QUÝT THÁI (Quýt đường)
QUÝT THÁI Quýt thái có nguồn gốc từ Thái Lan. Cây cao tối đa 3.5m. Tán trong vòng 2m. Cây cho ra quả sau thời gian trồng là 24 tháng nếu trồng từ cây ghép. Khả năng phát triển mạnh. Chịu được các vùng đất phèn, mặn. Quả quýt thái tròn,vỏ mỏng, màu xanh đến xanh vàng, hoặc màu ...
QUÝT THÁI
Quýt thái có nguồn gốc từ Thái Lan. Cây cao tối đa 3.5m. Tán trong vòng 2m. Cây cho ra quả sau thời gian trồng là 24 tháng nếu trồng từ cây ghép. Khả năng phát triển mạnh. Chịu được các vùng đất phèn, mặn.
Quả quýt thái tròn,vỏ mỏng, màu xanh đến xanh vàng, hoặc màu vàng, dễ bóc vỏ, thịt quả màu cam ngọt đậm, trọng lượng quả trung bình 150-200g. Độ ngọt và dinh dưỡng rất cao.
I. Điều Kiện Sinh Thái
1.Nhiệt độ:
- Nhiệt độ để các cây có múi (cam, quít, bưởi) sinh trưởng và phát triển được trong khoảng nhiệt độ từ 13 – 38 độ C, thích hợp nhất là 23 – 29 độ C. Dưới 13 độ C là cây ngừng sinh trưởng, dưới âm 5 độ C cây sẽ bị chết.
2. Ánh sáng:
- Cây có múi như cam, quít, bưở không thích hợp với ánh sáng trực tiếp, ánh sáng tốt nhất ở cường độ ánh sáng khoảng 10.000 – 15.000 lux (tương đương với ánh sang vào lúc 8 giờ sáng và vào 4 – 5 giờ chiều trong mùa nắng).
3. Nước:
- Cây có múi như cam, quít, bưởi có nhu cầu về nước rất là lớn, nhất là ở trong thời kỳ cây đang ra hoa và phát triển trái. Ngoài ra cây có múi cũng rất mẫn cảm với điều kiện bị ngập nước. Trong mùa mưa, nếu mực nước ngầm ở trong đất cao và không kịp thoát nước, cây sẽ bị thối rễ dẫn đến vàng lá và chết.
4. Đất đai:
- Cam, quít, bưởi thích hợp trồng ở các loại đất có tầng canh tác dày khoảng từ 0,5 – 1 m, đất thịt pha, đất màu mỡ, thoát nước tốt, thoáng khí và độ pH từ 5 – 7.
II.KỸ THUẬT CANH TÁC
1.Giống:
- Chọn giống cây biết rõ nguồn gốc, bố mẹ phải có phẩm chất tốt (trái thơm ngon, màu sắc trái xanh vàng, bề mặt vỏ sần, trái có hình cầu, hơi dẹp hai đầu, thịt trái có màu cam, mềm và nhiều nước…), lá có hình trứng màu xanh đậm, trọng lượng trung bình khoảng 250g, ít hạt.
2.Thời vụ.
- Cây có múi thường hay được trồng vào đầu mùa mưa để đỡ mất công tưới, tuy nhiên cây cũng có thể trồng được cây quanh năm nếu chủ động được nguồn nước tưới.
3. Chuẩn bị đất trồng.
- Dùng đất tốt để trồng như đất mặt ruộng, đất bãi bồi ven sông … để đắp thành mô. Mô có hình tròn, đường kính khoảng 0,6 – 0,8 m, cao từ 0,3 – 0,5 m (tùy theo điều kiện tưới tiêu của từng nơi mà đắp mô cho phù hợp). Đất đắp mô có thể trộn thêm các loại phân như phân hữu cơ để hạ phèn đồng thời là nguồn thức ăn cho vi sinh vật có lợi ở trong đất hoạt động, tưới nấm Trico để có thể ngừa vàng lá và thối rễ do Fusarium gây ra, xử lý đất bằng Furadan để trừ đi những côn trùng cắn phá rể non.
4. Trồng cây chắn gió.
- Cây có múi thích hợp với ánh sáng tán xạ, do đó cần phải trồng cây che mát cho cam, như là các loại cây mãng cầu xiêm, so đũa … . Đồng thời trồng thêm cây chắn gió như dừa, xoài, các loại cây lấy gỗ quanh bờ bao … để hạn chế đi sự thiệt hại do gió bão gây ra, sự lây lan của côn trùng nhất là gầy chổng cánh và các mầm bệnh.
