Quan hệ của Chân Lạp và Xiêm (Siam) thế kỷ VII-XVI
1. Quan hệ của Chân Lạp và Xiêm thế kỷ VII - XIII Trong số các chính thể ở Đông Nam Á thời Cổ Trung đại, Xiêm [1] là quốc gia phát triển tương đối dị biệt. Do chịu tác tác động của nhiều yếu tố chủ quan và khách quan, các quốc gia quân chủ của người Thái xuất hiện tương đối muộn. ...
1. Quan hệ của Chân Lạp và Xiêm thế kỷ VII - XIII
Trong số các chính thể ở Đông Nam Á thời Cổ Trung đại, Xiêm[1] là quốc gia phát triển tương đối dị biệt. Do chịu tác tác động của nhiều yếu tố chủ quan và khách quan, các quốc gia quân chủ của người Thái xuất hiện tương đối muộn.
Như chúng ta đều biết, chiến tranh luôn dẫn đến nhiều hệ quả tàn khốc đặc biệt là các cuộc chiến tranh có quy mô lớn như sự bành trướng của đế chế Mông - Nguyên vào thế kỷ XIII. Nhưng, trong một ý nghĩa nào đó các cuộc chiến tranh cũng có thể dẫn đến những tác nhân nằm ngoài ý muốn của con người. Trong lịch sử, không ít cuộc chiến tranh đã “làm cho thương mại phát triển giữa các vùng lục địa Âu - Á; giữa châu Âu với Trung Quốc bằng đường bộ, giữa châu Âu với Ấn Độ và Đông Nam Á (bằng cả đường bộ và đường biển)”[2].
Trên thực tế, cuộc xâm lăng của quân Mông - Nguyên đến các quốc gia Đông Nam Á đã gây nên không ít những biến động trong quan hệ giữa các nước khu vực, trong cấu trúc xã hội, dân số cũng như giao lưu văn hóa. Trước hết, do bị dồn đẩy, một bộ phận người Thái vốn sinh sống ở thượng nguồn sông Mekong đã dần di chuyển xuống phía Nam, định cư ở lưu vực sông Chao Phraya (Mê Nam) và lập nên những vương quốc đầu tiên của người Thái. Năm 1292, các tộc người Thái ở Chiang Rai đã lập vương quốc Lanna với kinh đô Chiang Mai. Một nhánh khác sống quần tụ ở Lavo[3] (hay Lopburi) lập vương quốc riêng mà thư tịch cổ Trung Hoa gọi là nước La Hộc. Một bộ phận khác đông đảo hơn đã lập nên vương quốc Sukhothai (1238-1348). Năm 1347, Thái Lavo chuyển kinh đô xuống Ayutthaya nên từ đó gọi là vương quốc Ayutthaya. Năm 1349, Ayutthaya đem quân uy hiếp và bắt Sukhothai phải thuần phục. Từ đó, Ayutthaya trở thành một quốc gia thống nhất. Đó là giai đoạn phát triển thịnh vượng của chế độ quân chủ Thái cho đến năm 1767 khi quốc gia này đổi tên thành vương quốc Xiêm (Siam)[4]. Như vậy là, trước khi hợp nhất thành một quốc gia thống nhất vào giữa thế kỷ XIV, ở Thái Lan cuối thế kỷ XIII đã hình thành ba vương quốc đầu tiên của người Thái. Đây là cột mốc đánh dấu sự dự nhập của dân tộc này vào mạch nguồn lịch sử, văn hóa, kinh tế, xã hội chung của khu vực. Trên thực tế, những yếu tố ngoại sinh về khách quan đã tạo nên chất keo kết dính chặt chẽ hơn tình đoàn kết của người Thái vì quyền lợi chung trên vùng đất mới. Hơn thế, liên minh này đã có những hành động thiết thực góp phần thúc đẩy sự phát triển của vương quốc Lanna, đồng thời mở đầu cho thời đại vàng son của nền văn hóa Thái trong các thế kỷ tiếp theo[5].
Thế kỷ XIII, đặc biệt là thế kỷ XIV, quốc gia - dân tộc Thái từng bước xác lập và trở thành một thể chế thống nhất trên phần lãnh thổ thuộc Thái Lan ngày nay. Từ đây, vương quốc Xiêm bước vào thời kỳ thịnh đạt nhất dưới thời quân chủ. Là một triều đại mạnh, vương triều Ayutthaya đã duy trì được quyền lực cho đến thế kỷ XVIII. Sức mạnh của vương quốc này là thành quả của cả một quá trình tích lũy cũng như một nền tảng căn bản tạo dựng trong suốt thời kỳ dài trước đó. Điều không thể phủ nhận là, cuộc kháng chiến xâm lược Mông - Nguyên là tác nhân quan trọng, dẫn đến quá trình thiên di, sự ra đời của ba vương quốc để rồi hợp thành một quốc gia thống nhất.
Nhưng không phải đến tận thế kỷ XIII, người Thái mới bắt đầu hiện diện trên lãnh thổ Thái Lan mà từ nhiều thế kỷ trước đó họ đã từng bước thâm nhập vào vùng đất này. Như chúng ta đều biết, “trên địa bàn của lưu vực sông Chao Phraya, từ thời sơ sử đã là địa bàn cư trú của người Môn (thuộc ngữ hệ Môn - Khmer) - là chủ nhân đầu tiên của khu vực này, thời ấy người Thái hầu như chưa có mặt ở đây. Nguồn gốc của người Thái là ở thượng nguồn sông Mekong và sông Hồng, vùng giáp ranh với các nước Đông Nam Á bấy giờ, ngày nay là tỉnh Vân Nam của Trung Quốc. Vùng đất này là nơi cư trú của sáu bộ lạc người Thái: Mông Tuấn, Việt Tích, Lăng Khung, Đằng Đạm, Phi Lãng và Mông Xá. Đến thế kỷ VIII, họ lập nên một quốc gia, đặt kinh đô ở Đại Lý (một thành thị ở Tây Bắc thủ phủ Côn Minh, tỉnh Vân Nam ngày nay). Lịch sử Trung Quốc gọi đó là quốc gia Quy Nghĩa hay Nam Chiếu, sau gọi là Đại Lý”[6].
