04/06/2017, 00:30
Ấn tượng của anh (chị) về bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử.
Trên bầu trời rực rỡ của phong trào Thơ mới, Hàn Mặc Tử tựa hồ như một ngôi sao chói lọi. Thơ ông vừa thể hiện tình yêu thiết tha đối với cuộc sống trần tục, vừa hướng lên Chúa Trời, tới những miền thanh khí thần tiên. Con người đầy tài hoa và nhiệt huyết này, năm 25 tuổi (1937), bị mắc bệnh ...
Trên bầu trời rực rỡ của phong trào Thơ mới, Hàn Mặc Tử tựa hồ như một ngôi sao chói lọi. Thơ ông vừa thể hiện tình yêu thiết tha đối với cuộc sống trần tục, vừa hướng lên Chúa Trời, tới những miền thanh khí thần tiên.
Con người đầy tài hoa và nhiệt huyết này, năm 25 tuổi (1937), bị mắc bệnh phong. Căn bệnh kinh khủng này đã đầy đoạ ông cả về thể xác, lẫn tinh thần suốt trong ba năm trước khi ông nhắm mắt. Chỉ vẻn vẹn hơn 10 năm sáng tác, thi sĩ đã để lại cho đời nhiều thi phẩm có giá trị, trong đó, Đây thôn Vĩ Dạ được xem là một kiệt tác. Đây thôn Vĩ Dạ được in trong tập Thơ điên, xuât bản sau khi tác giả qua đời.
Đã có không ít sự giải thích về xuất xứ và cách hiểu bài Đây thôn Vĩ Dạ. Song, nếu lấy văn bản làm căn cứ chính, thì phải thừa nhận bài thơ tuy có chứa đựng một thông điệp tình yêu- một tình yêu trong trắng, thơ mộng, nhưng đơn phương và vô vọng, đồng thời, nhờ có tình yêu đó, nhà thơ đã để lại cho đời một bức tranh xứ Huế thật là mộng mơ, huyền ảo, tuy có đượm buồn....
Đây thôn Vĩ Dạ chỉ vẻn vẹn có 3 khổ, tổng cộng 12 câu thất ngôn. Mở đầu bài thơ có lẽ là lời trách thầm, và cũng là lới nhắn nhủ nhẹ nhàng người yêu của nhân vật trữ tình, trong một tâm trạng vời vợi nhớ mong:
Sao anh không về chơi thôn Vĩ?
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên,
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc,
Lá trúc che ngang mặt chữ điền.
Nếu như mỗi mối tình đều gắn với một không gian và thời gian cụ thể, thì mối tình của nhân vật trữ tình trong bài thơ này gắn với vườn tược và con người Vĩ Dạ, với những kỉ niệm thật khó quên. Có dịp, xin mời bạn hãy về thăm thôn Vĩ vào một buổi sớm mai. Vĩ Dạ nằm ngay bên bờ sông Hương êm đềm thơ mộng, chỉ cách trung tâm cố đô Huế không đầy một giờ tản bộ. Từ xưa, thôn Vĩ đã nổi tiếng bởi cây cối tươi xanh, và những biệt thự nhỏ nhắn duyên dáng, thấp thoáng dưới màu xanh của cây lá. Vĩ Dạ vừa có cái nét chung của mọi làng quê Việt Nam, vừa có những nét riêng biệt của xứ Huế mộng và thơ. Thôn Vĩ Dạ cũng nổi tiếng như sông Hương, núi Ngự, chùa Thiên Mụ... của xứ này. Bởi vậy, ta không lấy làm ngạc nhiên khi thấy nhiều nghệ sĩ tên tuổi như Nguyễn Bính, Bích Khê, Nguyễn Tuân... đều có những sáng tác, mà cảm hứng được nảy sinh từ thôn Vĩ Dạ.
Sớm mai, nắng mới long lanh trên những tàu cau còn ướt sương đêm. Khách từ xa tới sẽ thấy hàng cau trước nhất, vì nó thường cao hơn hẳn những cây cối xum xuê ở dưới. Đất đai Vĩ Dạ phì nhiêu, được con người cần cù chăm bón; quả thật, cây cối ở đây xanh tốt mơn mởn và sạch sẽ như được lau chùi, mài dũa thành như những cành vàng lá ngọc .... Câu thơ:
Lá trúc che ngang mặt chữ điền
Thật sự là một sáng tạo độc đáo. "Mặt chữ điền "gợi cho người đọc hình dung một gương mặt vuông vắn phúc hậu. Nhưng, đặt hình tượng trong văn cảnh của nó: "Lá trúc che ngang mặt chữ điền"thì ấn tượng nổi bật lại là sự hài hoà, gắn bó mật thiết giữa con người với vườn tược quê hương. Không nên hiểu câu thơ theo bút pháp tả thực. Đây là một hình ảnh cách điệu hoá đầy tài hoa của Hàn Mặc Tử.
Tình cảm thiết tha, trân trọng của thi sĩ thể hiện ngay trong chính cái nhìn cảnh vật. Nó làm ta nhớ đến câu thơ của Bích Khê, bạn thân thiết của tác giả:
Vĩ Dạ thôn, Vĩ Dạ thôn,
Biếc che cần trúc không buồn mà say
(Huế đa tình)
Tiếp nối mạch cảm xúc ở khổ đầu, dường như khổ thứ hai nhà thơ dành để đặc tả cảnh sông nước mây trời xứ Huế và cũng bộc lộ một niềm hoài vọng bâng khuâng:
Gió theo lối gió mây đường mây,
Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay;
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?
Nhịp sông dịu dàng, khoan thai của xứ Huế được diễn tả rất đạt: gió và mây nhè nhẹ trôi đi; sông Hương nước chảy lặng lờ. Hoa ngô (hoa bắp) chỉ khẽ khàng đung đưa theo chiều gió. Khác với khổ một, đến khổ thứ hai này, không gian được miêu tả có phần như trong mộng ảo, tràn ngập ánh trăng. Nhà thơ không những chỉ tả, không những chỉ nhìn bằng mắt, và điều quan trọng hơn là còn "nhìn "bằng thế giới tâm linh của mình; do đó, không có biên giới giữa thực và mộng. Và dường như, càng về cuối, thế giới tâm linh, thế giới mộng ảo càng lấn át thế giới hiện thực. Vì là mộng ảo, nên có nỗi băn khoăn rất mộng mơ: "Thuyền ai đậu bến sông trăng đó - Có chở trăng về kịp tối nay?"• Thuyền chở trăng, đã có nhiều thi nhân nhắc đến, nhưng "sông trăng" thì có lẽ Hàn Mặc Tử là người sáng tạo đầu tiên. Dường như, trong những câu thơ trên, có sự mong chờ, có niềm hi vọng lẫn nỗi buồn man mác của nhà thơ. Ở đây, rõ ràng không chỉ có sự đặc sắc của một bút pháp phác hoạ đúng cái hồn của một xứ Huế mà điều quan trọng nữa là, từ những nét phác, nó gợi lên ở người đọc một tình yêu thật dịu dàng, kín đáo, mà sâu xa rộng mờ đến không cùng.
Ấn tượng của người đọc về những điều nói ở trên sẽ được nhà thơ tô đậm thêm qua đoạn kết:
Mơ khách đường xa khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?
Đúng là xứ Huế vốn mưa nhiều, lắm sương khói (Có lần, Nguyễn Bính đã phải thốt lên: "Giời mưa ở Huế sao buồn thế? - Cứ kéo dài ra đến mấy ngày). Do đó, phải chăng, khổ thơ trên có nét tả thực, cũng giống như "hàng cau", "lá trúc", "hoa bắp"... ơ những khổ trước? Sương khói trắng, và áo em cũng trắng; bởi vậy, nếu nhà thơ chỉ nhìn thấy cái bóng mờ ảo của con người thôi (mờ nhân ảnh), thì cũng là điều dễ hiểu. Tuy vậy, như đã nêu, Hàn Mặc Tử vốn là nhà thơ lãng mạn đích thực, cái chính là thi sĩ đã nói bằng tâm tưởng, gieo vào lòng người đọc một thoáng bâng khuâng: những thiếu nữ Huế tươi đẹp quá, kín đáo và huyền ảo quá! Nào ai có biết tình yêu của họ bền chặt, hay cũng chỉ mờ ảo như khói sương xứ Huế? Câu hỏi của nhà thơ đối với cô gái Huế hay của mọi người, mọi thời đã từng gắn bó với Huế? ở Huế đây, dường như tác giả cảm thấy mình chơi vơi, hụt hẫng, trước một mối tình đơn phương lung linh, huyền ảo. Nếu ta biêt rằng, Hàn Mặc Tử tuy khao khát yêu đương, nhưng căn bệnh hiểm nghèo đã làm cho ông không có được một tình yêu trọn vẹn, nhà thơ từng phải sống cô độc, lúc thì trong một con thuyền nho lênh đênh chẳng có bến bờ, lúc thi khắc khoải bên dãy núi ven thành phố và cuối vùng phải nằm vô vọng ở nhà thương Tuy Hoà chờ cái chết..., thì ta càng thông cảm cho một thoáng hờn dỗi, trách móc tưởng như vô cớ của cây bút đa tài, mà bất hạnh này.
Cùng vói Đây mùa thu tới của Xuân Diệu, Tràng giang của Huy Cận..., Đây thôn Vĩ Dạ xứng đáng là một kiệt tác. Trước một kiệt tác, thường có nhiều cách cảm thụ khác nhau. Nhưng, hiểu theo cách nào thì cũng không thể không thấy bên cạnh mối tình vô vọng, nhà thơ đã để lại một bức tranh rất có hồn về sông nước Huế đẹp và thơ.
Đã có không ít sự giải thích về xuất xứ và cách hiểu bài Đây thôn Vĩ Dạ. Song, nếu lấy văn bản làm căn cứ chính, thì phải thừa nhận bài thơ tuy có chứa đựng một thông điệp tình yêu- một tình yêu trong trắng, thơ mộng, nhưng đơn phương và vô vọng, đồng thời, nhờ có tình yêu đó, nhà thơ đã để lại cho đời một bức tranh xứ Huế thật là mộng mơ, huyền ảo, tuy có đượm buồn....
Đây thôn Vĩ Dạ chỉ vẻn vẹn có 3 khổ, tổng cộng 12 câu thất ngôn. Mở đầu bài thơ có lẽ là lời trách thầm, và cũng là lới nhắn nhủ nhẹ nhàng người yêu của nhân vật trữ tình, trong một tâm trạng vời vợi nhớ mong:
Sao anh không về chơi thôn Vĩ?
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên,
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc,
Lá trúc che ngang mặt chữ điền.
Nếu như mỗi mối tình đều gắn với một không gian và thời gian cụ thể, thì mối tình của nhân vật trữ tình trong bài thơ này gắn với vườn tược và con người Vĩ Dạ, với những kỉ niệm thật khó quên. Có dịp, xin mời bạn hãy về thăm thôn Vĩ vào một buổi sớm mai. Vĩ Dạ nằm ngay bên bờ sông Hương êm đềm thơ mộng, chỉ cách trung tâm cố đô Huế không đầy một giờ tản bộ. Từ xưa, thôn Vĩ đã nổi tiếng bởi cây cối tươi xanh, và những biệt thự nhỏ nhắn duyên dáng, thấp thoáng dưới màu xanh của cây lá. Vĩ Dạ vừa có cái nét chung của mọi làng quê Việt Nam, vừa có những nét riêng biệt của xứ Huế mộng và thơ. Thôn Vĩ Dạ cũng nổi tiếng như sông Hương, núi Ngự, chùa Thiên Mụ... của xứ này. Bởi vậy, ta không lấy làm ngạc nhiên khi thấy nhiều nghệ sĩ tên tuổi như Nguyễn Bính, Bích Khê, Nguyễn Tuân... đều có những sáng tác, mà cảm hứng được nảy sinh từ thôn Vĩ Dạ.
Sớm mai, nắng mới long lanh trên những tàu cau còn ướt sương đêm. Khách từ xa tới sẽ thấy hàng cau trước nhất, vì nó thường cao hơn hẳn những cây cối xum xuê ở dưới. Đất đai Vĩ Dạ phì nhiêu, được con người cần cù chăm bón; quả thật, cây cối ở đây xanh tốt mơn mởn và sạch sẽ như được lau chùi, mài dũa thành như những cành vàng lá ngọc .... Câu thơ:
Lá trúc che ngang mặt chữ điền
Thật sự là một sáng tạo độc đáo. "Mặt chữ điền "gợi cho người đọc hình dung một gương mặt vuông vắn phúc hậu. Nhưng, đặt hình tượng trong văn cảnh của nó: "Lá trúc che ngang mặt chữ điền"thì ấn tượng nổi bật lại là sự hài hoà, gắn bó mật thiết giữa con người với vườn tược quê hương. Không nên hiểu câu thơ theo bút pháp tả thực. Đây là một hình ảnh cách điệu hoá đầy tài hoa của Hàn Mặc Tử.
Tình cảm thiết tha, trân trọng của thi sĩ thể hiện ngay trong chính cái nhìn cảnh vật. Nó làm ta nhớ đến câu thơ của Bích Khê, bạn thân thiết của tác giả:
Biếc che cần trúc không buồn mà say
(Huế đa tình)
Tiếp nối mạch cảm xúc ở khổ đầu, dường như khổ thứ hai nhà thơ dành để đặc tả cảnh sông nước mây trời xứ Huế và cũng bộc lộ một niềm hoài vọng bâng khuâng:
Gió theo lối gió mây đường mây,
Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay;
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?