5. Khoảng cách trồng.
- Để cây cam được cây phát triển tốt, nhanh và cho trái bền nên trồng cây với khoản cánh là 3 x 3m
- Có thể trồng dày hơn để có thể khai thác trong những năm đầu, khi mà cây giao tán thì tiến hành đốn tỉa. Vì vậy ta cần tính toán cho hợp lý.
6. Đắp mô – bồi liếp.
- Trong khoảng 2 năm đầu sau khi trồng: mỗi năm thì bồi thêm 1 – 2 lần bằng đất bùn ao, đất bãi sông đã phơi khô. Năm thứ ba trở đi thì tiến hành bồi liếp mỗi năm thêm 1 lần khoảng vào 2 – 3 cm, kết hợp với việc bón thêm phân hữu cơ nhằm mục đích cung cấp them chất dinh dưỡng, đồng thời để nâng cao tầng canh tác, tăng độ xốp, để đất thoáng khí cho bộ rể hoạt động mạnh. Chú ý là không bồi sát gốc cây.
Mực nước trong mương phải cách mặt liếp khoảng 50-80 cm.
7. Tủ gốc và giữ ẩm.
- Rễ hấp thu dinh dưỡng đa số là mọc cạn, vào mùa nắng nhiệt độ cao sẽ ảnh hưởng xấu đến rễ, do đó cần phải phủ gốc giữ ẩm bằng rơm rạ, lục bình, cần phải phủ xa gốc ít nhất 20 cm.
Ngoài ra, trong vườn cần lưu là cần ý để cỏ, loại cỏ ăn cạn như là cỏ rau trai để giữ ẩm cho vườn trong mùa nắng, làm thông thoáng đất vào trong mùa mưa và giảm thiệt hại cho cây khi trong mùa lũ. Nếu cỏ mọc cao ta nên cắt cỏ bớt.
8. Cắt tỉa.
- Thường xuyên cắt tỉa các cành già, cành vượt, cành bị sâu bệnh, các cành mọc lên từ gốc ghép để cho vườn cây thông thoáng hạn chế sâu bệnh phát triển.
9. Phân bón.
- Tùy theo từng loại đất, giống và tình trạng dinh dưỡng của cây mà ta quyết định lượng phân bón thích hợp cho cây, cần phải cung cấp đầy đủ đạm, lân, kali, bổ sung thêm phân như phân hữu cơ và vi lượng để cho cây đạt năng suất cao
- Đối với cây từ 1 – 2 năm tuổi:
+ Phân đạm: tiến hành pha phân vào nước để tưới khoảng 2 – 3 tháng tưới một lần.
+ Phân lân và kali: Bón một lần cho cây vào cuối mùa mưa.
- Đối với cây đã trưởng thành: chia ra làm 4 lần bón/năm.
* Lần 1: Bón trước khi cây ra hoa: bón 1/3 Urê
* Lần 2: Bón sau khi đậu trái 6 – 8 tuần: bón 1/3 Urê + 1/2 kali.
* Lần 3: Bón trước khi thu hoạch trái 1 – 2 tháng: bón 1/2 kali còn lại.
* Lần 4: Bón sau khi thu hoạch trái bón toàn bộ lân và 1/3 Urê.
- Kết hợp bón thêm khoảng 10 – 20kg phân hữu cơ/gốc/năm.
- Cách bón: Dựa theo tán của cây để bón, cuốc rãnh sâu khoảng 5 – 10cm, rộng 10 – 20cm cách gốc khoảng từ 0,5 – 1m (tùy tán cây), cho phân vào lãnh, lấp đất lại và tưới nước lên.
- Khi cây giao tán thì nên dùng cuốc xúp nhẹ lớp đất xung quanh gốc theo hình chiếu của tán, cách gốc khoảng 50cm. Tưới đẫm luống trước, sau đó rải phân thẳng lên mặt luống.