Và “đến khoảng thế kỷ X, trước áp lực và xung đột với người Hán, những mâu thuẫn nội bộ và sự gia tăng dân số, số lượng người Thái di cư về phương Nam, dọc theo triền các con sông lơn như Mekong, Chao Phraya ngày càng đông đảo. Ở đây họ sinh sống một cách hòa bình với dân tộc Môn, Khmer và phục tùng các chính quyền địa phương (Hariphunchai, Khmer, Pagan). Từ thế kỷ XII, cư dân Thái đã chiếm một dải đất rộng lớn giữa quốc gia Nam Chiếu ở phía Bắc và các quốc gia cổ trên bán đảo Đông Ấn ở phía Nam. Tại đây, họ đã sống quần cư với nhau để cùng khai phá đất đai và tự bảo vệ, trong quá trình đó, dần dần họ đã xây dựng nên các tiểu quốc Thái đầu tiên: Tiểu quốc Chiengsaen năm 773, tiểu quốc Phayao thế kỷ XI, tiểu quốc Chieng Khong, vương quốc Sukhothai thế kỷ XIII…”[7].
Về nguồn gốc của người Thái và sự xâm nhập của tộc người này trên vùng lãnh thổ của Thái Lan ngày nay, học giả người Pháp G. Coedès từng nhận xét: “Những người Thái định cư ở vùng Vân Nam, nơi từ thế kỷ VIII họ đã thành lập ra vương quốc Nam Chiếu, chỉ mãi về sau này mới giành được độc lập trong những thung lũng vùng trung Đông Dương và Miến Điện. Đôi khi người ta nói đến “sự xâm lược của người Thái”, hậu quả của thế kỷ XIII. Thực ra, đúng hơn là sự xâm nhập từ từ, và chắc chắn đã từ rất lâu đời dọc theo các sông ngòi, xuất hiện do sự chuyển dịch chung của những khối cư dân từ Bắc xuống Nam, tạo nên đặc điểm của vùng dân cư vùng bán đảo Đông Dương. Nhưng sự thật là, vào nửa đầu thế kỷ XIII, đã diễn ra một sự sôi động lớn ở vùng cận biên phía Nam xứ Vân Nam”[8].
Điều đáng lưu ý là, “những người Thái chỉ đi vào lịch sử miền ngoại Ấn kể từ thế kỷ XI, với sự ghi chép trong bi ký Chăm về những nô tỳ và tù binh người Siam, bên cạnh những người Trung Hoa, An Nam, Cao Miên và Miến Điện. Vào thế kỷ XII, các bức phù điêu ở Angkor Vat đã khắc họa đầu đoàn người ở hành lang phía Nam, là một nhóm chiến binh mang quân phục hoàn toàn khác với người Khmer mà hai bi ký ngắn gọn là người Siam. Rất có thể đó là những người Thái ở vùng trung lưu sông Mê Nam, bởi vì trong thế kỷ XIII, người Trung Quốc đã gọi vương quốc Sukhothai với cái tên là Sien”[9]. Như vậy, dựa vào nền tảng của những tiểu quốc vốn có trước đó, đến thế kỷ XIII, trên vùng lãnh thổ của Thái Lan ngày nay đã hình thành ba vương quốc Lanna, Sukhothai và Ayutthaya (trước đó tiền thân là vương quốc Lavo).
Nếu như việc thành lập vương quốc Lanna vào thế kỷ XIII về cơ bản đã được các nhà nghiên cứu thống nhất ý kiến thì giữa các học giả vẫn còn có sự tranh luận về thời gian hình thành các vương quốc Lavo, Sukhothai. Qua việc tham khảo Đại Việt sử ký toàn thư, Việt sử thông giám cương mục chính biên, và Việt Nam sử lược của Trần Trọng Kim, một số tác giả đã tỏ ý nghi ngờ về thời gian hình thành các vương quốc kể trên của người Thái. Như chúng ta đã biết, vào năm 1149 Toàn thư đã viết: “Kỷ Tỵ, năm thứ 10 (1149), mùa Xuân tháng 2, thuyền buôn ba nước Trảo Oa, Lộ Lạc, Xiêm La vào Hải Đông, xin cư trú buôn bán, cho lập trang ở hải đảo, gọi là Vân Đồn, để mua bán hàng hóa quý, dâng tiến sản vật địa phương”[10]. Như vậy, theo Toàn thư từ giữa thế kỷ XII, khái niệm “Lộ Lạc”, “Xiêm La” đã thấy xuất hiện.
Viết về lịch sử Thái Lan, nhà sử học Trần Trọng Kim cho rằng đến khoảng thời nhà Tùy và nhà Đường (Trung Quốc) tức là vào thế kỷ thứ VI-VII thì đất Phù Nam bị chia ra làm hai: một nửa về phía Đông có một dân tộc khác đến lập ra nước Chân Lạp, còn một nửa phía Tây thì người Phù Nam ở gọi là nước Xích Thổ. Vào quãng nhà Tống, nhà Kim (thế kỷ XI-XII) thì nước Xích Thổ lại chia ra làm hai: một nước gọi là La Hộc, một nước là Tiêm (tức Xiêm - NTD chú). Thời nhà Nguyên của Trung Quốc thế kỷ XIII - XIV thì sử có chép hai nước này sang cống. Về sau nước La Hộc thống nhất nước Tiêm, mới gọi là Tiêm La Hộc. Đến đầu nhà Minh (cuối thế kỷ XIV) vua nước này sang cầu phong Trung Quốc, vua Thái Tổ nhà Minh mới phong là nước Tiêm La[11].
Theo cách hiểu của nhà nghiên cứu Hàn Quốc Song Jung Nam thì: “Nội dung trên của Toàn thư và Chính biên và ghi chép của Trần Trọng Kim theo tôi (tức Song Jung Nam – NTD chú) đều có vấn đề cần làm sáng tỏ. Trước hết ở hai tài liệu trước được đề cập, việc dân tộc xây dựng vương quốc Sukhothai vào năm 1149 (1238-1438) và thời kỳ thành lập vương quốc Ayutthaya (1350-1767) đều không thống nhất. Và như đề cập của Trần Trọng Kim “vào thời Tống, Kim tồn tại tồn tại Xiêm và La Hộc ở thế kỷ XI-XII” thực tế không thống nhất với thời kỳ tồn tại của Sukhothai và Ayutthaya. Thời điểm thành lập Sukhothai vào năm 1149 cách khoảng 100 năm so với năm 1238, và thời kỳ thành lập Ayutthaya và năm 1350 cách nhau đến 200 năm. Niên đại thành lập hai nước Sukhothai và Ayutthaya cũng cách nhau hơn 100 năm. Nhưng vào năm 1149, cùng thời kỳ đó cả Sukhothai và Ayutthaya đều đến Việt Nam là một điều khó tin. Nói thời điểm ra đời Xiêm La vào năm 1149 thì cũng không có cơ sở. Ngày nay đối với những quốc gia dùng chữ Hán như Việt Nam, Hàn Quốc, Nhật Bản và Trung Quốc, Thái Lan trong lịch sử được biết đến với từ Xiêm La. Xiêm La là Siam và chữ trước của Lopburi hoặc Lavo kết hợp thành. Vậy thì việc ghi Xiêm La của Toàn thư hay Chính biên thì Xiêm là ghi sai. Cho dù thế nào, vào năm 1149 phải giải quyết thế nào với việc Xiêm hay là Sukhothai không được thành lập”[12].
Bên cạnh đấy, tác giả còn lập luận thêm: “Toàn thư hay Chính biên sau năm 1149 vẫn ghi là Xiêm La và Xiêm. Điểm cần chú ý ở đây là Toàn thư sau năm 1149 vẫn ghi là Xiêm La hoặc Chính biên cân nhắc đến thời kỳ hình thành các vương quốc đã phân biệt và ghi Xiêm, Xiêm La. Chẳng hạn, ở Toàn thư thì ghi “năm 1182 nước Xiêm La sang cống” còn ở Chính biên thì ghi “nước Xiêm tiến cống”. Tiếp theo, Toàn thư thì ghi “năm 1184 người buôn của các nước Xiêm La và Tam Phật Tề vào trấn Vân Đồn, dâng vật quý để xin buôn bán”. Năm 1149 và 1184, ngoài việc thương nhân hay thương thuyền lấy mục đích đòi hỏi thông thương vào khu vực có cùng tên là Vân Đồn nhưng không ghi lại địa danh cư trú thì chúng ta cũng cần chú ý sự thật là vào năm 1182 đã có quốc gia vào cống nạp. Trong lịch sử, triều cống là một hình thức để xây dựng quan hệ ngoại giao giữa các quốc gia thông qua sứ thần. Nước nhận triều cống không thể ghi sai tên quốc gia, nên quốc hiệu của năm 1182 được xem là chính xác. Do đó, việc giải thích theo lịch sử của Thái Lan vào thế kỷ XIII về quốc hiệu của các quốc gia này hoàn toàn không có cơ sở nhưng theo các tư liệu của Việt Nam được đề cập trên đây hay căn cứ vào logic thì đó là các vương quốc truyền thống của Thái Lan. Như vậy, lần đầu tiên việc giải thích lại về thời điểm thành lập vương quốc Thái Lan, vương quốc Sukhothai được đặt ra”[13].
Như vậy, dựa vào nguồn chính sử của Việt Nam, nhà nghiên cứu Song Jung Nam đã đưa ra những nghi vấn và lập luận khá chặt chẽ của mình về mốc thời gian thành lập hai vương quốc Sukhothai, Ayutthaya. Suy xét một cách cẩn trọng có thể thấy rằng quan điểm của Song Jung Nam là vấn đề đáng chú ý. Tuy nhiên, theo chúng tôi có nên chăng khi nghiên cứu về lịch sử Thái Lan giai đoạn này nên nhìn nhận vấn đề một cách đa chiều và tiếp cận vấn đề bằng phương pháp nghiên cứu liên ngành, có nghĩa là tận dụng những thành tựu nghiên cứu mới và sự trưởng thành của nhiều ngành khoa học. Có thể thấy rằng, trong các bộ thư tịch cổ Việt Nam việc ghi nhầm hay hiểu sai về tên gọi của người nước ngoài hay tên nước ngoài của các sử gia là điều không phải hiếm gặp. Trong một bài nghiên cứu, nhà sử học Li Tana đã chỉ ra: Trong Toàn thư: Trong ít nhất hai trường hợp, tên nước ngoài hoặc tên người nước ngoài bị viết sai: một là Huihu và một trường hợp khác là Temasek[14]… Được viết ít nhất 150 năm sau những sự kiện diễn ra, hơn nữa lại bị chi phối bởi ý thức hệ Nho giáo, tác giả Toàn thư ít quan tâm đến những tên gọi của những người mà tổ tiên của người Việt đã thường xuyên quan hệ[15]. Như thế, có thể thấy rằng bên cạnh việc ghi nhầm các tên riêng như Temasek hay Huihu, phải chăng các tác giả của Toàn thư cũng có những ghi chép nhầm lẫn về hai địa danh là Xiêm và Xiêm La? Điều này cần phải kiểm chứng thêm, nhưng điều không thể phủ nhận là ít nhất từ thế kỷ XII, trên phần lãnh thổ của Thái Lan đã hình thành các tiểu quốc, đó có thể là các vương quốc của người Thái hay người Môn, là những bộ phận quan trọng tích hợp nên đế chế Ayutthaya sau này.
Việc tìm hiểu và nắm bắt được tiến trình lịch sử Thái Lan thế kỷ VII-XIII là điều kiện cần thiết để thấy được tính chất và hình thức quan hệ của Chân Lạp với Xiêm trong suốt các thế kỷ này. Nếu như lịch sử Thái Lan còn nhiều khoảng trống về nhận thức cần làm sáng tỏ thì trong thời gian đó ở Chân Lạp cũng diễn ra nhiều biến đổi về chính trị, xã hội của các vương quốc đang trong quá trình vận động, phát triển. Sau khi chinh phục được Phù Nam vào cuối thế kỷ VI đầu thế kỷ VII, Chân Lạp bị chia cắt thành hai khu vực: Lục Chân Lạp - Thủy Chân Lạp. Vào thế kỷ IX, vương quốc này đã đạt được sự thống nhất. Trên cơ sở đó, Chân Lạp đã mau chóng phát triển thành đế chế khu vực với nền văn hóa hết sức rực rỡ. Với những thành tựu đặc sắc đó văn hóa Chân Lạp đã được tôn vinh là văn minh Angkor. Trong khi đó, trên vùng đất Thái Lan hiện nay, phải đến thế kỷ XIII, đặc biệt thế kỷ XIV, người Thái mới khẳng định chủ quyền của mình trên toàn bộ lãnh thổ. Đó cũng là quá trình thể hiện sức mạnh, tinh thần thống nhất, cộng đồng, năng lực tổ chức cao của người Thái. Họ đã trở thành dân tộc chủ thể để cùng với người Môn cũng như người Khmer... xây dựng nên một quốc gia cường thịnh.
Thực tế lịch sử cho thấy, rất lâu trước khi những nhóm người nói tiếng Thái đầu tiên định cư ở lòng chảo sông Chao Phraya, miền Trung nước Xiêm, quê hương của người Môn đã chứng kiến sự hình thành của một quốc gia được mọi người biết đến với tên gọi tiếng Phạn là Dvaravati. Về sau, quốc gia này đã sáp nhập vào vương quốc Ayutthaya. Dvaravati giữ vai trò nổi bật trong các thế kỷ thứ VII-X nhưng trước đó nó đã trải qua một quá trình hình thành, phát triển tương đối lâu dài[16]. Sự khan hiếm về tư liệu khiến cho việc nhận thức về vương quốc này gặp nhiều khó khăn. Nhưng qua một số tài liệu có thể biết rằng người Môn ở vương quốc này khá phát triển. Vương quốc trở nên thịnh vượng vào thế kỷ thứ IX, mở rộng buôn bán với nhiều nước bên ngoài. Nền văn minh Ấn Độ được truyền bá, Phật giáo được đề cao. Đến năm 1007, vương quốc Dvaravati bị sáp nhập vào đế chế Angkor[17].
