04/06/2017, 00:30
Qua bài Xin lập khoa luật (Trích Tế cấp bất điếu) của Nguyễn Trường Tộ, anh (chị) có suy nghĩ gì về vai trò của luật trong đời sống xã hội.
Nói đến hai từ "xã hội" là chúng ta nói đến tập hợp của nhiều vấn đề về cuộc sống dân sinh, trong đó chứa đựng rất nhiều tính chất phức tạp của nó. Để trấn áp và giải quyết những mâu thuẫn do sự phức tạp đó sinh ra, bắt buộc trong đời sống xã hội phải tuân thủ theo những nguyên tắc nhất ...
Nói đến hai từ "xã hội" là chúng ta nói đến tập hợp của nhiều vấn đề về cuộc sống dân sinh, trong đó chứa đựng rất nhiều tính chất phức tạp của nó. Để trấn áp và giải quyết những mâu thuẫn do sự phức tạp đó sinh ra, bắt buộc trong đời sống xã hội phải tuân thủ theo những nguyên tắc nhất định, nguyên tắc đó chính là luật.
Ở mỗi thời đại, luật có sự điều chỉnh khác nhau cho phù họp với hoàn cảnh lịch sử xã hội trong thời đại đó. Thấy được vai trò quan trọng đó của luật, nhà trí thức yêu nước Nguyễn Trường Tộ đã viết bàn Điếu Trần, một bài văn chính luận, để trình lên bề trên về những điều cần phải canh tân đất nước, trong đó có luật. Bài Xin lập khoa luật trích ở bản Điếu trần số 27 có tên là Tế cấp bát điếu. Bài trích này cho thấy Nguyễn Trường Tộ là một người sớm nhận ra những điều cần phải đổi mới để đem lại sự thịnh vượng cho đất nước và lẽ công bằng cho xã hội.
Trong lịch sử nước nhà đã từng hình thành nhiều luật khác nhau. Cách đáy trên sáu thế kỉ có bộ luật Hồng Đức nổi tiếng, trong đó quy định nhiều vấn đề có tính chất xã hội rộng lớn. Bộ luật Hồng Đức có sự ảnh hưởng mạnh mẽ đối với đời sống chính trị xã hội qua nhiều thời kì. Nhưng do quy luật phát triển lịch sử, sang các giai đoạn sau, đất nước cần có những luật mới phù hợp với tính chất và hoàn cảnh xã hội lúc đó. Vì vậy tác giả Nguvễn Trường Tộ đã đề nghị và thuyết phục bề trên cần phải thay đổi luật.
Theo tác giả, luật phải là công cụ đại diện cho lẽ công bằng. Do đó "bất luận quan hay dân, mọi người đều phải học luật nước...”. Từ tính chất quan trọng đó cho nên một đòi hỏi gần như bắt buộc đối với mọi người là phải học luật và nắm được luật, mặt khcác còn cần phải tôn trọng và chấp hành nghiêm minh luật nước nhà bởi "vì luật bao gồm cả kỉ cương, uy quyền, chính lệnh của quốc gia". Có thể nói luật là chỗ công bằng nhất để hòa giải các mâu thuẫn trong xã hội. Vì vậy dù bất cứ ai phạm vào những điều quy định trong luật đều phải được xét xử theo đúng luật và công minh. Như thế kỉ cương phép nước mới được giữ vững, luật mới xứng đáng với vai trò là công cụ của nhà nước trong việc bảo vệ sự bình yên cho nhân dân.
Để chứng minh cho vai trò có tính quan trọng tuyệt đối của luật, tác giả dẫn lại trong các giai đoạn lịch sử đã qua, theo đó ta hiểu được rằng nếu không có luật thì đồng nghĩa với không có một xã hội bình yên.
Nói về ý nghĩa của luật, tác giả đã nêu lên những khía cạnh có tính chất như để so sánh với đạo làm người. Và từ đó ông dẫn lại trong lịch sử rằng: "Từ xưa đến nay các vua chúa nắm quyền thống trị đất nước giúp đời đều nhờ hiểu luật, còn các sách vở khác cũng chỉ là phụ thuộc. Nếu trong nước không có luật thì dù vạn quyển sách cũng không thể trị dân”. Với lập luận một cách khoa học và chính xác đó cho thấy rằng nếu chỉ dựa vào những điều trong sách vở mà không hiểu luật thì đó chỉ là cách nói suông và không bao giờ trở thành một công cụ để đem lại an bình cho đất nước. Ngay ở những quyển sách nói về luật cũng vậy, nếu sách đó không thể hiện tính thời đại của luật thì nó cũng trở nên vô tác dụng. Do đó phải có sự điều chỉnh và hợp nhất thành một hệ thống chặt chẽ về điều khoản và nội dung của luật thì mới phát huy tác dụng.
Lại nói về vai trò và ý nghĩa của luật, tác giả Nguyễn Trường Tộ đã phân tích:
"Nếu bảo luật chỉ tốt cho việc cai trị chứ không có đạo đức tinh vi, thế là không biết rằng trái luật là tội, giữ đúng luật là đức. Nếu tận dụng cái lẽ công bằng ở trong luật mà xử sự thì mọi quyền pháp đều là đạo đức".
Qua cách lập luận trên ta thấy rõ luật phải vừa đảm bảo tính nghiêm minh của nó nhưng lại vừa có tính nhân đạo hoặc nói cách khác luật phải chứa đựng trong đó bản chất của đạo đức con người. Nếu luật chỉ đơn thuần là công cụ trấn áp và giải quyết các mâu thuẫn của xã hội thì vô tình đã đem cái đạo của con người ra ngoài lề của công lí, pháp luật. Như vậy luật cũng là một hình thức thể hiện đạo đức con người. Bởi thế trong luật bao giờ cũng ẩn chứa tinh thần nhân đạo lớn lao nhằm bảo vệ lẽ phải và sự công bằng tuyệt đối. Vì thế khi áp dụng luật vào đời sống xã hội phải thật tinh vi và nhạy bén tránh làm tổn hại đến phạm trù đạo đức và lối sống của con người. Vậy nên tác giả mới nói: "Nếu tận dụng cái lẽ công bằng ở trong luật mà xử sự thì mọi quyền pháp đều là đạo đức". Nghĩa là giữa luật và đạo đức phải cùng song hành và bổ trợ cho nhau tạo ra một thiết chế đủ để đem lại sự bình an và, thịnh đạt cho xã hội.
Trong những luật đã từng tồn tại trong lịch sử tất cả đều mang hai yếu tố cần thiết nói trên nhưng chung quy lại là để giữ vững và bảo vệ công bằng và chính nghĩa cho con người. Chưa có một xã hội nào dưới sự bảo trợ của luật mà không có yêu tố đạo đức và pháp quyền để trị những hành vi phạm luật. Nói như vậy có nghĩa là không bao giờ đạo đức con người lại được tách ra ngoài hệ thống của luật mà ngược lại đạo đức đó lại được tác hợp với luật nhằm ứng xử những tình huống mang tính chất nhạy cảm trong xã hội. Nói về tính chất và đặc trưng của đạo đức đó là sự tổng hòa cua những tố chất tốt đẹp nhằm tạo nên đức tính và phẩm chất cao quý của con người. Để đối chiếu trong phạm vi của luật tác giả khẳng định:
"Có cái đức nào lớn hơn đức chí công vô tư? Chí công vô tư là đức trời. Trong luật cái gì cũng công bằng, hợp với đức trời".
Như vậy, theo tác giả, giữa đạo đức và "chí công, vô tư" là một, xếp ngang hàng với luật. Tóm lại đạo đức và luật luôn phải là công cụ sắc bén hỗ trợ nhau nhằm đảm bảo sự công bằng cho xã hội. Nếu hai yếu tố tách rời nhau thi sự nghiêm minh của phép nước sẽ không được vững chắc. Đó là lí do trong luật cần có đạo đức và đạo đức chính là "chí công, vô tư”.
Qua sự phân tích trên ta thấy, luật đóng một vai trò không thể thiếu trong đời sống xã hội. Chỉ có luật mói đem lại sự công bằng cho xã hội mà không một thiết chế nào có thể thay thế được. Sự ổn định đất nước dù ở thời đại nào cũng cần phải có luật. Luật sẽ quy định những yêu cầu của cuộc sống nhằm đem lại sự bình yên và thịnh vượng cho mọi người trong xã hội. Tính quan trọng của luật thể hiện rõ ở chỗ luật bảo đảm kỉ cương phép nước, giữ vững kỉ cương đó và không để bất kì một ai vi phạm luật hoặc nếu làm trái luật thì tất yếu phải được trị theo đúng luật. Vì những điều quan trọng đó nên trong bất kì một xã hội nào cũng đều cần phải có luật. Chỉ có luật xã hội mới bình yên, đất nước mới thịnh vượng được.
