Quản lý tài sản riêng
Nguyên tắc bình đẳng trong sự độc lập . Theo Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 Điều 33 khoản 1, vợ, chồng có quyền sử dụng, định đoạt tài sản riêng của mình, trừ trường hợp quy định tại khoản 5 của điều luật ấy. Khoản 5 của điều luật sẽ được xem xét sau. ...
Nguyên tắc bình đẳng trong sự độc lập. Theo Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 Điều 33 khoản 1, vợ, chồng có quyền sử dụng, định đoạt tài sản riêng của mình, trừ trường hợp quy định tại khoản 5 của điều luật ấy. Khoản 5 của điều luật sẽ được xem xét sau. Ở đây, ta ghi nhận rằng từ điều luật đã dẫn, vợ, chồng, trên nguyên tắc có độc quyền trong việc sử dụng, định đoạt tài sản thuộc sở hữu riêng của mình.
Trộm cắp tài sản của nhau. Khi xây dựng BLHS 1999 Điều 138 về tội trộm cắp tài sản, người làm luật không phân biệt người phạm tội tuỳ theo quan hệ thân thuộc hoặc tình cảm với người bị thiệt hại. Bởi vậy một cách duy lý, vợ (chồng) có hành vi trộm cắp tài sản riêng của nhau cũng có thể bị chế tài về mặt hình sự theo điều luật vừa dẫn
Uỷ quyền. Người có quyền sở hữu tài sản có thể uỷ quyền cho người khác quản lý tài sản của mình. Quy tắc này cũng được áp dụng cho việc uỷ quyền quản lý tài sản riêng của vợ (chồng). Trên thực tế, vợ (chồng) có thể để cho chồng (vợ) quản lý tài sản của mình mà không lập văn bản uỷ quyền; chồng (vợ) cũng có thể chủ động thực hiện việc quản lý tài sản riêng của vợ (chồng) mình mà người sau này không biết. Ta nói rằng chồng (vợ) trong các trường hợp đó ở trong tình trạng thực hiện công việc mà không có uỷ quyền. Tuy nhiên, một cách hợp lý, tình trạng thực hiện công việc mà không có uỷ quyền chỉ được coi là hợp lệ một khi người ở trong tình trạng đó dừng lại ở các giao dịch mang tính chất quản trị tài sản
Nguồn sống duy nhất hay nguồn sống chủ yếu? Theo Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 Điều 33 khoản 5, trong trường hợp tài sản riêng của vợ (chồng) đã được đưa vào sử dụng chung mà hoa lợi, lợi tức từ tài sản riêng đó là nguồn sống duy nhất của gia đình, thì việc định đoạt tài sản riêng đó phải được sự thoả thuận của vợ và chồng.
Sử dụng chung hẳn hàm nghĩa rằng cả vợ và chồng đều trực tiếp tham gia vào việc khai thác công dụng của tài sản. Nếu chỉ có một người trực tiếp khai thác, thì dù hoa lợi, lợi tức có là nguồn sống duy nhất của gia đình, việc định đoạt tài sản vốn là của riêng đó không chịu sự chi phối của điều luật. Tuy nhiên, trong điều kiện luật không quy định cụ thể, ta nói rằng vai trò của vợ (chồng) chủ sở hữu trong việc khai thác tài sản không nhất thiết phải ngang bằng với vai trò của chủ sở hữu: một vai trò phụ của người không phải là chủ sở hữu đủ để tình trạng sử dụng chung được ghi nhận và đặt tài sản dưới sự chi phối của điều luật.
Mặt khác, điều kiện “hoa lợi, lợi tức từ tài sản là nguồn sống duy nhất của gia đình” khiến cho phạm vi áp dụng điều luật trở nên chật hẹp. Trong đa số trường hợp, vợ chồng thường xoay sở để sống bằng cách khai thác nhiều nguồn, nhưng họ luôn có một nguồn nào đó là nguồn chính, ổn định và thường xuyên, bên cạnh một số nguồn phụ, có thể ổn định hoặc không ổn định, thường xuyên hoặc không thường xuyên. Giả sử người chồng bán một tài sản riêng có nhiều hoa lợi; người vợ phản đối; người chồng chỉ cần chứng minh rằng hoa lợi từ tài sản đó không phải là nguồn sống duy nhất của gia đình (nghĩa là còn có nguồn sống khác, dù không chủ yếu), thì đơn của người vợ sẽ bị bác ? Đáng lý ra, chỉ cần tài sản đó phát sinh hoa lợi thường xuyên và hoa lợi đó là nguồn sống chủ yếu của gia đình, thì điều luật có thể được áp dụng. Hẳn có lẽ theo nghĩa đó là điều luật phải được hiểu trong thực tiễn.