Về vương quốc Dvaravati và sự vận động, diễn tiến phức tạp trong vương quốc này, theo lập luận của G. Coedès: “Người ta không có một thông tin nào về điều gì đã xảy ra vào thời kỳ này trong vùng hạ lưu sông Mê Nam, địa bàn của vương quốc cổ Dvaravati. Tài liệu duy nhất có được từ nơi này là một bi ký chữ Phạn và chữ Khmer, được tìm thấy ở Ayutthaya có niên đại năm 937. Văn bia cho biết một dòng các ông hoàng ở Chanacapura. Người đầu tiên là nhà vua Bhagadatta, nhưng một số không được xác định những thế hệ sau đó gồm: Sundaraparakrama, có con là Sundarvarman, và cuối cùng là các vua Narapatisimhavarman, Mangalavarman, cả hai đều là con của ông vua trên. Người cuối cùng là tác giả của bi ký đã biến một bức tượng nữ thần Devi, hình ảnh của mẹ ông. Những tên này không được biến trong văn khắc Cao Miên, những tấm bi ký bằng tiếng Khmer đã đưa ra một danh sách các nô lệ, chứng tỏ rằng ¾ thế kỷ trước khi sáp nhập vào nước Cao Miên, những người Khmer đã thay thế dần cư dân người Môn từng chiếm cứ nơi này vào thế kỷ VII”[18]. Những thông tin ít ỏi trong các nguồn sử liệu không cho chúng ta những hiểu biết thật rõ về cương vực lãnh thổ của vương quốc cổ Dvaravati và vị thế của nó trong các mối quan hệ, tương tác quyền lực khu vực. Đa số các học giả đều cho rằng, vương quốc này do người Môn tạo nên và là tiền thân của vương quốc Lavo cũng như Ayutthaya của người Thái về sau.
Trở lại với công trình của Trần Trọng Kim chúng ta thấy, sau khi đế chế Phù Nam bị sụp đổ, các thuộc quốc do thoát khỏi sự quản chế của Phù Nam đã có thể phát triển độc lập. Vương quốc Chân Lạp và Xích Thổ là những trường hợp như vậy. Đến thế kỷ XI-XII, theo tác giả các vương quốc cổ lại tiếp tục có sự chuyển hóa, La Hộc trở thành tiền thân của Ayutthaya còn Tiêm (tức Xiêm) là tiền thân của Sukhothai. Không rõ nguồn thông tin mà tác giả Trần Trọng Kim tham khảo từ đâu do vậy vấn đề này cần phải kiểm chứng thêm. Vì không chỉ nguồn tư liệu của Việt Nam mà cả nguồn thư tịch cổ Trung Quốc cũng không cho biết nhiều về vương quốc Xích Thổ. Như các sách Tùy thư, Thông chí, Thái bình hoàn vũ ký chỉ chép khái lược về quốc gia này: “Xích Thổ là một chi nhánh của Phù Nam ở vùng biển Nam Hải. Đi thuyền hơn 100 ngày thì tới kinh đô của nước này. Đất ở đó màu đỏ nên gọi là Xích Thổ. Phía Đông là nước Ba La Thích, phía Tây là nước Bà La Sa, phía nam là nước Kha La Đán, phía Bắc giáp biển lớn. Đất nước họ rộng vài nghìn dặm. Vua nước ấy có họ là Cù Đàm, tên là Lợi Phú Đa Tắc, không biết xa gần có nước nào cả”[19]. Theo nguồn chính sử Trung Quốc thì thật khó để xác định Xích Thổ nằm ở khu vực nào ở Thái Lan hiện nay. Tuy nhiên, có thể cho rằng Xích Thổ nằm ở vùng bán đảo Mã Lai, nước này từ rất sớm đã có mối liên hệ gần gũi về văn hóa, tộc người với Chân Lạp và các tiểu quốc gia cổ ở Thái Lan.
Sang thế kỷ thứ X, đặc biệt là thế kỷ XI-XII, đế chế Angkor bước vào giai đoạn cường thịnh. Cùng với việc tạo dựng nền tảng căn bản của đất nước, Angkor cũng mở rộng ảnh hưởng ra các quốc gia láng giềng trong khu vực. Bên cạnh việc xâm lược Champa, một trong những hướng bành trướng chính của Chân Lạp là vùng hạ lưu sông Mê Nam ở phía Tây. Vào đầu thế kỷ XI, hoàng đế vương triều Angkor là Suryavarman I (cq: 1002-1050) đã cho quân tấn công vào Nakhon Pathom thôn tính vương quốc Dvaravati. Sau đó, đến lượt Haripunjaya cũng rơi vào tay người Khmer[20]. Về chiến công mở rộng lãnh thổ của Suryavarman I, học giả D. G. E. Hall nhận xét: “Sử biên niên Chiang Mai vào một niên đại muộn hơn nhiều đã miêu tả sự bành trướng của người Khmer trong triều đại của Suryavarman. Một tấm văn khắc tại Lopburi có từ thời đại này cho rằng đế chế của Suryavarman bao gồm cả vương quốc Dvaravati của người Môn và vương quốc Tambralinga, sau này là Ligor của người Mã Lai. Các sử biên niên địa phương ghi nhận Suryavarman chiếm lưu vực sông Mekong đến tận Chiengsen ở phía Bắc, nhưng khảo cổ học không thấy có những dấu vết của nó ngoài Luang Prabang”[21].
Về sự kiện này, căn cứ vào các sử biên niên khác nhau soạn bằng tiếng Pali tại Chiang Mai như Chamadevivamsa (viết vào đầu thế kỷ XV), Jinakalamalini (hoàn thành năm 1516) và Mulasasana, học giả G. Coedès cho biết: “Một nhà vua xứ Haripunjaya (Lampun) tên là Atrasataka (dị bản: Trabaka, Baka) đã đến tấn công xứ Lavo (Lopburi) do vua Ucchitthacakkavatti (dị bản: Uccchitta, Uccitta) cai trị. Vào lúc hai vị quân vương sẵn sàng giao chiến, một nhà vua xứ Siridhammanagara (Ligor) tên là Sujita (dị bản: Jivaka, Vararaja) đã đến trước thành Lavo với một đạo quân và một hạm thuyền lớn. Đứng trước tên khốn kiếp thứ ba đó, hai kẻ địch thủ vội trốn chạy về hướng Haripunjaya: Ucchittha là kẻ đến đầu tiên, tự xưng là vua và lấy vợ của địch thủ của mình, người này đáp thuyền rút về phương Nam. Sujita, nhà vua xứ Ligor, ở lại làm chúa tể thành Lavo. Ba năm sau, con của ông ta là Kambojaraja lại tiến hành đánh Ucchittha ở Haripunjaya, nhưng bị thất bại và phải rút về kinh thành của mình”[22].
