24/05/2018, 14:19

Quan điểm sáng tác của Nguyễn Minh Châu sau năm 1975

0 Đoàn tàu thống nhất - Biểu tượng của sự sum họp hai miền Nam Bắc sau 30 - 4 - 1975. Sự thể nghiệm ở thể loại tiểu thuyết ...

0

Đoàn tàu thống nhất - Biểu tượng của sự sum họp hai miền Nam Bắc sau 30 - 4 - 1975.

Sự thể nghiệm ở thể loại tiểu thuyết

Những năm cuối thập kỷ 70.

Nguyễn Minh Châu là nhà văn nhạy cảm với những biến đổi của đời sống xã hội ngay sau chiến tranh. Hai cuốn tiểu thuyết Miền cháy Lửa từ những ngôi nhà cùng xuất bản năm 1977 đã mang đến sắc điệu mới trong sáng tác của nhà văn.

Miền cháy

Miền cháy là câu chuyện của đất nước vừa ra khỏi cuộc chiến tranh phải đối mặt với bao nhiêu khó khăn và thách thức- nhiều cái là hậu quả của chiến tranh, nhiều cái lại mới nảy sinh sau cuộc chiến và ngay trong hàng ngũ những người chiến thắng. “Bước ra khỏi một cuộc chiến tranh cũng phải có đầy đủ trí tuệ và nghị lực như bước vào một cuộc chiến tranh”, đó là điều mà nhà văn muốn gửi đến bạn đọc qua câu chuyện của gia đình mẹ Êm và những con người vừa đi ra từ cuộc chiến trên một vùng đất khốc liệt nhất suốt cuộc chiến tranh: Quảng Trị, miền đất gánh chịu sự tàn phá, huỷ diệt đến từng thôn xóm, từng tấc đất và sự mất mát đau thương dội xuống mỗi gia đình, mỗi con người. Ở cuốn tiểu thuyết này, Nguyễn Minh Châu cũng đã sớm cảnh báo về những ung nhọt hiểm hoạ của cái xấu, cái ác đang mọc ra ngay trong hàng ngũ cách mạng sau ngày chiến thắng. Những cán bộ được nhân dân che chở nuôi dưỡng trong thời kỳ chiến tranh, nay có quyền lực đã bắt đầu xa rời nhân dân, quan liêu, thờ ơ trước số phận của người dân. Nguyễn Minh Châu qua Miền cháy còn muốn nêu cao tinh thần hoà hợp, lòng khoan dung - những cái cần phải có lúc này ở mỗi con người nhất là ở những người chiến thắng để lấp đi những hố sâu ngăn cách, để chung tay xây dựng lại cuộc sống trên một nước đã phải gánh chịu quá nhiều đau thương tàn phá. Cảnh kết thúc truyện là một chi tiết mang tính biểu tượng cho thông điệp nói trên của nhà văn: bà mẹ Êm cầm tay thằng Sinh đặt vào lòng bàn tay người cha tội lỗi của nó - viên trung tá nguỵ mà trong lúc trốn chạy đã bắn lén người chiến sĩ giải phóng và cũng là đứa con trai cuối cùng của bà.

Lửa từ những ngôi nhà

Tiểu thuyết Lửa từ những ngôi nhà được Nguyễn Minh Châu viết trong những năm cuối chiến tranh, nhưng phải đến 1977 mới được ra mắt độc giả. Qua câu chuyện một chuyến về phép của người lính từ chiến trường về thành phố, hình ảnh của hậu phương hiện ra không êm ả như nhiều sách hồi đầu chiến tranh thường mô tả, mà tiềm ẩn không ít vấn đề. Nhưng vượt lên tất cả mọi thiếu thốn, khó khăn vẫn là một hậu phương vững chắc với những con người tất cả dành cho tiền tuyến, và mỗi người lính đều được truyền ngọn lửa từ mỗi ngôi nhà, mỗi tấm lòng của người hậu phương.

Đặt người lính vào trong môi trường sinh hoạt ngày thường ở hậu phương, Nguyễn Minh Châu cũng nhìn họ ở một cự li gần, thấy cả những thiếu hụt ở nơi họ và điều đó như một dự báo về trở ngại đối với người lính khi họ trở về sau chiến tranh.

Sơ kết

        Hai cuốn tiểu thuyết kể trên có thể coi là những cố gắng đầu tiên của Nguyễn Minh Châu để chuyển hướng ngòi bút của mình khi bước sang một thời kỳ mới. Tuy nhiên, các ý tưởng mới của tác giả chưa phải đã được hoá thêm đầy đủ và sâu sắc vào các hình tượng và chi tiết nghệ thuật, nên đã hạn chế phần nào sức thu hút và giá trị của những tiểu thuyết ấy.

Tiểu thuyết Nguyễn Minh Châu những năm 80

Trong những năm 80 Nguyễn Minh Châu còn có hai tiểu thuyết được xuất bản: Những người đi từ trong rừng ra (1982) và Mảnh đất tình yêu (1987).

Những người đi từ trong rừng ra (1982)

Tác phẩm kể chuyện một tiểu đoàn rời khu căn cứ trên rừng miền tây Thừa Thiên, tiến xuống vùng cửa Thuận An xây dựng thành một đơn vị đánh cá biển. Những bàn tay người lính hôm qua chỉ quen cầm súng rồi cầm xẻng dò gỡ mìn, hôm nay đã nắm lấy mái chèo và những vàng lưới học nghề đánh cá biển, đi từ thô sơ đơn giản đến hiện đại, từ những đội thuyền đánh cá bằng vó đèn đến những cặp tàu giã, từ trong lộng vươn cánh tay ra khơi xa.

Chuyển sang làm nhiệm vụ kinh tế, Hiển - chính trị viên tiểu đoàn- cũng như nhiều người khác, mới nhận ra rằng: “Trong đời mình chưa hề làm một nghề gì, chưa bao giờ phải tự đi làm nuôi thân, chưa bao giờ mình sống bằng một thứ nghề nghiệp gì trong tay”, bởi vì trong một đất nước mấy chục năm đánh giặc, “một lớp người rất đông đảo như anh vừa lớn lên đã vào bộ đội, vừa rời ghế nhà trường là đã học cách cầm súng để đánh giặc cứu nước”. Không chỉ là chuyện làm ăn kinh tế, Nguyễn Minh Châu còn đặt những nhân vật người lính của mình vào môi trường của đời sống thường nhật với những nhu cầu, những quan hệ phức tạp, cả xã hội và riêng tư. Có không ít những bỡ ngỡ, lúng túng, cả sự vấp ngã ở họ. Nhưng rồi những phẩm chất của người lính được hình thành và rèn luyện trong bấy nhiêu năm chiến tranh đã giúp cho phần lớn người trong số họ đứng vững được và tìm thấy vị trí của mình. “Con người ta bao giờ cũng vậy, con người vừa mải miết đi về phía trước mình để chinh phục tương lai, vừa đồng thời đi tìm kiếm quá khứ của mình, nguồn gốc của chính mình”, Nguyễn Minh Châu muốn gửi gắm điều suy nghĩ ấy qua các nhân vật của mình, nhất là Hiển- nhân vật chứa đựng nhiều suy tư, chiêm nghiệm của tác giả. Nhược điểm của cuốn tiểu thuyết là hai nhân vật chính: Hiển và Thu Lan còn đậm màu sắc lý tưởng hoá, và ở cuối truyện số phận nhiều nhân vật được tác giả an bài có phần mau chóng và dễ dàng.

Những mất mát đều được bù đắp, tình yêu và hạnh phúc đều đến với họ, từ cặp Nghinh - Quỳ, đến Khơi - Phan, rồi cả Hiển và Thu Lan cũng như gia đình Mễ, tưởng như mọi vấn đề, mọi số phận đều được giải quyết ổn thỏa.

Mảnh đất tình yêu

Mảnh đất tình yêu (1987): truyện được trần thuật bằng lời của nhân vật Quy, theo cách xen kẽ hồi tưởng với hiện tại, từ lúc còn là một chú bé mồ côi cha khi mới nửa tuổi, sống với mẹ và ông ngoại, đến lúc trưởng thành, rời làng quê ra thành phố. Qua đó, tác phẩm làm hiện lên nhiều cuộc đời với những số phận lắm truân chuyên của mấy thế hệ tiếp nối nhau trên một vùng đất ở của lạch đổ ra biển - nơi mà cứ vài ba chục năm “trời đất lại vẽ lại bản đồ một lần”, cùng với bao nhiêu biến thiên của chiến tranh và đổi thay của xã hội. Nổi bật trong thế giới nhân vật của cuốn tiểu thuyết là ông ngoại và mẹ của Quy, rồi ông lão Bờ - những con người bằng nghị lực phi thường và sự bền bỉ, nhẫn lại vượt lên mọi tai hoạ, hiểm nguy và thách thức để duy trì sự sống và niềm tin vào các giá trị nhân bản trên đời. Chính tình yêu thương đã gắn kết mọi con người, mọi số phận nhiều bất hạnh của họ, để bảo tồn sự sống trước mọi cơn bão táp huỷ diệt đến từ thiên nhiên và xã hội, để mảnh đất đầy sóng gió ấy vẫn là mảnh đất tình yêu. Đó cũng là niềm tin của Nguyễn Minh Châu vào sức sống và các giá trị bền vững của nhân dân.

Sơ kết

Bốn tiểu thuyết trên đây đã thể hiện những chuyển biến trong tư tưởng và nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu ở giai đoạn sáng tác sau năm 1975. Nhưng sự đổi mới của nhà văn còn được thể hiện đầy đủ và rõ nét hơn trong các truyện ngắn và truyện vừa của ông, đồng thời bộc lộ trực tiếp trong nhiều bài tiểu luận và chân dung văn học.

Sự bứt phá ở thể loại truyện ngắn:

Ngay từ năm 1978, trong bài Viết về chiến tranh, Nguyễn Minh Châu đã xác định một định hướng đúng đắn: viết về chiến tranh là viết về con người, cố nhiên là con người trong các quan hệ với những sự kiện chiến tranh. Cũng ngay từ 1976, nhà văn đã đặt bút viết truyện ngắn Bức tranh mà mãi đến 1982 mới được ra mắt công chúng. Từ đó, hàng loạt truyện vừa và truyện ngắn được Nguyễn Minh Châu lần lượt công bố, tạo nên một sự kiện có tiếng vang trong đời sống văn học những năm 1980, thậm chí đã là đề tài cho một cuộc trao đổi có nhiều ý kiến trái ngược, được tổ chức ở trụ sở báo Văn Nghệ vào tháng 6 - 1985. Hầu hết các truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu trong giai đoạn này đã được tập hợp in trong 3 tập: Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành (1983), Bến quê (1985) và Cỏ lau (1989).

Xem phim và thảo luận

    Từ đoạn phim trên, kết hợp với việc đọc các tác phẩm Nguyễn Minh Châu sau 1975, anh (chị) hãy chỉ ra những phương diện đổi mới trong tư tưởng và nghệ thuật của nhà văn ?

