Rủi ro, hạn chế và các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả của hoạt động xuất khẩu lao động
Rủi ro trong xuất khẩu lao động Rủi ro trong xuất khẩu lao động là những biến cố bất ngờ không may xảy ra gây thiệt hại cho các bên tham gia xuất khẩu lao động. Rủi ro trong xuất khẩu lao động được phát sinh ...
Rủi ro trong xuất khẩu lao động
Rủi ro trong xuất khẩu lao động là những biến cố bất ngờ không may xảy ra gây thiệt hại cho các bên tham gia xuất khẩu lao động.
Rủi ro trong xuất khẩu lao động được phát sinh bởi các nguyên nhân sau:
- Từ phía người sử dụng lao động (đối tác nước ngoài).
Khi người sử dụng lao động không may làm ăn thua lỗ, bị phá sản,… dẫn đến phải cắt giảm nhân công hay sa thải nhân công thì hợp đồng lao động sẽ bị chấm dứt trước thời hạn.Trong trường hợp này người bị hại sẽ là người lao động và các doanh nghiệp xuất khẩu lao động. Người lao động bị mất việc làm và phải trở về nước. Có người thì đã tích luỹ đủ tiền để góp phần ổn định cuộc sống khi về nhưng cũng có người thì lại rơi vào hoàn cảnh nợ chồng chất. Mặt khác, có những trường hợp do người sử dụng lao động không trả hoặc đánh mất hộ chiếu của người lao động nên người lao động không thể trở về nước, khiến cho họ trở thành người nhập cư bất hợp pháp và phải chịu bất cứ hình phạt nào theo quy định của nước sở tại. Còn các doanh nghiệp xuất khẩu lao động, họ phải chịu chi phí phát sinh để đưa người lao động trở về nước cũng như tiền đền bù cho những người lao động này do hợp đồng bị phá vỡ mà không phải do lỗi của người lao động. Theo thoả thuận số tiền đó sẽ được bên sử dụng lao động hoàn trả nhưng nếu họ không trả thì các doanh nghiệp xuất khẩu lao động cũng khó mà đòi được. Nếu có khiếu kiện thì thủ tục rất rườm rà do sự kiện phát sinh vượt ra ngoài biên giới quốc gia và chi phí rất tốn kém. Vì thế, các doanh nghiệp xuất khẩu lao động thường chịu thiệt.
Khi người sử dụng lao động cố tình thực hiện không nghiêm túc hợp đồng đã ký như cắt giảm tiển lương, cắt giảm các lợi ích của người lao động như: bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế,..; đánh đập công nhân, bóc lột công nhân một cách quá đáng dẫn đến tình trạng mâu thuẫn giữa người lao động và người sử dụng lao động. Hậu quả là, người lao động sẽ bỏ việc hoặc bị sa thải. Trong trường hợp này người lao động và doanh nghiệp xuất khẩu lao động bị thiệt hại.
- Từ phía người lao động.
Các rủi ro từ phía người lao động chủ yếu là do người lao động ý thức kém, nhận thức kém đã tự ý phá vỡ hợp đồng (bỏ việc làm) để ra làm ngoài cho các công ty tư nhân với mức thu nhập cao hơn. Trong trường hợp này người sử dụng lao động và doanh nghiệp xuất khẩu lao động sẽ bị thiệt hại. Người sử dụng lao động sẽ bị thiệt hại nặng nề nếu số lượng người lao động bỏ việc nhiều và nhất là trong cùng một lúc. Điều đó có thể dẫn tới sự đình trệ sản xuất, gây tâm lý hoang mang cho những người lao động nước ngoài khác còn lại đang làm việc, tạo dư luận không tốt trong xã hội nước sở tại ảnh hưởng đến uy tín của người sử dụng lao động.
Với doanh nghiệp xuất khẩu lao động điều trước tiên họ phải gánh chịu là sự mất uy tín với đối tác và thậm chí là nguy cơ mất thị trường xuất khẩu lao động. Tiếp theo đó là sự thiệt hại về tài chính bao gồm: chi phí đưa người lao động về nước, chi phí tìm kiếm lao động (nếu lao động bỏ trốn, do nước sở tại tiến hành và yêu cầu doanh nghiệp xuất khẩu lao động phải hoàn trả). Nếu tình trạng này kéo dài doanh nghiệp xuất khẩu lao động có thể bị phá sản hoặc bị thu hồi giấy phép xuất khẩu lao động.
- Từ phía doanh nghiệp xuất khẩu lao động.
