Phát biểu cảm nghĩ về truyện Sống chết mặc bay của Phạm Duy Tốn.
Phạm Duy Tốn là một trong những cây bút văn xuôi viết bằng chữ quốc ngữ đầu tiên của nước ta. I. DÀN Ý 1. Mở bài: - - Truyện ngắn Sống chết mặc bay đăng trên báo Nam Phong số18, năm 1918; in lại trong tuyển tập Truyện ngắn Nam Phong năm ...
Phạm Duy Tốn là một trong những cây bút văn xuôi viết bằng chữ quốc ngữ đầu tiên của nước ta.
I.DÀN Ý
1. Mở bài:
-
- Truyện ngắn Sống chết mặc bay đăng trên báo Nam Phong số18, năm 1918; in lại trong tuyển tập Truyện ngắn Nam Phong năm 1989.
- Nội dung kể về sự kiện vỡđê, gây thảm hoạ cho dân chúng vùng đồng bằng Bắc Bộ. Lên án thái độ vô trách nhiệm đến mức tàn ác của bọn quan lại sâu dân mọt nước trong xã hội thực dân phong kiến dương thời.
2. Thân bài:
* Tình thế nguy hiểm:
- Mưa to gió lớn. Nước lũ dâng cao, đêsắp vỡ.
- Dân chúng lo sợ, hốihả tìm cách giữ đê. Hàng trăm nghìn con người làm việc trong không khí căng thẳng, hài hùng. Tình cảnh thật thêthảm. Sức người khó địch lại với sức trời. Thế đê không cự nổi với thế nước.
- Đau thương tang tóc đang đến ngay trước mắt..
* Thái độ vô trách nhiệm của bọn quan lại:
- Qua phủ và đám tay sai dưới quyền đang mải mê chơi tổ tôm, sát phạt nhau ăn tiền, không quan tâm đến tình cảnh thảm thương của dân chúng trên đê.
- Chúng điềm nhiên vui chơi hưởng lạc trước tai hoạ đang đe doạ nghiêm trọng đến tính mạng và tài sản của dân lành.
* Nghệ thuật của truyện ngắn Sống chết mặc bay:
+ Bao trùm toàn bộ tác phẩm là sự kết hợp tài tình giữa phép tương phản và tăng cấp trong nghệ thuật miêu tả và kể chuyện:
- Cảnh hàng trăm ngàn người hối hả, tất bật, lo lắng, sợ hãi, tìm mọi cách giữ đê tương phản hoàn toàn với cảnh trong đình đèn đuốc sáng choang, không khí vui vẻ, rộn ràng, lũ quan lo chơi cờ bạc...
- Cảnh tên quan phủ ngồi khểnh rung đùi, vuốt râu, hả hê vì thắng bạc đối lập với cảnh đê vỡ, “nhà cửa trôi băng, lúa má ngập hết, kẻ sống không chỗ ở, kẻ chết không nơi chôn... tình cảnh thảm sầu, kểsao cho xiết”...
+ Nghệ thuật xây dựng nhân vật điển hình xuất sắc mang ý nghĩa khái quát cao:
- Hành động, ngôn ngữ của tên quan phủ hoàn toàn đối lập với tình cảnh khốn khổ của dân chúng trong cảnh vỡ đê. Nhiệm vụ của hắn là đốc thúc việc hộ đê nhưng hắn lại ngồi trong đình, đèn đuốc sáng choang, ăn yến (một thứ cao lương mĩ vị) chơi tổtôm... và bắt bọn quan lại tay sai phục dịch.
- Nghe người dân bẩm báo tình hình nguy cấp, hấn quay mặt quát: “Đê vỡ rồi... thời ông cách cổ chúng mày”!
- Hình ảnh tên quan phủ bất nhân tiêu biểu cho không ít quan lại sâu mọi thời bấy giờ.
3. Kết bài:
- Truyện ngắn “Sống chết mặc bay” là bức tranh hiện thực sinh động về đời sống khổ cực của nông dân Việt Nam dưới thời thực dân phong kiến.
- Là lời tốcáo đanh thép thái độ tàn ác, vô nhân dạo của lũ quan lại sâu dân mọt nước; đồng thời bày tỏ niềm cảm thương sâu sắc của nhà văn trước tình cảnh thê thảm của đồng bào.
II. BÀI LÀM
Truyện ngắn Sống chết mặc bay của Phạm Duy Tốn được in trên báo Nam Phong, số 18, năm 1918. Đến năm 1989, Nhà xuất bản Khoa học xã hội tuyển chọn đưa vào tập Truyện ngắn Nam Phong. Tác phẩm dược xem là “bông hoa đầu mùa” của truyện ngắn Việt Nam hiện đại bởi lẽ nó là một trong những truyện ngắn đầu tiên được viết bằng chữ quốc ngữ, mặc dù cách diễn đạt vẫn còn lưu lại khá rõ dấu ấn của văn học trung đại (lối văn biến ngẫu).