Hằng năm cần phải bón thêm phân hữu cơ cho cây để còn cung cấp dinh dưỡng cho cây, vừa giúp đất tơi xốp và giúp bộ rễ cây phát triển tốt. Nếu bón phân chuồng thì nên bón phân hoai để giảm sự ô nhiễm môi trường và hạn chế được nấm bệnh. Cần phải bón vôi hàng năm với lượng khoảng 200 – 500kg/ha/năm có thể bón với số lượn đến 1.000kg/ha/năm.
Để cung cấp thêm các chất vi lượng cho cây, có thể bón phân qua lá vào giai đoạn cây đang ra lá non và khi quả bắt đầu phát triển nhanh, mỗi lần phun cách nhau khoảng 10 – 15 ngày, phun từ 4 – 5 lần/vụ.
10. Xử lý ra hoa.
- Dùng biện pháp xiết nước để kích thích cho cây ra hoa. Cách làm như sau:
- Sau khi thu hoạch thì tiến hành cắt tỉa các cành bị sâu bệnh, cành không có khả năng ra quả và bón thêm phân bồi dưỡng để giúp cây phục hồi sau mùa cho trái.
- Thoát khô nước trong mương và ngưng tưới nước để tạo “sốc” cho cây.
- Thời gian xiết nước kéo dài khoảng chừng 3 tuần đến khi thấy có hiện tượng lá hơi héo thì cho nước vào mương và cách mặt đất 20 – 30 cm trong 12 giờ, sau đó thì rút bớt nước ra còn cách mặt luống khoảng 50 – 60 cm để không làm cho rễ cây bị thiệt hại và gây mất sức cho cây.
- Tưới nước, bón phân đầy đủ để thúc cây sớm ra cành và nụ hoa. Nếu mà dùng thêm KNO3 0,5 – 1%, thời gian xiết nước sẽ rút ngắn đi.
* Lưu ý: Chỉ nên xiết nước cho cây ra hoa đối với vườn cây đã trên 3 năm tuổi và thời gian xiết nước không được quá 20 ngày để kéo dài tuổi thọ và thời kỳ kinh doanh của cây cam.
1.Sâu vẻ bùa.
- Phát triển mạnh mẽ ở giai đoạn cây ra lá non, lọa sâu này rất nhỏ, đục dưới biểu bì lá tạo ra những đường ngoằn nghèo. Sự phá hại của sâu này là làm lá co rúm, biến dạng, quăn queo và các vết thương do sâu tạo trên lá, chồi tạo ra điều kiện cho bệnh loét phát triển.
* Phòng trị:
- Chăm sóc cây để cho sinh trưởng và phát triển tốt, thúc cây ra cành non tập trung, mau thành thục để có thể hạn chế được sự phá hoại của sâu.
- Dùng các loại thuốc nội hấp như: Bi 58 0,1%, liều lượng 20 g/8 lít nước, Cymbush với liều 8 cc/8 lít nước. Lannate liều lượng 20 g/8 lít nước vào các đợt cây ra cành non.
2. Rầy mềm.
- Thường chích hút ở chồi ngọn, làm cho chồi và lá non không thể phát triển được, co rúm lại, đồng thời lại tạo điều kiện cho nấm bồ hóng cộng sinh và phát triển. Rầy mềm còn là trung gian truyền bệnh Tristeza.
* Bệnh Tristeza có triệu chứng rất rõ rệt, nhất là trên cây chanh là loại cây có múi mẫn cảm nhất với bệnh này: như cây lùn, trái nhỏ, cólá nhỏ, hơi cong giống hình muỗng, gân lá bị sưng, đem lá soi đối diện với ánh nắng thì thấy gân trong, bóc vỏ thân cây thì thấy thân bị rỗ.
* Phòng trị:
Phun thuốc định kỳ vào các đợt ra đọt cành như: Polytrin 440EC với liều 8 – 15cc/8 lít nước , Supracide 40EC với liều lượng 10 – 15cc/8 lít nước.
3. Rầy chổng cánh.
- Đây là một trong những đối tượng rất nguy hiểm. Rầy chổng cánh thường chích hút nhựa ở các lá non, cành non và làm cho cây lây bệnh vàng lá Greening.
* Phòng trị:
Phun thuốc định kỳ vào các đợt ra cành non như: Polytrin 440EC với liều 8 – 15cc/8 lít nước, Supracide 40EC với liều lượng 10 – 15cc/8 lít nước.
4.Nhện đỏ.
