24/05/2018, 18:49

Phong trào chống đối Hitler

gồm những hoạt động của một số người chống đối Adolf Hitler với mục đích chính ban đầu là lật đổ Hitler và đưa ông ra tòa để ngăn ông gây chiến tranh mà họ nghĩ sẽ đem đến chiến bại cho nước Đức. Kế tiếp, khi Thế chiến II đã bùng phát, những người chống ...

gồm những hoạt động của một số người chống đối Adolf Hitler với mục đích chính ban đầu là lật đổ Hitler và đưa ông ra tòa để ngăn ông gây chiến tranh mà họ nghĩ sẽ đem đến chiến bại cho nước Đức. Kế tiếp, khi Thế chiến II đã bùng phát, những người chống đối muốn ngăn chặn việc Đức bị thất trận nhục nhã, cần vớt vát ít nhiều bằng cách ám sát Hitler và đàm phán với Đồng Minh.

Giữa năm 1938, sau 5 năm rưỡi dưới chế độ Quốc xã, số ít người chống lại Adolf Hitler thấy rõ rằng chỉ Quân đội mới có đủ sức mạnh vật chất để lật đổ ông. Công nhân và các giai cấp trung lưu và thượng lưu đều không có phương tiện trong tay. Họ không có tổ chức bên ngoài các nhóm của đảng Quốc xã, và dĩ nhiên không được vũ trang. Dù rằng về sau người ta viết nhiều về phong trào “kháng chiến” Đức, từ đầu đến cuối đấy chỉ là một nhóm yếu ớt của một dúm người can đảm và tề chỉnh, chỉ có tướng mà không có quân.

Lúc đầu, sự chống đối là từ dân thường. Các tướng lĩnh đã quá hài lòng với việc xóa bỏ những hạn chế của Hòa ước Versailles và với việc nhận nhiệm vụ tái vũ trang. Điều mỉa mai là những dân thường cầm đầu chống lại Hitler chính là những người đã từng phục vụ ông trong chức vụ quan trọng. Phần lớn số này đã từng hăng say với chủ nghĩa Quốc xã, và chỉ từ năm 1937 mới bắt đầu nhận ra rằng Hitler đang đẩy Đức vào cuộc chiến mà hầu như chắc chắn Đức sẽ thua.

Một trong những người đầu tiên được sáng mắt là Carl Goerdeler, cựu thị trưởng Leipzig và Kế toán trưởng Vật giá. Có năng lực, nhiệt huyết và thông minh, nhưng hay hớ hênh. Tuy kiên trì, ông từ chức cả hai nơi vào năm 1936, rồi hành động chống đối Hitler với cả con tim và linh hồn.

Hai người sáng mắt kế tiếp là Johannes Popitz, cựu Bộ trưởng Tài chính của Bang Phổ và TS. Hjalmar Schacht, cựu Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Đức. Cả hai đã được thưởng huân chương cao quý nhất của Quốc xã vì công lao đóng góp vào nền kinh tế cho mục đích chiến tranh. Có lẽ vì quá khứ và tư cách của họ mà hai người không được thành phần cốt lõi của nhóm chống đối tin cậy.

Popitz là người thông minh nhưng thiếu ổn định tư tưởng. Là một học giả tài ba về Hy Lạp cũng như là nhà kinh tế thành danh, ông gia nhập một nhóm trí thức gặp gỡ mỗi tuần để bàn luận về tâm lý học, sử học, nghệ thuật, khoa học, văn học; rồi theo thời gian tiến triển – hoặc thời gian không còn nữa – thành lập nên một trong những nhóm chống đối.

Schacht là con người của chủ nghĩa cơ hội, và Hassell nhận xét trong nhật ký của ông là Schacht “nói một đàng nhưng làm một nẻo” – ý kiến mà ông nghĩ Đại tướng Tham mưu trưởng Lục quân Ludwig Beck và Đại tướng Tư lệnh Lục quân Werner von Fritsch cũng đồng ý.

Ulrich von Hassell trở thành một cố vấn ngoại giao cho các nhà lãnh đạo chống đối. Là người có văn hóa, ông khinh rẻ cung cách thô lỗ của Quốc xã, nhưng vẫn phục vụ chế độ cho đến khi bị khai trừ trong cuộc cải tổ sâu rộng của Hitler ngày 4 tháng 2 năm 1938. Cũng giống như nhiều người khác, có vẻ như phải đợi đến khi có cú sốc do bị Quốc xã cách chức ông mới nghĩ đến việc làm gì đấy để lật đổ họ. Một khi chuyện này xảy ra, con người nhạy cảm, thông minh, bứt rứt toàn tâm vào nhiệm vụ mới và cuối cùng hy sinh đời ông, chịu một cái chết dã man.

Có những người khác, ít được biết đến hơn và đa số trẻ hơn, chống đối Hitler ngay từ đầu và dần dà kết hợp với nhau để tạo thành những nhóm khác nhau. Có nhà trí thức, có nhà lãnh đạo nghiệp đoàn. Có hai sĩ quan Gestapo: Artur Nebe, chỉ huy cảnh sát hình sự, và Bernd Gisevius, một sĩ quan cảnh sát chuyên nghiệp trẻ, trở nên những phụ tá đắc lực cho nhóm âm mưu. Gisevius đóng góp nhiều thông tin cho các công tố viên của Mỹ tại Tòa án Nürnberg. Ông viết một quyển sách đưa ra ánh sáng nhiều chi tiết trong các âm mưu chống Hitler, tuy phần đông các nhà sử học và tác giả này nửa tin nửa ngờ.

Có một số người trẻ tuổi thuộc dòng dõi của những gia đình tiếng tăm ở Đức: Bá tước Helmuth von Moltke, dòng dõi một Thống chế lừng danh, sau này lập nên Nhóm Kreisau; Bá tước Albrecht von Bernstorff, cháu của đại sứ Đức tại Hoa Kỳ trong Thế chiến I; Freiherr Karl Ludwig von Gutenberf, chủ bút không hề biết sợ của một nguyệt san Công giáo; Mục sư Dietrich Bonhoeffer thuộc gia tộc giáo sĩ Tin lành có tiếng tăm ở hai bên nội ngoại, người xem Hitler là kẻ phản Chúa và tin rằng nhiệm vụ của người theo Cơ đốc là phải trừ khử ông.

Phần lớn những người trẻ dũng cảm này đều kiên trì cho đến khi bị Quốc xã bắt giam, tra tấn rồi xử tử hoặc chỉ việc giết bỏ.

Trong một thời gian, nhóm dân thường nhỏ nhoi như thế không thể dẫn dụ Quân đội vào công việc của họ. Như Thống chế von Blomberg khai trước Tòa án Nürnberg:

Trước 1938-39, các tướng lĩnh Đức không chống lại Hitler. Không có lý do gì chống lại ông, vì ông tạo ra thành quả mà họ mong ước.

Nhóm trí thức tiếp xúc với Đại tá Hans Oster, phụ tá chính cho Đô đốc Wilhelm Franz Canaris Giám đốc Cục Quân báo, và thấy vị sĩ quan này không những có tinh thần chống Hitler mãnh liệt mà còn sẵn sàng làm cầu nối giữa hai giới quân đội và dân sự. Tuy nhiên, mãi đến mùa đông 1937 – sau khi Hitler quyết định gây chiến tranh, thanh trừng các tướng lĩnh và đích thân nắm quyền tổng tư lệnh, đối xử tệ hại với tướng Fritsch – thì vài tướng lĩnh mới nhận ra hiểm họa của nhà độc tài Quốc xã đối với với nước Đức. Việc Đại tướng Beck từ chức vào cuối tháng 8/1938 khiến có thêm một số người thức tỉnh. Beck hiển nhiên là người có thể tụ hội cả những tướng lĩnh ương ngạnh lẫn giới dân sự bất mãn. Cả hai nhóm đều kính trọng và tin tưởng ông.

Cả hai nhóm cũng phải xét thêm một điểm nữa. Để lật đổ Hitler, cần phải dùng vũ lực, và chỉ Quân đội mới có vũ lực. Nhưng ai trong Quân đội có thể gom vũ lực lại cho họ? Họ nhận ra là cần có tướng lĩnh thật sự chỉ huy binh sĩ trong và chung quanh thủ đô, và có thể hành động ngay khi được cấp báo. Tướng tân Tham mưu trưởng Lục quân Franz Halder không có quân dưới tay; còn Tướng tân Tư lệnh Lục quân Walther von Brauchitsch không được tin cậy.

Vài tướng lĩnh chủ chốt sẵn sàng cộng tác. Ba người có vị thế quan trọng để mang lại thành công: Tướng Erwin von Witzbelen, tư lệnh quân khu Berlin và vùng phụ cận; Tướng Bá tước Erich von Brockdorff-Ahlefeld, chỉ huy doanh trại Potsdam gồm Sư đoàn 23; và Tướng Erich Hoepner, tư lệnh một sư đoàn thiết giáp ở Thüringen.

Kế hoạch của nhóm phản loạn là bắt giữ Hitler ngay khi ông ra lệnh cuối cùng tấn công Tiệp Khắc và giải ông ra trước Tòa án Nhân dân với cáo buộc ông đã đẩy nước Đức vào hiểm họa chiến tranh Châu Âu và vì thế không có năng lực lãnh đạo. Thời gian đầu sẽ là chế độ độc tài quân sự, kế tiếp là chính phủ lâm thời do một nhân vật được trọng vọng đứng đầu. Sau đấy sẽ thành lập chính phủ dân chủ bảo thủ.

Để đảm bảo thành công, có hai yếu tố cần xem xét liên hệ đến hai nhân vật chủ chốt: Tướng Halder và Tướng Beck. Yếu tố đầu là thời gian. Halder đã dàn xếp với Bộ Tổng tham mưu là ông cần được thông báo trước 48 giờ về lệnh cuối cùng của Hitler tấn công Tiệp Khắc. Việc này sẽ giúp ông có đù thời giờ thực hiện cuộc đảo chính trước khi quân đội có thể vượt biên giới Tiệp Khắc. Vì thế, ông sẽ có thể bắt giữ Hitler và ngăn chặn bước cuối cùng dẫn đến chiến tranh.

Yếu tố thứ hai là Beck phải có khả năng thuyết phục các tướng lĩnh trước và dân Đức sau, rằng tấn công Tiệp Khắc sẽ gây ra chiến tranh Châu Âu mà Đức chắc chắn sẽ bại trận. Đây là chủ đề của các bản ghi nhớ của ông suốt mùa hè và là cơ sở cho tất cả những gì ông chuẩn bị làm bây giờ: tránh cho Quốc xã sa vào cuộc xung đột ở Châu Âu – bằng cách lật đổ Hitler.

Thương thay cho Beck, và cho phần lớn thế giới, chính là Hitler chứ không phải cựu Tham mưu trưởng Lục quân có cái nhìn khôn ngoan hơn về những khả năng của cuộc chiến lớn. Một người có văn hóa và có ý thức về lịch sử như Beck không thể nghĩ ra rằng Anh và Pháp lại cố tình hy sinh quyền lợi của họ bằng cách không can thiệp nếu Đức tấn công Tiệp Khắc. Ông có ý thức về lịch sử nhưng không biết gì về những chính sách đương đại. Hitler thì biết rõ. Trong một thời gian Hitler đã biết rằng Anh thà hy sinh Tiệp Khắc còn hơn là tham gia chiến tranh và như thế, Pháp cũng không muốn giúp Tiệp Khắc.

Khi nói chuyện với Jodl ngày 8 tháng 9, 1937, Tướng Karl-Heinrich von Stülpnagel, thuộc Tổng cục Hậu cần của Bộ Tổng tham mưu và cũng tham gia vào nhóm âm mưu đảo chính của Halder, yêu cầu báo cho Bộ Tổng tham mưu trước 5 ngày về lệnh của Hitler tấn công qua Tiệp Khắc. Đại tướng Cấp cao Alfred Jodl, Tham mưu trưởng Hành quân của Bộ Tổng tham mưu Quân lực, trả lời rằng vì lý do thời tiết thất thường, chỉ có thể đảm bảo báo trước 2 ngày. Như thế là đủ cho nhóm âm mưu.

Nhưng họ cần sự đảm bảo theo phương diện

0