Nội dung truyện kể về sự kiện vỡ đê, nhân vật chính của truyện là viên quan phủ. Cốt truyện gồm ba cảnh, diễn tiến theo trình tự thời gian:
Cảnh 1: Mưa to gió lớn, nước lũ dâng cao, đê sắp vỡ, dân chúng hối hả đắp đất giữ đê.
Cảnh 2: Đám quan lại, nha lệ, lính tráng mải mê đánh tổ tôm trong đình.
Cảnh 3: Vỡ đê. Tác giả đã vẽ nên bức tranh tương phản giữa sự ăn chơi hưởng lạc của những kẻ cầm quyền với nỗi cơ cực, thê thảm của dân chúng. Thông qua đó lên án gay gắt giai cấp thống trị thối nát, bất tài vả vô trách nhiệm trước tài sản, tính mạng của dân nghèo, đồng thời bày tỏ mối cảm thương sâu sắc của mình trước những đau thương, hoạn nạn của đồng bào.
Mở đầu thiên truyện là tình thế vô cùng hiểm nguy của khúc đê sông Nhị. Thế đê được nhà văn tả bằng nhiều chi tiết cụ thể về thời gian, không gian: “Gần một giờ đêm. Trời mưa tẩm tả. Nước sông Nhị Hà lên to quá. Khúc sông làng X, thuộc phủX xem chừng núng thế lắm, hai ba đoạn đã thẩm lậu rồi, không khéo thì vỡ mất”.
Cảnh hàng trăm nghìn con người hốt hoảng, lolắng, tất bật... tìm mọi cách để giữ cho con đê không bị vỡ trước sự tấn công khủng khiếp của nước lũ được tác giả miêu tả bằng ngòi bút hiện thực thấm đẫm cảm xúc xót thương:... “kẻ thì thuổng, người thì cuốc, kẻ đội đất, kẻ vác tre, nào đắp, nào cù, bì bõm dưới bùn lầy ngập quá khuỷu chân, người nào người nấy lướt thướt như chuột lột. Tình cảm trông thật thảm”.
Không khí căng thẳng, hãi hùng. Sự đối lập giữa sức người với sức nước đã lên tới điểm đỉnh: “Tuy trống đánh liên thanh, ốc thổi vô hồi, tiếng người xao xác gọi nhau sang hộ, nhưng xem chừng ai ai cũng mệt lử cả rồi. Ấy vậy mà trên trời thời vẫn mưa tầm tã trút xuống, dưới sông thời nước cứ cuồn cuộn bốc lên. Than ôi! Sức người khó lòng địch nổi với sức trời! Thế đê không sao cự lại được với thế nước! Lo thay! Nguy thay! Khúc đê này hỏng mất”. Cảnh dân phu đang loay hoay, tuyệt vọng chống chọi với nước để cứu đê là để chuẩn bị cho sự xuất hiện của cảnh tượng hoàn toàn trái ngược diễn ra trong đình:
“Ấy, lũ con dân đang chân lấm tay bùn, trăm lo nghìn sợ, đem thăn hèn yếu mà đối với sức mưa to nước lớn, để bảo thủ lấy tính mạng gia tài, thế thời nào quan cha mẹ ở đâu?
Thưa rằng: Đang ở trong đình kia, cách đó chừng bốn năm trăm thước. Đình ấy cũng ở trên mặt đê, nhưng cao mà vững chãi, dẫu nước to hơn thế nữa, cũng không việc gì”.
Ở cảnh hai này, tác giả kể chuyện viên quan phủ mải mê chơi tổ tôm với đám quan lại dưới quyền và được lũ sai nha, lính lệ hầu hạ, cung phụng đến nơi đến chốn. Giọng văn tường thuật khách quan cụ thể, chi tiết nhưng đằng sau nó chứa chất thái độ mỉa mai, châm biếm và phẫn uất.
Trước nguy cơ đê bị vỡ, bậc “phụ mẫu chi dân” cũng đích thân ra “chỉ đạo” việc hộ đê, nhưng trớ trêu thay, chỗ của ngài không phải là ở, giữa đám dân đen đang vất vả, lấm láp, ra sức cứu đê mà là ở trong đình với không khí, quang cảnh thật trang nghiêm, nhàn hạ: “đèn thắp sáng trưng; nha lệ, lính tráng, kẻ hầu người hạ, đi lại rộn ràng”. Chân dung của quan lớn được hiện lên thật cụ thể, sắc nét: “Trên sập, mới kê ở gian giữa, có một người quan phụ mẫu, uy nghi chễm chệ ngồi. Tay trái dựa gối xếp, chăn phải duỗi thẳng ra, để cho tên người nhà quỳ ở dưới đất mà gãi. Một tên lính lệ dứng bên, cẩm cái quạt lông, chốc chốc sẽ phẩy. Đặc biệt, quanh quan có đủ thầy đề, thầy đội nhất, thầy thông nhì và chánh tổng cùng ngồi hầu bài. