả người Mỹ đầu thế kỷ 20 định nghĩa “rủi ro là sự bất trắc có thể đo lường được “. Alain Willet cho rằng ” rủi ro là sự bất trắc có thể liên quan đến biến cố không mong đợi “. Còn Irving Perfer lại nói “ rủi ro là tổng hợp của những sự ngẫu nhiên có thể đo lường bằng xác suất “. Một nhà kinh tế học người Anh là Marilic Hurt Carty quan niệm “ rủi ro là tình trạng trong đó các biến cố xảy ra trong tương lai có thể xác định được “. Theo ông “ kinh nghiệm hoạt động của một doanh nghiệp có thể cung cấp chứng cứ của tần số các biên cố riêng biệt trong qua skhứ và do đó cho phép các nhà quản trị doanh nghiệp xác định được phân bố xác suất xuất hiện các biến cố trong tương lai . Như vậy, các định nghĩa tuy có khác nhau nhưng đều thống nhất ở một nội dung coi rủi ro là sự bất trắc khoong mong đợi, gây ra thiệt hại và có thể đo lường được .
Chính vì rủi ro gây ra mất mát thiệt hại nên không ai mong đợi. Song rủi ro là những bất trắc vì thế không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của con người . Tuy nhiên rủi ro lại có thể đo lường được và đây chính là cánh cữa hé mở cho các nhà kinh doanh đi vào thế giới rủi ro để tìm kiếm vận may . Canh tranh là đặc tính cố hữu của nền kinh tế thị trường và cạnh tranh thường mang lại rủi ro cho 1 bên nhất định . Vậy muốn thắng lợi trong cạnh tranh, muốn tồn tại và phát triển, các nhà kinh doanh phải tiên lượng trước xem cái gì đang chờ đón để có được những giải pháp ngăn ngừa, chấp nhận rủi ro ở mức hợp lý chứ không phỉa run sợ, né tránh rủi ro .
Đối với bản thân ngân hàng:
Rủi ro xảy ra có ảnh hưởng trực tiếp đến kinh doanh của ngân hàng, ảnh hưởng đến nguồn thu nhập , lợi nhuận ngân hàng, thậm chí ngân hàng phải lấy vốn tự có của mình để bù đắp các khoản thiếu hụt do rủi ro gây ra, lúc đó khả năng thanh toán của ngân hàng kém đi và lòng tin của khách hàng không còn nữa, người gửi tiền muốn rút tiền đề tránh rủi ro cho chính bản thân họ và người vay không muốn vay ở đó nữa, họ chuyển sang ngân hàng khác. Vì vậy, khi rủi ro ở mức nhỏ, ngân hàng có thể bù đắp bằng lợi nhuận kinh doanh hoặc bị lỗ, nhưng rủi ro ở mức độ nghiêm trọng, nguồn vốn tự có của ngân hàng không đủ để bù đắp thiệt hại, tất yếu sẽ dẫn ngân hàng đến bờ vục của sự phá sản . Như vậy rủi ro có thể làm đảo lộn thành quả hoạt động nhiều năm, thậm chí trở thành vấn đề sống còn của ngân hàng.
Đối với nền kinh tế :
Ngân hàng hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh tiền tệ tín dụng với tư cách là trung gian của đời sống kinh tế , nó có quan hệ trực tiếp và thường xuyên với các tổ chức kinh tế , vì vậy kinh doanh ngân hàng gặp phải rủi ro tất yếu sẽ gây ra những ảnh hưởng đối với nền kinh tế và đời sống kinh tế xã hội .Rủi ro làm cho lợi nhuận ngân hàng giảm, từ đó ngân hàng không có khả năng đáp ứng nhu cầu về vốn cho khách hàng và chi trả chậm đối với người cho vay. Vì vậy, xét trong nền kinh tế, rủi ro làm cho sản xuất bị đình trệ, các doanh nghiệp phải đóng cửa, hàng hoá không đủ đáp ứng nhu cầu của thị trường, tới một chừng mực nào đó làm giá cả hàng háo tăng vọt, đó chính kà một trong những nguyên nhân của lạm phát. Mặt khác, các ngân hàng thường lập một hệ thống chặt chẽ có mối liên hệ với nhau, khi một ngân hàng gặp phải rủi ro có nguy cơ dẫn đến phá sản dễ dàng kéo theo tình trạng khủng hoảng của cả hệ thống ngân hàng, gây mất ổn định trên thị trường tiền tệ. Đặc biệt trong điều kiện nền kinh tế phát triển, mọi hoạt động thanh toán giao dịch của khách hàng đều được thực hiện qua ngân hàng, các doanh nghiệp sông chủ yếu nhờ vốn ngân hàng, nên khi ngân hàng gặp rủi ro lớn có thể gây chậm trễ trong công tác thanh toán của khách hàng, làm cản trở trực tiếp quá trình chu chuỷen vốn , tất yếu làm giảm lợi nhuận kinh doanh của doanh nghiệp .
