25/05/2018, 14:29

Phong trào Hát cho đồng bào tôi nghe

Hát cho đồng bào tôi nghe hay Hát cho đồng bào tôi nghe và nghe đồng bào tôi cùng hát là một phong trào đấu tranh chống Mỹ trong Chiến tranh Việt Nam dưới hình thức văn nghệ, âm nhạc, thơ ca, nằm trong phong trào đấu tranh đô thị (đặc biệt ở ...

Hát cho đồng bào tôi nghe hay Hát cho đồng bào tôi nghe và nghe đồng bào tôi cùng hát là một phong trào đấu tranh chống Mỹ trong Chiến tranh Việt Nam dưới hình thức văn nghệ, âm nhạc, thơ ca, nằm trong phong trào đấu tranh đô thị (đặc biệt ở Sài Gòn) trên trận tuyến văn hóa, tư tưởng của Việt Cộng trong các vùng do Mỹ và Việt Nam Cộng hòa kiểm soát. Về chính trị, phong trào này vận động người dân đấu tranh đòi chấm dứt chiến tranh, phản đối Mỹ leo thang chiến tranh, đòi lật đổ chính quyền Nguyễn Văn Thiệu, đòi Hoa Kỳ phải rút hết quân đội ra khỏi miền Nam Việt Nam. Về văn hóa, phong trào này cổ vũ tinh thần yêu nước, chống văn hóa đồi trụy, lai căng, và các khuynh hướng văn nghệ phi dân tộc.

Hát cho đồng bào tôi nghe ban đầu là một phong trào tự phát, rồi sau có tổ chức dưới sự lãnh đạo của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam, với mục đích chính là góp phần tranh đấu vì hòa bình và thống nhất Việt Nam. Đầu tiên, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam thành lập Hội Văn nghệ giải phóng miền Nam vào năm 1961 do nghệ sĩ Trần Hữu Trang làm chủ tịch. Sau đó lần lượt Đoàn văn công Giải phóng, Đoàn văn công Tây Nguyên được thành lập nhưng chủ yếu hoạt động trong những vùng do Mặt Trận kiểm soát. Trong thời gian đó, phong trào đấu tranh bằng văn nghệ trong vùng do Mỹ và Việt Nam Cộng hòa kiểm soát còn hạn chế, mang tính chất tự phát, riêng lẻ. Hai tập thơ "Tiếng hát những người đi tới" tập 1 xuất bản ngày 17/6/1967 và tập 2 là kịch thơ lịch sử "Tiếng gọi Lam Sơn" của Trần Quang Long, xuất bản ngày 15/10/1967 là những tác phẩm đầu tay, mang hơi thở tới cho phong trào, thể hiện rõ nét nội dung đấu tranh, yêu nước, đòi hòa bình, chống Mỹ và hoạt động cách mạng. Trong mấy năm đầu, nòng cốt của phong trào là Đoàn văn nghệ Sinh viên - Học sinh Sài Gòn, thuộc Tổng Hội sinh viên Sài Gòn.

Năm 1966, Đoàn Văn nghệ sinh viên - học sinh thuộc Tổng hội Sinh viên Sài Gòn đã được thành lập do sinh viên y khoa Trương Thìn làm trưởng đoàn và đã phổ biến những tập ca khúc phản chiến như Hát từ đồng hoang của nhạc sĩ Miên Đức Thắng.

Năm 1968, với cương vị Trưởng đoàn văn nghệ sinh viên học sinh Sài Gòn, chủ tịch Hội Sinh viên sáng tác - Tổng hội Sinh viên Sài Gòn, nhạc sĩ Tôn Thất Lập đã cùng với các nhạc sĩ sinh viên Trương Quốc Khánh, Trần Long Ẩn, Nguyễn Văn Sanh, La Hữu Vang, Nguyễn Xuân Tân, Nguyễn Tuấn Kiệt, Nguyễn Nam, Nguyễn Phú Yên,... thực hiện phong trào Hát cho đồng bào tôi nghe thông qua các hoạt động tiêu biểu là văn nghệ trong "Hội Tết Quang Trung Sài Gòn" năm 1967, "Đêm nhạc Tôn Thất Lập" ở Đại học Dược khoa Sài Gòn (1967) do tạp chí Đất Mới của sinh viên Luật khoa Sài Gòn tổ chức và tại Đại học Khoa học Huế, "Đêm thơ nhạc" ở Đại học Sư phạm Huế vào tháng 12 năm 1967. Góp phần đấu tranh chống lại các khuynh hướng văn nghệ phi dân tộc lúc bấy giờ; góp phần hiệp đồng với mặt trận đấu tranh đô thị, hội thảo, xuống đường, các chiến dịch đốt xe tăng Mỹ.