Sự ghi chép của nguồn sử biên niên trên không thật rõ ràng và không dễ để khẳng định cuộc tấn công vào Lavo và Haripunjaya có phải là của Chân Lạp hay là một thuộc quốc của nó. Nhưng G. Coedès đã đưa ra một lập luận khá chặt chẽ về sự kiện này. Ông cho rằng, “người ta có ý định đồng nhất nhà vua Kambojaraja, con của nhà vua xứ Ligor đã đánh thắng xứ Lavo với Kamtvan Suryavarman I, vì ngay nếu như những cuộc xung đột giữa Cao Miên và vương quốc Haripunjaya của người Môn được kể lại trong những cuốn sử biên niên nói trên, có tưởng tượng đi nữa, thì ít nhất sự bành trướng của Cao Miên sang vùng hạ lưu sông Mê Nam vào các thế kỷ XI cũng đã được xác nhận bởi một nhóm các bi ký Khmer ở Lopburi, một trong những bi ký đó là của Suryavarman I”[23]. Vì thế, khi liên kết các vấn đề một cách có hệ thống, có thể khẳng định rằng, chắc hẳn thời gian này phải có một cuộc bành trướng của Chân Lạp ở lưu vực sông Mê Nam, những dấu vết để lại của quốc gia này là điều không thể phủ nhận.
Bước sang thế kỷ XII, dưới sự trì vì của nhà vua Suryavarman II (cq: 1130-1150), đế chế Angkor bước vào giai đoạn cực phồn thịnh. Theo quan điểm của G.Coedès: “Việc vua lên cầm quyền trùng hợp với sự qua đời của Jaya Indravarman II của Champa và Kyanzitha của Pagan. Sự hiểu biết tốt hơn về mối quan hệ giữa các nước này có thể sẽ cho thấy một mối liên hệ nhân quả giữa việc biến mất của hai nhà vua hùng mạnh và việc chiếm quyền của một nhà vua người Khmer đầy tham vọng, có khả năng đánh cả sang Đông và sang Tây”[24]. Nếu như việc đánh sang phía Đông của nhà vua Suryavarnman II mục tiêu chính là vương quốc Champa và vùng lãnh thổ Nghệ An của Đại Việt, thì đánh sang phía Tây chính là sự bành trướng và khẳng định quyền lực ở vùng đồng bằng châu thổ sông Mê Nam trù phú?
Theo nhiều nhà nghiên cứu, dưới thời vua Suryavarman II, các đội quân Khmer có phạm vi chinh phạt rộng khắp và xa nhất. Tuy vậy, học giả D. G. E. Hall vẫn nghi ngờ về các cuộc hành quân của nhà vua sang vùng hạ lưu sông Mê Nam. Theo ông, “các văn khắc thuộc triều đại đức vua đều im lặng một cách kỳ lạ về các chiến dịch của nhà vua đánh Champa và Trung Kỳ Việt Nam (tức vùng đất Nghệ Tĩnh ngày nay - TG chú) cũng như đánh người Môn và người Thái ở lưu vực sông Mê Nam. Hầu hết các văn khắc này đều tìm thấy ở phía Bắc, nơi mà hình như vua sống hầu hết thời gian của mình và đã xây dựng một số đền thờ”[25].
Nghi ngờ của học giả D. G. E. Hall từng được G. Coedès cho rằng: “Trên mặt trận phía Tây (tức sự bành trướng về phía Tây của Chân Lạp - TG chú), người ta có được một số thông tin chỉ dẫn trong những cuốn sử biên niên của các tiểu quốc người Thái vùng thượng lưu sông Mê Nam. Những cuốn sử này thuật lại những cuộc chiến đấu giữa người Kamboja ở Lavo (Lopburi) và người Ramanna (Môn) ở Haripunjaya (Lampun). Tiểu quốc ở vùng thượng lưu sông Mê Nam này, do những người Môn đến từ Lavo thành lập vào thế kỷ II, đã sa vào những cuộc rối loạn khi Suryavarman I lên ngôi vua. Từ một thế kỷ trước, Lavo đã là một bộ phận của vương quốc Khmer. Khi ta nói “nhà vua xứ Lavo” thì phải hiểu rằng đó hoặc là một vị phó vương hoặc một thống đốc người Cao Miên, hoặc bản thân nhà vua Cao Miên”[26].
Tuy nhiên, tác giả lại cho biết thêm: “Vì niên biểu không được thật chính xác, nên chưa chắc những sự biến trên tất cả đều đã xảy ra dưới triều Suryavarman II. Người ta không khỏi ngạc nhiên khi thấy rằng, cũng giống như những chiến dịch chống lại người Chăm, cuộc chiến tranh chống lại người Môn ở thượng lưu sông Mê Nam kết cục đã bị thất bại. Nhưng người ta chỉ biết được những sự kiện này qua các nguồn tư liệu thù địch với Cao Miên, có thể đã cố tình bị bóp méo đi. Dù sao đi nữa, thì sự bành trướng rộng lớn về chủ quyền của nước Cao Miên trên bán đảo Đông Dương vào giữa thế kỷ XII cũng đã được Tống sử ghi nhận, theo đó nước Chân Lạp (Cao Miên) có biên giới phía Bắc giáp phía Nam Chiêm Thành (Champa), phía Đông giáp biển, phía Tây giáp Pou-Kan (vương quốc Pagan) và phia Nam giáp Kia-lo-hi (Grahi trong vùng Chaiya và vịnh Bandon ở bờ biển phía Đông của bán đảo Mã Lai)”[27].
Mô tả trên khá trùng khớp với những ghi chép trong sách Chư phiên chí của Triệu Nhữ Quát (một sử gia sống dưới thời Tống 960-1279: TG chú) về lãnh thổ của quốc gia Chân Lạp: “Nước Chân Lạp ở phía Nam nước Chiêm Thành. Phía Đông giáp biển. Phía Tây giáp nước Bồ Cam. Phía Nam giáp nước Bồ Cam. Phía Nam giáp nước Gia La Hy. Từ Toàn Châu đi thuyền gặp gió thuận thì hơn một tháng tới nước ấy. Nước này rộng độ 7.000 dặm”[28].