Đối với khách hàng :
Nếu rủi ro xảy ra từ phía ngân hàng, khách hàng có thể mất vốn dẫn đến khó khăn trong sản xuất kinh doanh .
Mặt khác nếu rủi ro xảy ra đối với chính khách hàng, các khoản nợ của họ sẽ trở thành các khoản nợ khó đòi, gây khó khăn và ảnh hưởng đến quan hệ của họ đối với ngân hàng. Khi đó khách hàng cần vốn họ buộc phải quan hệ với các ngân hàng khác và phải chịu một khoảng thời gian tìm hiểu gây trì hoãn cho quá trình sản xuất . Đông thời, nếu rủi ro lớn, chính họ sẽ bị phá sản .
Các loại rủi ro trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại :
Không một loại hình doanh nghiệp nào mà không phải đối đầu với nguy cơ rủi ro trong quá trình hoạt động kinh doanh . Nhưng với các dặc điểm , đặc thù của ngân hàng thương mại có thể kết luận hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ –tín dụng của ngân hàng gặp phải nguy cơ rủi ro cao hơn cả . Người ta có thể khái quát các loại rủi ro của một ngân hàng thương mại như sau :
Rủi ro tín dụng :
Đó là loại rủi ro khi người vay không trả được nợ ngân hàng . Đây là loại rủi ro lớn nhất , thường xuyên xảy ra và gây thiệt hại nhiều nhất cho ngân hàng thương mại . Hoạt động chủ yếu của ngân hàng thương mại là hoạt động tín dụng đầu tư . Thông thường đối với các ngân hàng trên thế giới nó mang lại 2/3 phần thu nhập , còn ở Việt nam là 90 % thu nhập của ngân hàng thương mại . Tuy mang lại nhiều thu nhập nhưng trong lĩnh vực này nếu gặp rủi ro thì hậu quả lại rất lớn, nhiều khi dẫn đến một ngân hàng. “Các khoản tiền cho vay CÓ xác suất vỡ nợ cao hơn các tài sản CÓ khác nên ngân hàng thu được lợi tức cao nhất nhờ vào các món cho vay “. Bất cứ một rủi ro nào của người đi vay đều có thể đưa đến rủi ro tín dụng cho ngân hàng . Vì vậy quản lý và ngăn ngừa rủi ro tín dụng là công việc khó khăn và phưc tạp không chỉ là riêng trách nhiệm của cán bộ tín dụng. Muốn phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng có hiệu quả, nhất thiết phải có sự phối hợp giữa các ngành, phải có những giải pháp đồng bộ hữu hiệu cả về môi trường kinh tế, cơ chế nghiệp vụ , công tác tổ chức, đào tạo cán bộ ... và các nguyên tắc thực thi các giải pháp đó.
Rủi ro nguồn vốn :
Loại rủi ro thường xảy ra do thừa hoặc thiếu vốn .
Rủi ro do thừa vốn (rủi ro do bị đọng vốn):
Một trong những khoản mục cầu thành nên những nghiệp vụ của một ngân hàng thương mại là nguồn tiền gửi của các tổ chức kinh doanh , cá nhân mà ngân hàng có thể nhận được . Đây chính là nghiệp vụ huy động vốn và sẽ là vốn hoạt động chủ yếu của ngân hàng . Vốn tự có chiếm tỷ lệ nhỏ .Nếu vì lý do nào đó, nguồn vốn bị ứ đọng, không thể cho hoặc không thể chuyển sang các loại tài sản Có khác để sinh lời thì sẽ dẫn đến tồn đọng số tiền dự trữ quá mức không sinh lãi mà đến kỳ hạn thì vẫn phải trả lãi cho số vốn huy động, vẫn phải trang trải chi phí nghiệp vụ ... và kết quả là sự thua lỗ trong kinh doanh . Nếu tình trạng này kéo dài mà ngân hàng không khắc phục thì sẽ dẫn đến đóng cửa ngân hàng .
Nguyên nhân đãn đến thừa vốn là do cơ cấu lãi suất không hợp lý, tình hình kinh tế xã hội không ổn định, công tác tiếp thị, thu hút ngân khách hàng kém hiệu quả... Vì vậy để khắc phục loại rủi ro này ngân hàng phải tìm kiếm biện pháp ngăn chặn từ các nguyên nhân trên .
3.2.3. Rủi ro do thiếu vốn:
Rủi ro này xảy ra khi ngân hàng không đáp ứng nhu cầu cho vay và đầu tư, thậm chí không đáp ứng nhu cầu thanh toán của khách hàng. Rủi ro này phát sinh từ chức năng chuyển hoá các kỳ hạn sử dụng vốn và nguồn vốn của các ngân hàng thương mại . Ngoài ra có thể vì lý do nào đó về chính trị, biến động giá cả, uy tín ngân hàng giảm sút mà hàng loạt khách hàng đồng loạt rút tiền, vượt quá khả năng quỹ bảo đảm thanh táon khiến co ngân hàng không đủ tiền để chi trả tại một thời điểm . Trường hợp này ngân hàng bị thiệt hại do mất tiền lãi hoặc chi phí cho việc thu lại các món vay chưa đến hạn, bán lại các chứng khoán, vay tái chiết khấu ngân hàng nhà nước và các ngân hàng thương mại khác, hậu quả nặng hơn, có thể vỡ nợ.
Rủi ro lãi suất:
Lãi suất là “chi phí để vay hoặc giá phải trả để thuê vốn trong một thời gian nào đó”. Trong cơ chế thị trường, lãi suất của ngân hàng thương mại được hình thành trên cơ sở lãi suất thị trường nên luôn biến động. Hiện tượng này có thể gây ra tổn thất cho các ngân hàng thương mại. Chẳng hạn, khi ngân hàng đã kí một hợp đồng cho vay với một kì hạn lãi suất cố định nhưng sau đó lãi suất thị trường lại tăng lên hoặc khi ngân hàng đã nhận khoản tiền gửi với lãi suất cố định song lãi suất thị trường lại giảm xuống thì ngân hàng đều phải chịu rủi ro do các chênh lệch biến động lãi suất đó. Ngoài ra sự giảm sút giá trị đồng tiền trong thời gian cho vay sẽ dẫn đến tình trạng mặc dù lãi suất cho vay không thay đổi nhưng lãi suất thực tế sẽ giảm sút. Giá trị thực tế vốn và lãi ngân hàng thu về thấp hơn so với vốn ban đầu bỏ ra. Rủi ro càng làm cho kinh doanh ngân hàng bị thua lỗ.
Rủi ro hối đoái:
Xuất phát từ định nghĩa “tỷ giá hối đoái là giá cả một đồng tiền tính ra một đồng tiền khác” nên tỷ giá cũng là một loại giá cả và cũng luôn biến động.
Rủi ro hối đoái sảy ra khi tỷ giá hôi đoái biến động, ngân hàng nắm giữ các chứng khoán, các khoản vay mượn ngaọi tệ, hoặc giữ ngoại tệ tiến mặt có thể gặp rủi ro khi tỷ giá biến động theo hướng bất lợi.Rủi ro trong thanh toán:
Rủi ro phát sinh trong quá trình thanh toán có thể do sai sót nghiệp vụ, bị lợi dụng trong thanh toán điện tử, thanh toán séc hoặc trong trường hợp ngân hàng đã thanh toán trước nhưng có thể sẽ không nhận được tiền từ bên đối tác.
Rủi ro thuần tuý:
Đó là loại rủi ro do thiên tai gây ra như bão lụt, động đất, hoả hoạn, hoặc các rủi ro do bị trộm cắp, lừa đảo, tệ nạn tham nhũng dẫn đến thiệt hại nặng nề về tài sản cho ngân hàng. Tuy nhiên bằng các biện pháp bảo hiểm và bảo vệ sẽ phần nào hạn chế được những thiệt hại khi rủi ro này xảy ra.
Rủi ro do mất khả năng thanh toán (rủi ro vỡ nợ):
Đây là loại rủi ro riêng có và liên quan dến sự sống còn của một ngân hàng. Rủi ro nay thường là hậu của một hoặc nhiều rủi ro nói trên. Ngân hàng có thể mất khả năng thanh toán, thậm chí thâm hụt cả vốn tự có ít ỏi dẫn đến vỡ nỡ phá sản ngân hàng. Sự phá sản của một ngân hàng có nguy cơ kéo theo sự phá sản hàng loạt ngân hàng như hiện tượng ở Mỹ trong nhưng năm 30, những năm 80,... hoặc sự đổ vỡ hàng loạt quỹ tín dụng ở nước ta nhẵng năm cuối thập kỉ 80 vừa qua.
Như đã phân tích ở trên, hoạt động tín dụng mang lại lợi nhuận lớn nhất nhưng đồng thời mang lại rủi ro nặng nề nhất cho ngân hàng thương mại.
Tín dụng ngân hàng tham gia vào toàn bộ quá trình sản xuất lưu thông hàng hoá, ngay cả những hoạt động phi sản xuất cũng không thể thiếu sự hỗ trợ của tín dụng ngân hàng. Chính vì tín dụng ngân hàng tham gia vào mọi doanh nghiệp, mọi ngành, mọi lĩnh vực của nền kinh tế, mà mỗi ngành mỗi lĩnh vực kinh doanh lại có tính đặc thù, có sự phức tạp riêng, có những rủi ro riêng nên rủi ro tín dụng của ngân hàng mang tính tổng hợp và khả năng xuất hiện là lớn hơn các ngành khác.
Ngân hàng thương mại không chỉ chịu rủi ro trong việc lựa chọn khách hàng mà cònchịu rủi ro của khách hàng rủi ro tín dụng xảy ra khi bên vay trong giao dịch không thực hiện đươc theo thời gian và điều kiện hợp đồng làm người cho vay phải chịu tổn thất tài chính.
Các hình thức của rủi ro tín dụng
Rủi ro tín dụng có thể xảy ra ở 4 trường hợp đối với nợ lãi và nợ gốc. Đó là việc không thu được lãi đúng hạn hoặc không thu đủ lãi ,không thu được vốn đúng hạn hoặc không thu đủ vốn. Tuỳ trường hợp mà ngân hàng hạch toán vào các khoản mục theo dõi khác nhau như lãi treo hoặc nợ qúa hạn. Khi không thu được lãi đúng hạn ,nguy cơ rủi ro đang ở mức thấp và chỉ đưa vào mục lãi treo phát sinh. Nếu ngân hàng không thể thu đủ lãi thì sẽ có khoản mục lãi treo đóng băng,trừ những trường hợp ngân hàng miễn giảm lãi đó cho doanh ngiệp. Còn khi không thu được vốn đúng hạn, ngân hàng sẽ có khoản nợ quá hạn phát sinh. Tuy nhiên ,khoản này vẫn chưa thể coi là khoản mất mát hoàn toàn của ngân hàng vì có thể vì lý do nào đó doanh nghiệp chậm trả nợ gốc và sẽ trả sau hạn cam kết trong hợp đồng. Nếu như khoản này NH không thể thu hồi được(do doanh nghiệp bị phá sản cẳng hạn) thì lúc này ngân hàng coi như gặp rủi ro tín dụng ở mức độ cao vì đã phát sinh khoản nợ không có khả năng thu hồi ,trừ những trường hợp đặc biệt ,doanh nghiệp vay vốn hội tụ đủ các điều kiện theo quy định về xoá nợ thì NH có thể xem xét để xoá nợ cho doanh nghiệp.
Rủi ro tín dụng tồn tại dưới nhiều hình thức ,các hình thức đó luôn chuyển biến cho nhau,mà mức độ cuói cùng là nợ không có khả năng thu hồi. Khi nghiên cứu về rủi ro tín dụng người ta thường chú trọng vào các nguy cơ xảy ra rủi ro như lãi treo và đặc biệt là nợ phát sinh ,còn lãi treo đóng băng và nợ quá hạn không có khả năng thu hồi được coi là các tình huống rủi ro thực sự nên thường được xem xét để giải quyết hậu quả và rút ra bài học.
Nguyên nhân từ phía khách hàng
Trong nền kinh tế thị trường ,hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp thường xuyên phải đương đầu với cạnh tranh và chịu sự chi phối rất lớn của quy luật cung cầu ,giá cả thị trường ...nên cũng phải thường xuyên đối mặt với rủi ro từ nhiều phía kể cả các rủi ro thuần tuý như thiên tai,địchhoạ,trộm cắp...có khi do giá cả thay đổi ,khả năng quản lý kém ,sự thay đổi cơ chế chính sách của nhà nước ...dẫn đến thiệt hại cho doanh nghiệp làm cho KD gặp khó khăn thua lỗ,thậm chí phá sản .Đồng thời hoặt động KD của các doanh nghiệp cũng không thể thoát ly khỏi mối quan hệ với NH.Chính vì vậy rủi ro của NHTM là cộng hưởng rủi ro của các doanh nghiệp .
Nếu đứng trên góc độ tư cách đạo đức của người đi vay <khách hàng> thì nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng từ phía khách hàng có thể chia làn hai trường hợp lớn .Khách hàng gian lận hoặc khách hàng không gian lận
Khách hàng gian lận ,cố ý lừa ngân hàng .
Điều này được thể hiện qua việc gian lận về số liệu,giấy tờ ,quyền sở hữu tài sản .Doanh nghiệp có thể nộp báo cáo tài chính không chính xác,cố ý đưa ra số liệu sai sự thật ,phản ánh không đúng thực trạng SXKD và tình hình tài chính của đơn vị.Những món cho vay trên cơ sở nnhững thông tin giả như vậy dễ đưa đến rủi ro cho NH .Bên cạnh đó lợi dụng khe hở về giấy tờ sở hữu tài sản ,doanh nghiệp có thể đem thế chấp một tài sản ở nhiều ngân hàng khác nhau.Khi không thu được nợ,các NHTM phát mãi tài sản thì mới biết bị lừa
Ngoài ra, khách hàng có thể gian lận ngân hàng thể hiện qua việc sử dụng vốn vay không đúng mục đích, không đúng đối tượng kinh doanh, không đúng phương án đã nêu nên không trả được nợ đúng hạn hoặc không trả được nợ. Doanh nghiệp có thể vay vốn ngắn hạn nhưng lại dùng để mua sắm tài sản cố định và bất động sản. Việc giá nhà đất đột ngột giảm xuống làm doanh nghiệp kinh doanh nhà đất bị thua lỗ nặng không thể trả được nợ ngân hàng. Ngân hàng có phát mại tài sản thế chấp đi nữa cũng không đủ khoản cho vay vì tài sản thế chấp cũng là nhà đất nên cũng giảm giá trị.
Việc khách hàng gian lận gây ra rủi ro cho ngân hàng còn thể hiện qua những hoạt động của người đi vay có tư cách kém như cố tình không trả nợ ngân hàng hoặc lừa đảo ngân hàng rồi bỏ trốn.
Khách hàng không gian lận
Không chỉ khi khách hàng có ý không tốt ngân hàng mới gặp rủi ro mà ngay cả khi khách hàng đi vay có đủ tư cách, không có ý gian lận, ngân hàng vẫn có thể gặp rủi ro tín dụng. Đó là khi khách hàng có trình độ kém, năng lực quản lý yếu, không có đầu óc kinh doanh nên không thể đưa phương án kinh doanh của mình đạt hiệu quả, không thể đưa doanh nghiệp của mình thắng trong cạnh tranh nên việc trả nợ ngân hàng là rất khó khăn.
Ngoài ra, nếu doanh nghiệp bị lừa đảo trong kinh doanh hoặc bạn hàng của doanh nghiệp gặp rủi ro thì ngân hàng cũng gặp khó khăn trong việc thu nợ đúng hạn.
Bên cạnh đó, nhiều nguyên nhân rủi ro khách quan như thiên tai, trộm cắp có thể gây thiệt hại cho doanh nghiệp và có nguy cơ dẫn đến rủi ro tín dụng cho ngân hàng.
Nguyên nhân từ phía ngân hàng
Các khoản cho vay có vấn đề và các thiệt hại cho vay có thể xảy ra do sơ hở về thủ tục trong nội bộ ngân hàng. Đây được gọi là các hoạt động cho vay không hoàn hảo và nó xuất hiện do các nguyên nhân sau đây:
- Do thông tin tín dụng không đầy đủ. Ngân hàng có một cái nhìn không toàn diện về bản thân khách hàng cũng như tình hình tài chính của họ. Điều đó dẫn đến sự sai lệch trong việc đánh giá hiệu quả của các khoản vay, cho vay quá khả năng chi trả của khách hàng.
- Trình độ chuyên môn của cán bộ ngân hàng nói chung và của cán bộ tín dụng nói riêng còn hạn chế.
Hiện nay nhiều cán bộ tín dụng ngân hàng thiếu năng lực xử lý các thông tin tín dụng để bảo vệ và giám sát khoản vay. Cán bộ tín dụng không có khả năng phân tích thẩm định dự án; kiến thức thị trường, kiến thức xã hội cũng bị hạn chế nên nhều khi cho vay mà không đánh giá được liệu dự án hay phương án đó có khả thi không.
- Ngân hàng quá trú trọng về lợi tức, đặt mong muốn về lợi tức cao hơn các khoản cho vay lành mạnh, do vậy rủi ro của khoản vay càng cao.
- Sự cạnh tranh không lành mạnh với các ngân hàng khác để mong muốn có tỷ trọng cho vay nhiều hơn. Cạnh tranh không lành mạnh ở đây có thể hiểu rằng ngân hàng đã bỏ qua một số bước kiểm định các khoản cho vay, hạ thấp tiêu chuẩn tín dụng, đáp ứng nhu cầu của khách hàng ... nhằm lôi kéo khách hàng.
- Hoạt động kiểm tra, kiểm soát chưa được tiến hành thường xuyên. Nhân viên tín dụng không nắm bắt được tình hình tín dụng của khách hàng cũng như môi trường tín dụng của nền kinh tế. Do vậy, hoạt động sai sót, không nắm bắt kịp thời các khoản cho vay có vấn đề.
Nguyên nhân từ môi trường kinh doanh
Môi trường kinh tế
Trong nền kinh tế thị trường, chính sách kinh tế vĩ mô của chính phủ đóng vai trò quyết định đối với hoạt động của nền kinh tế quốc dân nói chung và lĩnh vực kinh doanh tiền tệ, tín dụng của các ngân hàng thương mại nói riêng.
Chính sách kinh tế vĩ mô của chính phủ bao gồm các chính sách về kinh tế, tài chính tiền tệ, kinh tế đối ngoại ... Chỉ cần chính phủ thay đổi một trong các chính sách trên, lập tức sẽ có ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp và người chịu tác động trực tiếp là các ngân hàng thương mại và hoạt động kinh doanh của ngân hàng khác nhau luôn gắn bó mật thiết với hoạt động của các doanh nghiệp. Chính vì vậy nếu chính sách kinh tế vĩ mô của Chính phủ đúng đằn phù hợp với thực tiễn thì nó sẽ góp phần thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả, nhưng ngược lại cũng sẽ kìm hãm sự phát triển sản xuất kinh doanh làm cho các doanh nghiệp gặp khó khăn thậm chí thua lỗ, phá sản.
Môi trường pháp lý:
Trong hoạt động kinh doanh, song song với hoạt động mang tính kĩ thuật nghiệp vụ và các hoạt động mang tính pháp lý như kí kết hợp đồng kinh tế, đầu tư tài chính tín dụng ... Tính pháp lý thể hiện ở các hoạt động kinh doanh luôn tiến hành dựa trên các quy định pháp luật, hay ní cách khác bị giới hạn trong khuôn khổ pháp luật.
Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, các yếu tố pháp lý là điều kiện đảm bảo cho hoạt động kinh doanh, đặc biệt là các hoạt động tín dụng của các ngân hàng thương mại. Nhưng cũng chính vì vậy, nếu môi trường pháp lý chưa hoàn chỉnh thiếu đồng bộ cũng sẽ gây khó khăn, bất lợi cho cả doanh nghiệp và ngân hàng.
Môi trường kinh tế, môi trường pháp lý tạo nên môi trường kinh doanh của các doanh nghiệp đồng thời tạo nên môi trường cho vay của các ngân hàng thương mại. Môi trường cho vay có ảnh hưởng, tác động tích cực hay tiêu cực đến hoạt động tín dụng , nó sẽ góp phần làm hạn chế hoặc tăng thêm rủi ro trong các hoạt động tín dụng của các NHTM.
Nguyên nhân từ môi trường xã hội:
Những biến động lớn về kinh tế chính trị trên thế giới luôn có ảnh hưởng tới công việc kinh doanh của các doanh nghiệp cũng như của các ngân hàng. Ngày nay, cùng với sự mở rộng giao lưu kinh tế, văn hoá, chính trị giữa các nước đời sống kinh tế thế giới cũng có nhiều biến đổi. Muốn phát triển kinh tế một cách toàn diện cần thực hiện mở cửa nền kinh tế để tiếp thu những thành tựu khoa học kĩ thuật hiệi đại của những nước phát triển, trao đổi, xuất nhập khẩu hàng hoá, dịch vụ với nước ngoài, đầu tư hoặc vay tiền của nước ngoài... Tất cảc các hoạt động đó tạo nên mối quan hệ kinh tế đối ngoại của mối quốc gia. Những thay đổi về chính trị rết có thể dẫn đến sự biíen động cán cân thương mại quốc tế, tỷ giá hối đoái giá các đồng tiền làm biến động thị trường trong nước như giá cả nguyên vật liệu, hàng hoá,dịch vụ, mức lãi suất thị trường, mức cầu tiền tệ... trực tiếp ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp và người chịu tác động là các ngân hàng thương mại.
Rủi ro tín dụng ẩn chứa trong các khoản cho vay có vấn đề, được biểu hiện bằng nhiều dấu hiệu. Tuy nhiên qua thực tiễn hoạt động tín dụng người ta cũng rút ra một số dấu hiệu cơ bản chỉ khó khăn tài chính của người đi vay và chính đó là những cảnh báo đối với cán bộ tín dụng, với ngân hàng. Ví dụ như :
- Việc trì hoãn nộp báo cáo tài chính:
Báo cáo tài chính là tài liệu quan trọng giúp ngân hàng hiểu được tình hình sản xuất kinh doanh năng lực tài chính của người đi vay, báo hiệu khả năng hoàn trả các khoản nợ. Việc trì hoãn nộp báo cáo tài chính có thể do nhiều nguyên nhân khác nhau nhưng có thể thấy được tình hình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp có những dấu hiệu không bình thường. Vì vậy, doanh nghiệp không muốn ngân hàng biết sớm về sự sút năng lực tài chính của mình.
- Gia tăng bất bình thường hàng tồn kho, các khoản bán chịu và các khoản nợ:
Định mức tồn kế hoạch nguyên liệu, hàng hoá hợp lí là điều kiện cần thiết để các doanh nghiệp đảm bảo ổn định sản xuất kinh doanh, song nếu mức tồn kho vượt quá mức giới hạn cho phép chứng to khả năng tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp là không bình thường. Sự gia tăng hàng tồn kho như giá cả, chất lượng, chủng loại hàng hoá ... dẫn đến doanh thu, thu nhập kém. Đồng thời với sự gia tăng tồn kho, giảm sút doanh thu thì các khoản vay cũng gia tăng chứng tỏ khả năng thanh toán của doanh nghiệp giảm sút làm cho khả năng trả nợ ngân hàng là khó khăn.
- Giảm bất thường giá bán:
Điều này nếu không nằm trong chiến lược marketing của doanh nghiệp thì tức là doanh nghiệp đang gặp khó khăn về tài chính.
- Hoàn trả nợ vay và lãi không đúng hạn:
Khi doanh nghiệp gặp khó khăn trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm thì luân chuyển vốn cũng mất ổn định dẫn đến khả năng thanh toán gặp nhiều khó khăn không thể hoàn trả nợ vay và lãi chi cho ngân hàng đúng kỳ hạn. Nếu tình trạng này diễn ra thường xuyên và mức độ ngày càng lớn thì đây chính là dấu hiệu rõ ràng nhất của rủi ro tín dụng.
Ngoài các dầu hiệu trên thì còn rất nhiều yếu tố khác như doanh nghiệp thay đổi tổ chức, công nhân không có việc làm hay quan hệ giữa ngân hàng và người vay trở nên kém thân thiện... cũng là những dấu hiệu của rủi ro tín dụng, đòi hỏi các cán bộ tín dụng phải sát với thực tiễn và có những biện pháp thích hợp làm giảm nguy cơ rủi ro có thể xảy ra.
Để hạn chế rủi ro tín dụng ngân hàng thương mại có thể sử dụng các biện pháp phòng ngừa rủi ro như sau:
Nghiên cứu khách hàng:
Khi giao tiền cho người vay ngân hàng chỉ có quyền sở hữu, quyền sử dụng đã trao cho người vay. Do đó, khi người vay sử dụng tiền không dúng mục đích, thì ngu cơ dẫn đến khoản vay không được hoản trả xuất hiện. Vì vậy, việc xem xét đánh giá khách hàng trước khi quyết định cho vay là một việc quan trọng. Các nguyên tắc cho vay và điều kiện đảm bảo tín dụng cơ bản mà hầu hết các ngân hàng đề ra là:
- Tư cách pháp nhân và uy tín của người vay .
- Mục đích sử dụng tiền vay, kế hoạch hoàn trả tín dụng.
- Các đảm bảo tín dụng các giá trị tài sản thế chấp, năng lực bảo lãnh, bảo hiểm của người vay.
Mặt khác, việc dánh giá khách hàng chúng ta có thể đánh giá qua người lãnh đạo của doanh nghiệp, các sản phẩm của doanh nghiệp, thị trường của doanh nghiệp.
San sẻ rủi ro.
San sẻ rủi ro là một biện pháp được nhiều ngân hàng sử dụng từ trước tới nay, san sẻ rủi ro có ba hình thức chủ yếu:
- Tránh dồn vốn: Cách phân phối tín dụng tốt nhất đối với một ngân hàng muốn tránh rủi ro là dải tiền của mình vào nhiều khoản đầu tư, nhiều khách hàng khác nhau. Không cho vay quá nhiều để sản xuất kinh doanh một hàng hoá đặc biệt là loại hàng hoá không thiết yếu, Nhà nước không khuýen khích sản xuất, năng lực cạnh tranh không ổn định quá trìng sản xuất kinh doanh dễ gặp rủi ro.
- Liên kết đầu tư: Nhằm cung cấp những khoản tín dụng lớn mà ngân hàng không đủ khả năng cho vay, khó xác định trước mức độ rủi ro. Các ngân hàng sẽ kết hợp với nhau thành từng nhóm cùng xem xét đánh giá khách hàng, phân tích khả năng sinh lời của dự án để đầu tư. Các ngân hàng cùng tham gia đầu tư phải kíy với nhau một hợp đồng liên kết thoả thuận rõ trách nhiệm và quyền hạn của từng thành viên.
- Bảo hiểm tín dụng: Là biện pháp rất an toàn, hiệu quả cao. Có 3 hình thức bảo hiểm tín dụng:
+ Khách hàng vay vốn mua bảo hiểm cho ngành nghề mà họ kinh doanh. đay là biện pháp mà khách hàng chủ động trang bị cho mình một sự bảo đảm khi sản xuất kinh doanh gặp rủi ro. Nguồn tiền từ việc mua bảo hiểm sẽ giúp cho họ trang trải được phần nào vốn vay ngân hàng.
+ Ngân hàng trực tiếp mua bảo hiểm của các tổ chức bảo hiểm chuyên nghiệp. Đây là hình thức bảo hiểm hay thực chất là ngân hàng san sẻ với các công ty bảo hiểm về những rủi ro mà họ phải gánh.
Thực hiện bảo đảm tín dụng:
Trong những trường hợp cần thiết như gặp những khách hàng chưa quen biết, mức độ tín nhiệm của ngân hàng với khách hàng chưa cao, đòi hỏi ngân hàng phải sử dụng các biện pháp tín dụng để giảm bớt mức độ rủi ro, tạo điều kiện thu hồi nợ chắc chắn.
- Bảo lãnh: Người bảo lãnh phải có đủ tư cách pháp nhân (nếu là một tổ chức), có đủ năng lực pháp lý và năng lực hàng vi (nếu là cá nhân), phải có đủ khả năng kinh tế để trả nợ thay trong trường hợp người vay không trả được nợ.
- Cầm cố: là việc ngân hàng cho khách hàng vay vốn bằng việc người vay đưa tài sản của mình đến ngân hàng đảm bảo cho khoản vay mà họ có thể nhận được món vay tối đa bằng 70% giá trị tài sản cầm cố. Đến hết thời hạn trả nợ mà người vay không chịu trả hoặc không có khả năng trả nợ thì ngân hàng sẽ bán đau giá vật cầm cố để thu hồi nợ.
- Thế chấp tài sản: khi sử dụng hình thức thế chấp phải sử lý chặt chẽ các vấn đề sau:
+ Tài sản đó thuộc quyền sở hữu hợp pháp của người vay và phải có giá trị trao đổi trên thị trường.
+ Tài sản đó thuộc quyền sở hữu hợp pháp của người vay và phải có goá trị trao đổi trên thị trường.
+ Nếu là động sản mà ngân hàng khó quản lý được trong thời gian người vay sử dụng vốn vay thì ngân hàng có thể yêu cầu người vay mua bảo hiểm động sản đó và trao giấy tờ gốc cho ngân hàng. Những động sản thuộc quyền sở hữu của người vay nhưng pháp luật không có quy định phải có giấy tờ chứng minh quyến sở hữu thì nên áp dụng cho vay cầm cố và được quản lý tại kho của ngân hàng.
- Cho vay tín chấp: Chỉ áp dụng đối với khách hàng đã trở nên tin cậy với ngân hàng.
Giám sát và cưỡng chế thi hành tnhững quy định hạn chế:
Khi một món tiền đã được cho vay mà người vay có ý muốn tiế hành những hoạt động rủi ro để món tiền nay ít có khả năng thnh toán. Để giảm bớt những biến cố của rủi ro đạo đức các ngân hàng phải quản lý, giám sát khoản vay trên thực tế và theo những điều khoản của hợp đồng.
Hạn chế tín dụng.
Hạn chế tín dụng là biện pháp giúp ngân hàng tránh được sự pựa chọn đối nghịch và rủi ro đạo đức. Ngân hàng có thẻ từ chối cho vay mặc dù người vay sẵn lòng thanh toán lãi suất được công bố, thậm chí một mức lãi suất cao hơn. Việc hạn chế tín dụng có hai tác dụng:
Thứ nhất: Diễn ra khi ngân hàng từ chối một món vay với số lượng bất kì nào đó đối với nếu qua điều tra thu thập thông tin ngân hàng thấy người vay là một người mạo hiểm cò nhiều khả năng rủi ro trong kinh doanh.
Thứ hai : Ngân hàng đồng ý cho vay nhưng hạn chế dưới mức cho vay mà người vay yêu cầu, bởi vì món tiền vay càng lớn, người vay càng có điều kiện thực hiện những mạo hiểm trong kinh doanh và do đó khả năg rủi ro sẽ xảy ra. Và như vậy, ngân hàng cũng dễ rủi ro không thu được nợ, cho nên ngân hàng cho vay số tiền lớn đối với một người vay bằng cách cho vay làm nhiều lần.
Đa dạng hóa đầu tư:
Việc đa dạng hóa đầu tư và cấp tín dụng là một nguyên lý quan trọng của việc quản lý kinh doanh của ngân hàng vì nó thực hiện đa dạng hóa mối quan hệ giữa ngân hàng với khách hàng. Đây cũng là việc phân tán rủi ro trên các món cho vay. Mặt khác, ta thấy rủi ro tín dụng còn phụ thuộc vào một số yếu tố như tính chất tín dụng, kì hạn tín dụng... Vì vậy, ngân hàng cần có những quyết định đúng đắn, hợp lý trong tín dụng để hạn chế rủi ro, nâng cao hiệu quả kinh doanh.