Nhịp sông dịu dàng, khoan thai của xứ Huế được diễn tả rất đạt: gió và mây nhè nhẹ trôi đi; sông Hương nước chảy lặng lờ. Hoa ngô (hoa bắp) chỉ khẽ khàng đung đưa theo chiều gió. Khác với khổ một, đến khổ thứ hai này, không gian được miêu tả có phần như trong mộng ảo, tràn ngập ánh trăng. Nhà thơ không những chỉ tả, không những chỉ nhìn bằng mắt, và điều quan trọng hơn là còn "nhìn "bằng thế giới tâm linh của mình; do đó, không có biên giới giữa thực và mộng. Và dường như, càng về cuối, thế giới tâm linh, thế giới mộng ảo càng lấn át thế giới hiện thực. Vì là mộng ảo, nên có nỗi băn khoăn rất mộng mơ: "Thuyền ai đậu bến sông trăng đó - Có chở trăng về kịp tối nay?"• Thuyền chở trăng, đã có nhiều thi nhân nhắc đến, nhưng "sông trăng" thì có lẽ Hàn Mặc Tử là người sáng tạo đầu tiên. Dường như, trong những câu thơ trên, có sự mong chờ, có niềm hi vọng lẫn nỗi buồn man mác của nhà thơ. Ở đây, rõ ràng không chỉ có sự đặc sắc của một bút pháp phác hoạ đúng cái hồn của một xứ Huế mà điều quan trọng nữa là, từ những nét phác, nó gợi lên ở người đọc một tình yêu thật dịu dàng, kín đáo, mà sâu xa rộng mờ đến không cùng.
Ấn tượng của người đọc về những điều nói ở trên sẽ được nhà thơ tô đậm thêm qua đoạn kết:
Mơ khách đường xa khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?
Đúng là xứ Huế vốn mưa nhiều, lắm sương khói (Có lần, Nguyễn Bính đã phải thốt lên: "Giời mưa ở Huế sao buồn thế? - Cứ kéo dài ra đến mấy ngày). Do đó, phải chăng, khổ thơ trên có nét tả thực, cũng giống như "hàng cau", "lá trúc", "hoa bắp"... ơ những khổ trước? Sương khói trắng, và áo em cũng trắng; bởi vậy, nếu nhà thơ chỉ nhìn thấy cái bóng mờ ảo của con người thôi (mờ nhân ảnh), thì cũng là điều dễ hiểu. Tuy vậy, như đã nêu, Hàn Mặc Tử vốn là nhà thơ lãng mạn đích thực, cái chính là thi sĩ đã nói bằng tâm tưởng, gieo vào lòng người đọc một thoáng bâng khuâng: những thiếu nữ Huế tươi đẹp quá, kín đáo và huyền ảo quá! Nào ai có biết tình yêu của họ bền chặt, hay cũng chỉ mờ ảo như khói sương xứ Huế? Câu hỏi của nhà thơ đối với cô gái Huế hay của mọi người, mọi thời đã từng gắn bó với Huế? ở Huế đây, dường như tác giả cảm thấy mình chơi vơi, hụt hẫng, trước một mối tình đơn phương lung linh, huyền ảo. Nếu ta biêt rằng, Hàn Mặc Tử tuy khao khát yêu đương, nhưng căn bệnh hiểm nghèo đã làm cho ông không có được một tình yêu trọn vẹn, nhà thơ từng phải sống cô độc, lúc thì trong một con thuyền nho lênh đênh chẳng có bến bờ, lúc thi khắc khoải bên dãy núi ven thành phố và cuối vùng phải nằm vô vọng ở nhà thương Tuy Hoà chờ cái chết..., thì ta càng thông cảm cho một thoáng hờn dỗi, trách móc tưởng như vô cớ của cây bút đa tài, mà bất hạnh này.
Cùng vói Đây mùa thu tới của Xuân Diệu, Tràng giang của Huy Cận..., Đây thôn Vĩ Dạ xứng đáng là một kiệt tác. Trước một kiệt tác, thường có nhiều cách cảm thụ khác nhau. Nhưng, hiểu theo cách nào thì cũng không thể không thấy bên cạnh mối tình vô vọng, nhà thơ đã để lại một bức tranh rất có hồn về sông nước Huế đẹp và thơ.