Trong tiến trình lịch sử, từ đầu thế kỷ XI sự bành trướng của người Khmer sang phần lãnh thổ của Xiêm được khẳng định tương đối thống nhất trong quan điểm của các học giả, thì các đợt hành quân của vị vua Surayavarman II vào thế kỷ XII luôn để lại nhiều nghi vấn. Điều này phần nhiều là do nguồn tư liệu cũng như cách nhìn nhận có khuynh hướng trái ngược từ hai phía (tức từ phía Chân Lạp và Xiêm). Tuy nhiên, căn cứ vào tư liệu bi ký cũng như các nguồn thư tịch cổ Trung Quốc có thể khẳng định rằng vào thế kỷ XI-XII, đế chế Angkor phát triển đến mức cường thịnh nhất, quyền lực của thể chế này không chỉ được khẳng định trên phần lãnh thổ Chân Lạp mà ngay cả Champa cũng như một phần ở lưu vực sông Mê Nam. Có thể thấy rằng, sự bành trướng thế lực của Chân Lạp ở lưu vực sông Mê Nam đã để lại quả hệ tiêu cực đó là làm triệt tiêu các quốc gia cổ của người Môn ở khu vực này. Tuy nhiên, tiếp cận vấn đề dưới một góc độ khác có thể thấy rằng, bên cạnh việc áp đặt thể chế của mình trên vùng lãnh thổ truyền thống của người Môn, người Khmer cũng để lại nơi đây nhiều giá trị về văn hóa, nghệ thuật với nhiều công trình đặc sắc.
Sự du nhập văn hóa, nghệ thuật của Chân Lạp ở lưu vực sông Mê Nam mạnh mẽ nhất vào các thế kỷ XI-XII, nhưng tiếp biến, tích hợp và thẩm thấu văn hóa là cả một quá trình và đòi hỏi khoảng thời gian dài. Như chúng ta đã biết, nghệt thuật Khmer ở Thái Lan đã có từ thế kỷ VII và ngày càng phát triển mạnh. Càng về những thế kỷ sau nền nghệ thuật điêu khắc Khmer càng trở nên rực rỡ và tạo thành một phong cách riêng mà người ta gọi là phong cách Lopburi là một nghệ thuật pha trộn giữa ảnh hưởng Khmer và Dvaravati[29]. Nhưng bên cạnh đấy, nhiều minh văn cũng cho thấy Phật giáo đã có nhiều ảnh hưởng trong đế quốc Khmer. Hiện tượng đó cũng thấy xuất hiện ở Lavo nhưng sự vượt trội được thể hiện rõ nhất ở Lopburi. Số di tích kiến trúc và ảnh tượng Phật giáo chứng tỏ rằng, ngay cả dưới sự thống trị của người Khmer, Phật giáo vẫn bảo lưu được tầm quan trọng mà nó đã có được trong thời vương quốc Dvaravati[30].
Về văn hóa vật thể, trên thực tế, ngoài các chùa và tháp, người Môn, Khmer và Thái còn để lại rất nhiều các tượng Phật thể hiện các phong cách điêu khắc khác nhau xuất hiện sớm nhất ở miền Bắc, miền Trung và Đông Bắc Thái Lan[31]. Và theo như nghiên cứu của G. Coedès thì: “Trong số nhiều công trình tạo dựng mang tính chất tôn giáo của nhà vua được liệt kê trong tấm bia ở Preah Khan, có 23 pho tượng mang tên Jayabuddhamahanatha, được lưu giữ trong nhiều thành phố như Lopburi, Supan, Ratburi, Pechaburi và Mường Sinh, tất cả ngày nay thuộc đất của Xiêm La. Có thể dùng làm nơi đặt các tượng đó, mà tên gọi gợi lại tên của nhà vua, một vài ngôi đền thờ được xây dựng ở các tỉnh, có phong cách kiến trúc được cho là thuộc về triều đại Jayavarman VII, thí dụ như Vat Nokor ở Kompong Cham và Ta Prohm ở Bati, còn về Banteay Chmar, đó là dành để tưởng niệm tới một người con trai cảu Yayavarman VII, hoàng tử Crindrakumara và 4 chiến hữu đã cứu sống ông, nhất là trong cuộc chiến đấu chống lại loài quỷ dữ Rahu và trong một cuộc hành quân đi đánh Champa”[32].
Như vậy, các hiện vật còn lưu giữ tại Lavo nói riêng cùng nhiều khu vực khác nhau ở lưu vực sông Mê Nam có giá trị lịch sử to lớn. Nó chứng tỏ sự thẩm thấu sâu đậm, sự hòa trộn rộng rãi các giá trị tinh thần do các tộc người Môn, rồi Khmer, rồi Thái sáng tạo nên. Xét trên phương diện chính trị, người Môn là những chủ thể đầu tiên; sau đó người Khmer từng bước xâm nhập và khẳng định bá quyền. Với người Thái, với tư cách là những người đến sau, nhưng có truyền thống ứng xử mềm dẻo và khả năng thích ứng cao, người Thái đã sớm hòa hợp với hai dân tộc trên, rồi từng bước vươn lên khẳng định quyền lực của mình trong khu vực. Trong mạch nguồn lịch sử đó, xét trên phương diện văn hóa, phải thấy rằng mỗi thời đại đều có những đóng góp và để lại những dấu ấn khác nhau. Nếu như ảnh hưởng của người Môn luôn có tính truyền thống nhất, còn người Thái là tộc người có sự tích hợp hoàn hảo thì người Khmer có những đóng góp cũng rất đáng ghi nhận. Dấu ấn của họ để lại đặc biệt sâu đậm trong thế kỷ XI-XII, khi Lavo dưới quyền quản lý của đế chế Angkor.