Mở rộng phạm vi hiện thực và khả năng khám phá con người

Trước hết, nhà văn đã mở ra những bình diện mới của hiện thực cùng với những hướng tiếp cận mới. Sự quan tâm của tác giả hướng vào đời sống thế sự hàng ngày đang ẩn chứa bao nhiêu vấn đề của các quan hệ nhân sinh, đạo đức và các số phận con người. Chăm chú quan sát cuộc sống xung quanh mình, Nguyễn Minh Châu nhận thấy ngày càng có nhiều vấn đề cần phải quan tâm và nhà văn muốn “dùng ngòi bút tham gia trợ lực cho con người trong cuộc đấu tranh giữa cái thiện và cái ác trong mỗi con người”(lời phát biểu của tác giả trong cuộc trao đổi về truyện ngắn Nguyễn Minh Châu, tháng 6- 1985). Nhiều truyện ngắn chỉ là những câu chuyện hàng ngày trong gia đình, giữa cha mẹ và con cái, trong một khu tập thể (Mẹ con chị Hằng, Giao thừa, Đứa ăn cắp, Người đàn bà tốt bụng, Hương và Phai, Lũ trẻ ở dãy K). Nhưng qua những sự việc, câu chuyện dường như bình thường, nhà văn đã nghiệm thấy được những quy luật của đời sống và không ít vấn đề về cách sống, cách ứng xử của người đời. Sự vô tâm trong đối xử với người mẹ của chị Hằng chỉ đáng trách, nhưng sự vô tâm và thói xấu “ngồi lê đôi mách” của những người đàn bà trong khu tập thể có thể dẫn đến cái chết thương tâm của một cô gái bị nghi là đứa ăn cắp. Việc đại sự trăm năm của một đôi lứa hoá ra lại là được bắt đầu từ sự sắp xếp như trong một trò chơi của hai đứa trẻ bạn thân - cái Hương và cái Phai, rồi niềm vui của gia đình này lại phải đánh đổi bằng sự thiệt thòi của gia đình khác (truyện Hương và Phai). Thể hiện những điều quan sát ở đời thường của những người xung quanh, nhà văn muốn lưu ý mọi người về cách sống, thức tỉnh ở mỗi người nhìn lại những thói quen, những cách ứng xử với người khác và với chính mình. Các truyện Bức tranh, Sắm vai, Dấu vết nghề nghiệp lại hướng vào ý thức tự vấn để con người tự nhìn vào chính mình, nhất là vào con người bên trong, nói như nhân vật hoạ sĩ trong Bức tranh: “Trong con người tôi sống lẫn lộn cả rồng phượng lẫn rắn rết, thiên thần và quỷ sứ”. Mỗi truyện là một cuộc tự vấn, là sự xung đột giữa phần con người chân chính với phần tầm thường, giả dối, ích kỷ trong chính mình để vượt lên, hướng tới cái thiện. Có cái bi hài kịch đánh “mất mình” của nhân vật nhà văn T (Sắm vai), cuộc đấu tranh nội tâm để tự thú với chính mình về lỗi lầm và trách nhiệm trước những đau khổ của người khác ở nhận vật hoạ sĩ (Bức tranh). Truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu còn là sự chiêm nghiệm về đời người (Bến quê), về bi kịch của những số phận bị chiến tranh “phạt ngang làm hai nửa và không thể nào gắn trở lại” như Lực và Thai trong Cỏ lau. Chiến tranh còn được nhìn nhận ở sự tác động tiêu cực của nó đến nhân cách: Toàn (Mùa trái cóc ở miền Nam) chẳng những lạnh lùng, vô cảm trước đồng đội mà còn bất nhẫn với cả người mẹ đã bao năm khắc khoải mong được gặp con với nỗi day dứt khuôn nguôi.

Thay đổi bút pháp xây dựng nhân vật

      Truyện ngắn Nguyễn Minh Châu đã tạo dựng được những hình tượng nhân vật đặc sắc, có sức ám ảnh mạnh mẽ mà nổi bật là Quỳ (Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành), Hạnh (Bên đường chiến tranh), Khúng (Khách ở quê ra và Phiên chợ Giát). Những nhân vật này khi mới xuất hiện có làm cho một số người đọc, kể cả một số đồng nghiệp, cho là nhân vật dị biệt và hoài nghi tính chân thực của những hình tượng ấy. Nhưng thực tiễn đã vượt qua cách hiểu và đánh giá có phần hạn hẹn âý và các nhân vật này là những thành công của ngòi bút Nguyễn Minh Châu trong việc đào sâu vào bản thể đầy phức tạp, đang không ngừng biến động, sinh thành của mỗi cá nhân con người.

Sự suy tư, trăn trở trong phê bình - tiểu luận

    Trong giai đoạn từ sau 1975, Nguyễn Minh Châu còn viết nhiều bài về văn học, hoặc dưới dạng những trang sổ tay ghi chép. Tản mạn suy nghĩ, kinh nghiệm của nhà văn, lại có những chân dung nhà văn thuộc nhiều thế hệ. Phần lớn các bài này sau khi Nguyễn Minh Châu qua đời, đã được tập hợp trong cuốn Trang giấy trước đèn (1994). Những bài viết này chứa đựng nhiều suy nghĩ trăn trở để đổi mới văn học, bộc lộ trực tiếp nhiều khía cạnh trong quan niệm nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu, cũng là đóng góp đáng kể của nhà văn vào sự chuyển biến ý thức nghệ thuật ở buổi đầu thời kỳ đổi mới.

0