Tóm lại, có thể nói rằng mỗi chế độ xã hội đều phải tuân theo sự quy định nghiêm minh của luật. Nếu xã hội đó tách khỏi luật thì sẽ dẫn đến những hậu quả khôn lường. Tác giả Nguyễn Trường Tộ đã sớm nhận ra tính chất quan trọng của luật và mong muốn canh tân đất nước bằng luật. Có thể nói ông có một tầm nhìn rộng lớn và một tư tưởng tân tiến trong thời đại bấy giờ, vì bản thân ông thấy được vai trò quan trọng của luật trong đời sống xã hội.
Ngày nay, khi toàn thể xã hội đang phát triển mạnh mẽ, luật lại càng chứng tỏ tầm quan trọng của nó trong đời sống dân sinh. Vì tính chất quan trọng đó cho nên luật luôn được điều chỉnh cho phủ hợp với hoàn cảnh lịch sử đất nước trong thời kì mới. Vì vậy, chúng ta luôn được chứng kiến sự công bằng của xã hội nhờ tính nghiêm minh của luật trong đời sống chính trị nước nhà. Do đó, trong mỗi chủng ta phải tôn trọng, giữ gìn và bảo vệ luật để xã hội ngày một công bằng hơn, đất nước ngày càng phát triển hơn, văn minh hơn theo nhịp tiến cùng thời đại.
Trong lịch sử nước nhà đã từng hình thành nhiều luật khác nhau. Cách đáy trên sáu thế kỉ có bộ luật Hồng Đức nổi tiếng, trong đó quy định nhiều vấn đề có tính chất xã hội rộng lớn. Bộ luật Hồng Đức có sự ảnh hưởng mạnh mẽ đối với đời sống chính trị xã hội qua nhiều thời kì. Nhưng do quy luật phát triển lịch sử, sang các giai đoạn sau, đất nước cần có những luật mới phù hợp với tính chất và hoàn cảnh xã hội lúc đó. Vì vậy tác giả Nguvễn Trường Tộ đã đề nghị và thuyết phục bề trên cần phải thay đổi luật.
Theo tác giả, luật phải là công cụ đại diện cho lẽ công bằng. Do đó "bất luận quan hay dân, mọi người đều phải học luật nước...”. Từ tính chất quan trọng đó cho nên một đòi hỏi gần như bắt buộc đối với mọi người là phải học luật và nắm được luật, mặt khcác còn cần phải tôn trọng và chấp hành nghiêm minh luật nước nhà bởi "vì luật bao gồm cả kỉ cương, uy quyền, chính lệnh của quốc gia". Có thể nói luật là chỗ công bằng nhất để hòa giải các mâu thuẫn trong xã hội. Vì vậy dù bất cứ ai phạm vào những điều quy định trong luật đều phải được xét xử theo đúng luật và công minh. Như thế kỉ cương phép nước mới được giữ vững, luật mới xứng đáng với vai trò là công cụ của nhà nước trong việc bảo vệ sự bình yên cho nhân dân.
Để chứng minh cho vai trò có tính quan trọng tuyệt đối của luật, tác giả dẫn lại trong các giai đoạn lịch sử đã qua, theo đó ta hiểu được rằng nếu không có luật thì đồng nghĩa với không có một xã hội bình yên.
Nói về ý nghĩa của luật, tác giả đã nêu lên những khía cạnh có tính chất như để so sánh với đạo làm người. Và từ đó ông dẫn lại trong lịch sử rằng: "Từ xưa đến nay các vua chúa nắm quyền thống trị đất nước giúp đời đều nhờ hiểu luật, còn các sách vở khác cũng chỉ là phụ thuộc. Nếu trong nước không có luật thì dù vạn quyển sách cũng không thể trị dân”. Với lập luận một cách khoa học và chính xác đó cho thấy rằng nếu chỉ dựa vào những điều trong sách vở mà không hiểu luật thì đó chỉ là cách nói suông và không bao giờ trở thành một công cụ để đem lại an bình cho đất nước. Ngay ở những quyển sách nói về luật cũng vậy, nếu sách đó không thể hiện tính thời đại của luật thì nó cũng trở nên vô tác dụng. Do đó phải có sự điều chỉnh và hợp nhất thành một hệ thống chặt chẽ về điều khoản và nội dung của luật thì mới phát huy tác dụng.
Lại nói về vai trò và ý nghĩa của luật, tác giả Nguyễn Trường Tộ đã phân tích:
Qua cách lập luận trên ta thấy rõ luật phải vừa đảm bảo tính nghiêm minh của nó nhưng lại vừa có tính nhân đạo hoặc nói cách khác luật phải chứa đựng trong đó bản chất của đạo đức con người. Nếu luật chỉ đơn thuần là công cụ trấn áp và giải quyết các mâu thuẫn của xã hội thì vô tình đã đem cái đạo của con người ra ngoài lề của công lí, pháp luật. Như vậy luật cũng là một hình thức thể hiện đạo đức con người. Bởi thế trong luật bao giờ cũng ẩn chứa tinh thần nhân đạo lớn lao nhằm bảo vệ lẽ phải và sự công bằng tuyệt đối. Vì thế khi áp dụng luật vào đời sống xã hội phải thật tinh vi và nhạy bén tránh làm tổn hại đến phạm trù đạo đức và lối sống của con người. Vậy nên tác giả mới nói: "Nếu tận dụng cái lẽ công bằng ở trong luật mà xử sự thì mọi quyền pháp đều là đạo đức". Nghĩa là giữa luật và đạo đức phải cùng song hành và bổ trợ cho nhau tạo ra một thiết chế đủ để đem lại sự bình an và, thịnh đạt cho xã hội.
Trong những luật đã từng tồn tại trong lịch sử tất cả đều mang hai yếu tố cần thiết nói trên nhưng chung quy lại là để giữ vững và bảo vệ công bằng và chính nghĩa cho con người. Chưa có một xã hội nào dưới sự bảo trợ của luật mà không có yêu tố đạo đức và pháp quyền để trị những hành vi phạm luật. Nói như vậy có nghĩa là không bao giờ đạo đức con người lại được tách ra ngoài hệ thống của luật mà ngược lại đạo đức đó lại được tác hợp với luật nhằm ứng xử những tình huống mang tính chất nhạy cảm trong xã hội. Nói về tính chất và đặc trưng của đạo đức đó là sự tổng hòa cua những tố chất tốt đẹp nhằm tạo nên đức tính và phẩm chất cao quý của con người. Để đối chiếu trong phạm vi của luật tác giả khẳng định:
"Có cái đức nào lớn hơn đức chí công vô tư? Chí công vô tư là đức trời. Trong luật cái gì cũng công bằng, hợp với đức trời".
Như vậy, theo tác giả, giữa đạo đức và "chí công, vô tư" là một, xếp ngang hàng với luật. Tóm lại đạo đức và luật luôn phải là công cụ sắc bén hỗ trợ nhau nhằm đảm bảo sự công bằng cho xã hội. Nếu hai yếu tố tách rời nhau thi sự nghiêm minh của phép nước sẽ không được vững chắc. Đó là lí do trong luật cần có đạo đức và đạo đức chính là "chí công, vô tư”.
Qua sự phân tích trên ta thấy, luật đóng một vai trò không thể thiếu trong đời sống xã hội. Chỉ có luật mói đem lại sự công bằng cho xã hội mà không một thiết chế nào có thể thay thế được. Sự ổn định đất nước dù ở thời đại nào cũng cần phải có luật. Luật sẽ quy định những yêu cầu của cuộc sống nhằm đem lại sự bình yên và thịnh vượng cho mọi người trong xã hội. Tính quan trọng của luật thể hiện rõ ở chỗ luật bảo đảm kỉ cương phép nước, giữ vững kỉ cương đó và không để bất kì một ai vi phạm luật hoặc nếu làm trái luật thì tất yếu phải được trị theo đúng luật. Vì những điều quan trọng đó nên trong bất kì một xã hội nào cũng đều cần phải có luật. Chỉ có luật xã hội mới bình yên, đất nước mới thịnh vượng được.
Tóm lại, có thể nói rằng mỗi chế độ xã hội đều phải tuân theo sự quy định nghiêm minh của luật. Nếu xã hội đó tách khỏi luật thì sẽ dẫn đến những hậu quả khôn lường. Tác giả Nguyễn Trường Tộ đã sớm nhận ra tính chất quan trọng của luật và mong muốn canh tân đất nước bằng luật. Có thể nói ông có một tầm nhìn rộng lớn và một tư tưởng tân tiến trong thời đại bấy giờ, vì bản thân ông thấy được vai trò quan trọng của luật trong đời sống xã hội.
Ngày nay, khi toàn thể xã hội đang phát triển mạnh mẽ, luật lại càng chứng tỏ tầm quan trọng của nó trong đời sống dân sinh. Vì tính chất quan trọng đó cho nên luật luôn được điều chỉnh cho phủ hợp với hoàn cảnh lịch sử đất nước trong thời kì mới. Vì vậy, chúng ta luôn được chứng kiến sự công bằng của xã hội nhờ tính nghiêm minh của luật trong đời sống chính trị nước nhà. Do đó, trong mỗi chủng ta phải tôn trọng, giữ gìn và bảo vệ luật để xã hội ngày một công bằng hơn, đất nước ngày càng phát triển hơn, văn minh hơn theo nhịp tiến cùng thời đại.