Trong thời kỳ cường thịnh, nền chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội Angkor phát triển ổn định và có nhiều sáng tạo. Tuy nhiên, với các cường quốc đặc biệt là các đế chế, càng phát triển cao thì nhu cầu về tài nguyên, nguồn sức lao động và nhu cầu mở rộng ảnh hưởng càng trở nên mạnh mẽ. Để giải quyết thực trạng đó, bên cạnh con đường trao đổi, giao lưu, các đế chế thường đem quân xâm lược bên ngoài. Đây là những nguyên nhân chính yếu khiến Chân Lạp cất quân đi xâm lược Champa, Nghệ An - vùng đất biên viễn của quốc gia Đại Việt. Phải chăng đây cũng là nguyên nhân quan trọng khiến Chân Lạp đem quân sang chiếm giữ và áp chế các vương quốc ở lưu vực sông Mê Nam? Chúng ta có thể thấy rằng, nếu như Chân Lạp chiếm giữ được lưu vực sông Mê Nam có nghĩa là họ đã làm chủ được vùng đồng bằng châu thổ màu mỡ, có hiệu suất canh tác cao bậc nhất châu Á. Thực tế lịch sự cho thấy, lưu vực sông Mê Nam (Chao Phraya) rất phì nhiêu, là mạch nguồn nuôi dưỡng thể chế Ayutthaya sau này - một đế chế thực chất lớn mạnh được là nhờ vào kiểm soát hoạt động buôn bán nông phẩm[33]. Bên cạnh đấy, nhiều khả năng khi chiếm giữ các tiểu quốc ở lưu vực sông Mê Nam, Chân Lạp còn hướng đến việc nắm giữ các tuyến thương mại nội vùng, vùng và liên vùng đang hình thành trên phần lãnh thổ này?
Đến đầu thế kỷ XI, đối với Chân Lạp là một quốc gia nông nghiệp lấy kinh tế lúa nước là chủ đạo, nhưng không vì thế mà các hoạt động khác có lợi cho sức mạnh kinh tế của vương quốc bị từ chối[34]. Đồng thời, hiểu rõ vai trò và những nguồn lợi thương mại từ phía Tây, từ vùng Biển Hồ, đế chế Angkor cũng muốn vươn mạnh đến lưu vực sông Chao Phraya, kiểm soát bán đảo Mã Lai nhằm thiết lập “mối quan hệ trực tiếp hơn nữa với các tuyến thương mại quốc tế”[35]. Cũng vào thời điểm này, xét trên khía cạnh thương mại, trong hoạt động giao thương nhộn nhịp ở khu vực biển Đông, theo Giáo sư Nhật Bản Sakurai Yumio đã có sự hội nhập của người Thái ở vùng châu thổ Mê Nam: “Khi mạng lưới Pagan vươn tới cao nguyên Shan và mạng lưới Angkor nối thông với vùng trung lưu sông Mekong thì các mường Thái ở các lòng chảo miền núi bắt đầu hình thành các trung tâm vùng, nối liền với các trung tâm liên vùng ở cả cao nguyên và đồng bằng châu thổ. Đến cuối thế kỷ XIII, Xa Lí (Sipsongpana) ở phía Nam Vân Nam, Lannatai ở phía Bắc Thái Lan và Pa Pai His Fu ở cao nguyên Shan đã trở thành những trung tâm vùng, nối thông với trung tâm vùng như Sukhothai ở phía Bắc miền Trung Thái Lan và Ava ở Miến Điện, là những trung tâm kế thừa mạng lưới Pagan và Angkor”[36]. Theo đó, tác giả cho rằng đến thế kỷ XIII, ở Thái Lan đã hình thành những trung tâm vùng và liên vùng quan trọng, mà trước đó đã hình thành mạng lưới thương mại bền vững của Angkor nối thông với các trung tâm liên vùng. Điều này cho thấy các mối giao thương gần gũi của Chân Lạp với khu vực lưu vực sông Mê Nam.
Không những vậy, các nguồn thư tịch cổ Trung Quốc cũng đã cho thấy các hoạt động thương mại tương đối tích cực của quốc gia này, sách Chân Lạp phong thổ ký của Chu Đạt Quan chép lại rằng: “Theo Chư phiên chí, nước ấy rộng 7.000 dặm, phía Bắc đến Chiêm Thành, đường đi mất nửa tháng, Tây Nam giáp Tiêm La, đường đi nửa tháng, Nam giáp Phiên Ngu, đường đi mười ngày, phía Đông là biển lớn. Xưa là một nước thông thương đi lại”[37]. Hay như chính trong Chư phiên chí của Triệu Nhữ Quát: “Nước này thường trao đổi buôn bán với các nước như Đăng Lưu Mi, Ba Tư Lan, La Hộc, Tạm Lạc, Chân Lý, Phú Ma La Vấn, Duyên Dương, Thôn Lý Phù, Bồ Cam, Oa Lý, Tây Sách, Đô Hoài, Tầm Phiên. Đều là thuộc quốc của họ”[38]. Nguồn chính sử Trung Quốc đem lại những thông tin rất quan trọng, nếu như việc xác định địa danh những thuộc quốc của Chân Lạp ngày nay thuộc khu vực cụ thể nào thì vẫn phải kiểm chứng thêm; thì đối với La Hộc (tức Lavo hay Lopburi) là thuộc quốc của Chân Lạp là vấn đề không thể phủ nhận, và nguồn tư liệu này còn bổ sung thêm những thông tin chưa rõ ràng của tài liệu bi ký. Đồng thời, việc ghi chép của Chư phiên chí cũng như Chân Lạp phong thổ ký còn cho thấy hoạt động ngoại thương tích cực của quốc gia Chân Lạp với một trong những đối tác quan trọng là thuộc quốc của nó tức Lavo. Phải chăng chính trên cơ sở kiểm soát mạng lưới thương mại nội vùng, liên vùng này, vì trên thực tế các thuộc quốc của Chân Lạp đa phần nằm ven biển, gần gũi với các trung tâm và tuyến thương mại lớn của khu vực, mà Chân Lạp ngày càng muốn mở rộng quyền năng của mình trên vùng châu thổ sông Mê Nam rồi từng bước kết nối trực tiếp với hệ thống thương mại châu Á. Nhiều khả năng, bên cạnh việc muốn thay thế đế chế Phù Nam về phương diện chính trị, xã hội, quốc gia Chân Lạp còn muốn hướng tới sự thay thế Phù Nam trên cương vị một trung tâm liên thế giới? Điều này đòi hỏi sự nghiên cứu chuyên sâu hơn nữa để tìm ra các luận giải thấu triệt hơn.