- Cả ấu trùng và khi thành trùng đều rất nhỏcó màu nâu, vàng lợt hoặc màu trắng trong tùy từng loại, thường bu chích hút ở bên ngoài vỏ trái non ( khoảng 1 – 2 tháng tuổi) làm cho vỏ quả như phủ cám nên thường gọi là trái da cám, làm giảm giá trị của quả thương phẩm.
* Phòng trị:
- Quan sát thường xuyên xem có sự xuất hiện của nhện trên trái, lá. Phun các thuốc đặc trị nhện đỏ như: Danitol 10EC , Bi 58 với liều 20g/8 lít nước, Microthiol special 80WP, Rufast 3EC với nồng độ khoảng1 – 3%. Tưới đẫm nước trên vườn sẽ giảm đi được mật số nhện, do đó không cần phải phun thuốc trừ nhện trong mùa mưa (cần phải chú ý thoát nước tốt khi ta tưới đẫm và mưa ngập).
5. Bệnh loét.
- Bệnh này do vi khuẩn gây ra, bệnh gây hại trên cả trái, lá, cành cây, vết bệnh lúc đầu thì nhỏ, sủng nước màu xanh đậm, sau đó biến thành màu nâu nhạt mọc nhô lên khỏi mặt lá hay vỏ trái. Xung quanh vết bệnh có xuất hiện quầng vàng. Trên trái non và trên cành vết bệnh có thể ăn sâu tới 1 – 3mm và làm trái dễ bị rụng, nếu trái không rụng thì cũng bị mất giá. Bệnh này thường gây hại nặng trong mùa mưa.
* Phòng trị:
- Cắt bỏ và tiêu hủy cành lá, trái bị bệnh.
- Phun các loại thuốc gốc đồng như: Kasuran ,Copper Zine liều lượng khoảng 1,5 – 2% ở giai đoạn cây chuẩn bị đâm tược ra hoa và giai đoạn 2/3 hoa rụng cánh – tiếp tục phun định kỳ với lân/tuần
6. Bệnh thối gốc chảy mủ.
Do nấm gây ra, bệnh làm vỏ cây bị thối ở gốc kể cả những rễ cạn nổi bên trên, có chảy mủ hôi – khi cây bệnh thì ít rễ, rễ ngắn, vỏ rễ bị thối rất dễ tuột, lá vàng. Nấm cũng có thể tấn công trên quả, nhất là quả ở gần mặt đất.
* Phòng trị:
- Chọn các gốc ghép kháng bệnh như là chanh Volkameriana hoặc cam ba lá.
- Đất trồng cây phải ráo, dễ thoát nước, không phủ cỏ rác, không bồi bùn non vào sát gốc cây.
- Tránh gây thương tích cho vùng gốc và rễ cây.
- Tưới nấm Trico ĐHCT để phòng ngừa bệnh.
- Theo dõicây và phát hiện sớm, cạo sạch vùng bệnh (phải cạo đến tận phần thân gỗ), bôi thuốc tím 1% Aliette 80BHN hay Copper B, Vaseli n có trộn sulphat đồng … rải vôi và thu gom các trái bị bệnh.
7. Bệnh vàng lá gân xanh (Greening).
- Là bệnh gây hại nghiêm trọng nhất cho cây. Cây bị chết có lá vàng lốm đốm nhưng gân lá có xanh, lồi, quả rất nhỏ bị méo mó. Khi chẻ dọc quả ta thấy trái bị lệch tâm và hạt bị thui.
* Phòng trị:
- Loại bỏ các cây bị nhiễm bệnh, cây ký chủ của rầy chổng cánh như nguyệt quế, dây tơ hồng.
- Trồng những cây sạch bệnh.
- Cách ly nguồn bệnh bằng cách trồng các cây chắn gió cho vườn cây cam.
- Phun thuốc định kỳ vào các đợt mà cây ra lá non, nhất là vào đầu mùa mưa để trừ rầy như Applaud, Bassa, Applaud Mipc 25%, Trebon …
8. Bệnh ghẻ lồi.
- Do bị nấm gây hại trên cả lá và quả. Bệnh thường tấn công vào các giai đoạn cây ra cành non, quả non. Lá, quả bị bệnh sần sùi nên bán rất mất giá.
* Phòng trị:
Phun các loại thuốc trừ nấm như Copper B, Bonanza, Tilt, vào giai đoạn cây ra lá non và quả non.