Trong "đêm văn nghệ vì hoà bình" tổ chức tại Trường đại học Nông Lâm Súc Sài Gòn tối 27.12.1969 đã chính thức ra mắt tên gọi phong trào Hát cho đồng bào tôi nghe.

đã phát triển và lan rộng ra các đô thị khác như Huế, Đà Nẵng, Cần Thơ, An Giang, Quy Nhơn, Đà Lạt,... Thập niên 1970, tiếng hát tranh đấu tiếp tục vang lên tại giảng đường đại học Sư phạm, đại học Khoa học Huế, Hội quán Thanh Niên Phan Thiết (1972) và còn vượt ra ngoài phạm vi Việt Nam, khơi dậy lòng yêu nước của những Việt kiều và lôi cuốn những thanh niên trí thức ở các nước như Pháp, Tây Đức, Canada, Nhật, Bỉ, Úc, và ngay cả nước Mỹ.

Phong trào này thường phối hợp hành động với các cuộc hội thảo, xuống đường, biểu tình, tuyệt thực, tự thiêu, những "đêm không ngủ", các chiến dịch đốt xe Mỹ. Liên tục tấn công vào Mỹ và Việt Nam Cộng hòa, trở thành ngòi pháo của các giới đồng bào và tuổi trẻ Việt Nam, góp phần làm nên chiến thắng năm 1975 .

Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng hòa dùng súng, lựu đạn cay đàn áp phong trào rất quyết liệt. Những cán bộ, đảng viên, lãnh đạo ưu tú của phong trào thường đối mặt với tù tội, tra tấn, các cực hình, và nguy cơ bị thủ tiêu, ám hại, tử hình.

"Đêm Giáng sinh 1969" cũng là đêm diễn lịch sử của phong trào "Hát cho đồng bào tôi nghe" được tổ chức tại giảng đường trung tâm quốc gia nông nghiệp. Cảnh sát Việt Nam Cộng hòa phong tỏa chặt các ngả đường, nhưng có hơn 1.000 sinh viên và đồng bào vào được nơi trình diễn. Sau đêm hát, toàn ban chấp hành Tổng Hội sinh viên đều bị bắt. Nhưng rồi hàng loạt cuộc biểu tình bạo lực nổ ra quy mô lớn khiến chính quyền Việt Nam Cộng hòa phải thả họ ra .

Trong các cuộc xuống đường, sinh viên đã hát vang các bài: "Chúng ta đã đứng dậy", "Dậy mà đi (phổ thơ Tố Hữu)", "Tổ quốc ơi ta đã nghe", "Hát trong làn khói đạn",... các nhạc sĩ sinh viên như Nguyễn Văn Sanh, Tôn Thất Lập cũng xuống đường nhưng được bố trí đi giữa hoặc cuối đoàn biểu tình vì lý do an toàn.

Ngày 13/4/1970, Đại hội sinh viên liên viện: Huế, Đà Lạt, Sài Gòn, Cần Thơ, Vạn Hạnh do Hội đồng liên khoa Vạn Hạnh tổ chức đã họp tại Sài Gòn và Tổng hội sinh viên Sài Gòn đã xuất bản tập nhạc "Hát cho đồng bào tôi nghe" (tức Chúng ta đã đứng dậy - tập 1) với lời tựa của ông Huỳnh Tấn Mẫm, gồm 32 bài hát của các nhạc sĩ sinh viên như: Tôn Thất Lập, Nguyễn Văn Sanh, Nguyễn Tuấn Kiệt, Trương Quốc Khánh. Chỉ trong vòng năm ngày, 2.000 tập bài hát đã bán hết ở hải ngoại như: Pháp, Tây Đức, tập nhạc được sinh viên in lại và phổ biến.

Phần nhạc viết về phong trào Hát cho đồng bào tôi nghe ra mắt từ cuối năm 1969 tại Sài Gòn, sau đó lan rộng ra Huế, Đà Nẵng, Cần Thơ, An Giang, Quy Nhơn, Đà Lạt, Phan Thiết..., với một số tác giả như: Tôn Thất Lập, Nguyễn Văn Sanh, Trương Quốc Khánh, Nguyễn Phú Yên, La Hữu Vang, Nguyễn Tuấn Kiệt, Nguyễn Nam, Miên Đức Thắng, Vũ Đức Sao Biển, Nguyễn Xuân Tân, Xuân An, Hải Hà và các tác giả khác.

Những bài hát cách mạng sáng tác cho phong trào này trong vùng kiểm soát của Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng hòa không bộc lộ quá lộ liễu quan điểm chính trị, không dùng ca từ quá mạnh như nhạc cách mạng ở miền Bắc Việt Nam và các vùng do Việt Cộng kiểm soát ở miền Nam Việt Nam, chỉ mang nội dung phản chiến và ám chỉ xa gần, chung chung, để hạn chế bị đàn áp, bắt giữ. Phong trào đã làm nên một dòng nhạc đặc biệt trong tân nhạc Việt Nam với hàng trăm ca khúc. Đó là một tài sản âm nhạc quý giá cả về tư tưởng lẫn chuyên môn nghệ thuật. Có những ca khúc đã đạt đến mẫu mực về hành khúc, với ba đoạn rõ ràng. Có những ca khúc giai điệu vô cùng đẹp, có thể hát đơn ca, song ca, hợp xướng đều được.

Nhạc sĩ

Tôn Thất Lập

Trần Long Ẩn

La Hữu Vang

Nguyễn Phú Yên

Trương Quốc Khánh

Nguyễn Xuân Tân

Nguyễn Nam

Nguyễn Văn Sanh

Trần Xuân Tiến

Miên Đức Thắng

Tôn Thất Lập và Trần Long Ẩn là hai nhạc sĩ của phong trào này được Nhà nước Việt Nam trao tặng Huân chương Lao động hạng hai.

Nhà thơ

Lê Văn Ngăn

Lê Gành

Trần Vàng Sao

Trần Phá Nhạc

Đông Trình

Đoàn Khắc Xuyên

Hoàng Nghĩa

Hát cho dân tôi nghe (Tôn Thất Lập)

Người mẹ Bàn Cờ (Nhạc: Trần Long Ẩn, thơ: Nguyễn Kim Ngân)

Tự nguyện (Trương Quốc Khánh)

Trên dòng sông lịch sử (Nguyễn Nam)

Dậy mà đi (Nhạc: Nguyễn Xuân Tân, thơ: Tố Hữu)

Thuyền em đi trong đêm (Nguyễn Phú Yên)

Không ai ngăn nổi lời ca (La Hữu Vang)

Tổ quốc ơi đã ta nghe (La Hữu Vang)

Chim hòa bình

Tin tưởng ca

Quê hương ta ngày chiến thắng

Khi đất nước thanh bình

Ta đã thấy trong đêm nay

Hát trong tù

Những ngày hội đấu tranh

Từ sông Hương nhớ tới sông Hồng

Sức mạnh nhân dân

Lời ca cho người đi giữ quê hương

Hát trên đường tranh đấu

Tình nghĩa Bắc Nam

Có lẽ trong lịch sử đấu tranh giải phóng dân tộc, chưa có cuộc "ra quân" nào của giới trí thức rầm rộ và có ảnh hưởng trực tiếp, sâu rộng như phong trào Hát cho đồng bào tôi nghe. Phong trào này đã góp phần không nhỏ trong việc tập hợp thanh niên, học sinh, sinh viên tham gia phong trào đấu tranh tại các đô thị miền Nam Việt Nam trong những năm chiến tranh.

đã làm nên một dòng nhạc đặc biệt trong âm nhạc nước nhà với hàng trăm ca khúc. Nếu tách hẳn chúng khỏi bối cảnh xã hội thời bấy giờ, tách hẳn những tác động của nó trong khí thế đấu tranh, bây giờ cần đánh giá lại để thấy rằng, đó là một tài sản âm nhạc vô cùng quý giá cả về tư tưởng lẫn chuyên môn nghệ thuật. Mặc dù ra đời từ nhu cầu thúc ép của đời sống tức thì khi đó, nhưng trải qua thời gian, những ca khúc này vẫn có chỗ đứng riêng của nó trong đời sống âm nhạc.

từ nghiệp dư đến chuyên nghiệp đã để lại một di sản ca khúc mà cho đến ngày hôm nay vẫn còn nguyên giá trị.

0