Rủi ro phát sinh chủ yếu là do doanh nghiệp xuất khẩu lao động là các “doanh nghiệp ma” nghĩa là hoạt động không hề có sự cho phép của các cơ quan chức năng. Thực chất hành vi của các doanh nghiệp này là lợi dụng sự cả tin của người lao động, sự thiếu thông tin về lĩnh vực xuất khẩu lao động và đặc biệt là khát vọng muốn đổi đời của người lao động để lừa đảo. Trong trường hợp này ngưòi bị hại trực tiếp là người lao động. Họ bị thiệt hại về tài chính nặng nề (vì số tiền nộp để đi xuất khẩu lao động lên tới hàng chục triệu đồng Việt Nam) thậm chí có những người lao động đã phải trả giá cả bằng tính mạng, nhân phẩm. Chính phủ Việt Nam và chính phủ nước sở tại có thể bị hại một cách gián tiếp trong việc giải quyết hậu quả.
Bên cạnh đó cũng có những doanh nghiệp xuất khẩu lao động đựơc cấp giấy phép rồi nhưng hoạt động không hiệu quả đã nhận tiền của người lao động song lại không tìm kiếm được thị trường để đưa họ đi. Trường hợp này người lao động cũng bị thiệt hại về tài chính song không nhiều như trường hợp trên.
Hạn chế trong hoạt động xuất khẩu lao động
Hạn chế trong hoạt động xuất khẩu lao động: là những yếu kém còn tồn tại trong hoạt động xuất khẩu lao động và cần được khắc phục.
Hạn chế trong xuất khẩu lao động có thể do nguyên nhân chủ quan hoặc khách quan nhưng có thể đánh giá nó thông qua:
- Sức cạnh tranh trong hoạt động xuất khẩu lao động.
Muốn nói tới khả năng tham gia và chiếm lĩnh thị trường xuất khẩu lao động. Nó lại đựơc đo bằng: chất lượng và kỷ luật lao động của người lao động.
Chất lượng lao động bao gồm:
- Trình độ, tay nghề: kiến thức, kỹ năng, hiểu biết mà người lao động đã được đào tạo trước khi đi cũng như khả năng tiếp thu công nghệ mới của người lao động.
- Trình độ ngoại ngữ: khả năng nói, nghe thậm chí là đọc, viết ngoại ngữ của nước sẽ tới.
- Sức khoẻ: chiều cao, cân nặng, thể trạng, khả năng thích nghi với môi trường mới của người lao động. Ngoài ra còn một số yêu cầu riêng tuỳ theo nghề.
Kỷ luật lao động: là ý thức của ngưòi lao động trong việc tuân thủ các quy định tại nơi làm việc cũng như các quy định trong hợp đồng lao động.
- Tính đa dạng của thị trường xuất khẩu lao động.
- Công tác quản lý hoạt động xuất khẩu lao động của nhà nứơc.
Là toàn bộ hệ thống các văn bản pháp quy, chính sách liên quan đến xuất khẩu lao động mà nhà nứơc đã ban hành và việc tiến hành triển khai thực hiện chúng.
Người ta dùng rất nhiều các tiêu thức khác nhau để đánh giá hiệu quả của hoạt động xuất khẩu lao động. Bài viết sử dụng hai chỉ tiêu cơ bản sau:
Hiệu quả về kinh tế
Là những lợi ích vật chất mà các chủ thể của nước xuất khẩu lao động (nhà nước, doanh nghiệp xuất khẩu lao động, ngừơi lao động) nhận được thông qua hoạt động xuất khẩu lao động.
Cụ thể như sau:
- Với người lao động: đó là thu nhập sau thuế và các hàng hoá có giá trị có thể gửi về nước.
- Doanh nghiệp xuất khẩu lao động: là lợi nhuận từ hoạt động xuất khẩu lao động.
- Nhà nước: là nguồn ngoại tệ thu về.
Hiệu quả về xã hội
Là tất cả những lợi ích phi vật chất có thể có được trực tiếp qua hoạt động xuất khẩu lao động hoặc phát sinh từ hiệu quả kinh tế của hoạt động xuất khẩu lao động nhằm đảm bảo cho xã hội ổn định, phồn vinh, hạnh phúc.
Biểu hiện:
- Khả năng đảm bảo cuộc sống cho người lao động;
- Khả năng giải quyết công ăn việc làm;
- Mỗi quan hệ giao lưu hợp tác với nước bạn.
Và một số các khía cạnh khác liên quan đến phúc lợi xã hội.