Như vậy, trong các thế kỷ VII-XIII, nếu như ở Chân Lạp là quá trình thống nhất, chia tách, rồi sau đó lại thống nhất và phát triển đến đỉnh cao dưới thời đế chế Angkor; thì ở Xiêm diễn ra tiến trình vận động, tích hợp, hội tụ, thay thế của các tiểu quốc của người Môn, người Thái. Có nghĩa là khi mà Chân Lạp phát triển thịnh đạt nhất thì quốc gia - dân tộc Thái chưa chính thức hình thành trên lãnh thổ Thái Lan ngày nay. Vai trò chủ thể đó thuộc về các tiểu quốc Dvaravati, Lavo, Haripunjaya… của người Môn. Bao trùm lên quan hệ Chân Lạp và Xiêm các thế kỷ này là sự tranh giành ảnh hưởng, khẳng định sức mạnh và áp đặt thể chế của cả người Môn và người Thái ở châu thổ sông Mê Nam. Sau khoảng 5 thế kỷ xác lập địa vị của mình (từ thế kỷ VII đến XI), đến đầu thế kỷ XI, đặc biệt là thế kỷ XII, địa vị độc tôn của người Môn ở các tiểu quốc Dvaravati, Lavo, Haripunjaya… đã từng bước bị thay thế bởi người Khmer. Dựa trên nền tảng của châu thổ sông Mekong màu mỡ, đặc biệt ở khu vực Tonlesap, người Khmer phát triển đến đỉnh cao của nền văn minh nông nghiệp. Sự thịnh vượng đó đã làm nền và đẩy đà để đế chế này mở lãnh rộng thổ, áp đặt sự thống trị cũng như tạo dựng ảnh hưởng văn hóa không chỉ ở Champa mà cả ở Xiêm. Các công trình kiến trúc, nghệ thuật mà người Khmer để lại trên lãnh thổ Xiêm là những minh chứng rõ ràng nhất. Không những vậy, bên cạnh mục tiêu chính trị, có nghĩa là người Khmer muốn áp đặt thể chế của mình ở Xiêm, đế chế Angkor còn cho thấy khát khao nắm giữ các tuyến thương mại ở vùng đất này và qua đó kết thông với thị trường thương mại quốc tế trực tiếp với cường độ ngày càng cao hơn.
2. Quan hệ của Chân Lạp và Xiêm trong các thế kỷ XIII-XVI
Bước sang thế kỷ XIII, đặc biệt nửa sau thế kỷ này, cán cân lực lượng của Chân Lạp và Xiêm đã dần dần đảo chiều. Nếu như các vương quốc của người Thái dần định hình và khẳng định sức mạnh của mình với các đế chế lớn mang tầm khu vực như Sukhothai, Ayutthaya thì đế chế Angkor sau khoảng 4 thế kỷ phát triển rực rỡ, đã có dấu diệu suy yếu. Đây là những nhân tố quan trọng quyết định trực tiếp đến hình thức và tính chất quan hệ của Chân Lạp và Xiêm trong các thế kỷ XIII-XVI.
Thực tế lịch sử cho thấy, nếu như nửa đầu thế kỷ XIII, đế chế Angkor về cơ bản vẫn duy trì được sự ổn định của mình, thông qua việc cất quân đi đánh vùng biên viễn phía Nam của Đại Việt vào các năm 1216 và 1218 hay đánh chiếm và làm chủ Champa từ năm 1199 cho đến những thập niên đầu thế kỷ XIII. Cho đến khi bị người Thái đẩy lùi, Angkor vẫn làm chủ châu thổ sông Mê Nam và một phần bán đảo Mã Lai nhưng đến nửa sau thế kỷ XIII quốc gia này bắt đầu khủng hoảng, suy yếu. Thực tế đó dẫn đến hiện trạng: “Rất khó tìm các chi tiết về lịch sử Khmer trong thời gian còn lại của thế kỷ XIII. Không hề có bia văn khắc đương đại quan trọng nào, còn sách về lịch sử các vương triều Trung Quốc không nói gì về thời kỳ này. Các nguồn thông tin chủ yếu là các văn bia khắc của người Chàm và người Thái, sau này là của Campuchia. Sau Jayavarman VII, Campuchia không có một vị vua vĩ đại nào nữa. Hầu hết công trình của đức vua đều tàn lụi ít lâu sau khi vua qua đời. Quân Khmer đã rút khỏi Champa và phản ứng của đạo Hinđu đã quét sạch sự sùng bái đức Phật Buddharaja. Khắp nơi, tượng linga đã thay thế tượng Lokesvara”[39].
Tuy nhiên, mặc dù có ít tư liệu về lịch sử Chân Lạp thời gian này, nhưng cũng theo D. G. E. Hall, đế chế Angkor huy hoàng chỉ có dấu hiệu thoái trào sau 4 thế kỷ phát triển rực rỡ, chứ không hẳn là sự sụp đổ. Tác giả đã đi sâu phân tích các dấu hiệu suy thoái đó: “Việc rút quân khỏi Champa là bước đầu tiên dẫn đến sự tan rã của đế chế Khmer. Mặc dù ta không biết rõ các sự kiện đã xảy ra, có lý do để cho rằng ít lâu sau đó Tambralinga đã trở nên độc lập. Người Thái cũng tăng cường vị trí của họ ở vùng thượng lưu sông Mê Nam theo hướng không có lợi cho quyền lực của người Khmer. Tuy vậy, ngay ở Campuchia vẫn chưa có những dấu hiệu của sự sụp đổ, mà chỉ có một ít dấu hiệu của sự suy đồi. Do đó vào cuối thế kỷ, Chu Đạt Quan, một nhà quan sát Trung Quốc mô tả một thành phố tráng lệ và một đất nước thịnh vượng, mặc dù quân Thái đã tiến công tàn phá”[40].
Sự suy thoái của Campuchia chỉ thực sự bắt đầu từ khoảng đầu thế kỷ XIV. Có người đã gọi sự kiện năm 1336 là “một cuộc cách mạng vương triều” khi mà theo truyền thuyết, ông vua cuối cùng của vương triều III-Jayavarmandiparamesvara đã bị chết vô tình bởi một mũi giáo của người trồng dưa, còn người trồng dưa nghèo được tôn lên ngôi báu, vẫn mang một cái tên bình dị “Người trồng dưa chuột ngọt” (Ta Trasak Paem) hay gọi theo niên hiệu là “Lão Thắng” (Ta Chay). Tuy nhiên, năm 1336 cũng đánh dấu một mốc quan trọng trong tiến trình văn hóa Campuchia. Việc sử dụng Phạn ngữ đã nhường chỗ hẳn cho tiếng Pali và Khmer; bi ký nhường chỗ hẳn cho kinh Phật và các bản niên giám hoàng gia viết trên lá cọ. Đạo Phật tiểu thừa đã thịnh hành và các vua từ đây từ bỏ truyền thống gọi vương hiệu theo kiểu Ấn Độ. Tước Varman (tước truyền thống của đẳng cấp Kshatiya Ấn Độ) không được dùng nữa. Tên gọi được Khmer hóa, chẳng hạn tên vua luôn luôn gắn liền với từ Preah, có nghĩa là “Thiêng liêng”[41].
Bên cạnh đó, tiếp cận sự sụp đổ của đế chế Chân Lạp trên phương diện văn hóa, tác giả cũng cho rằng: “Nhưng ở cơ sở, sự thay đổi lớn đang diễn ra sẽ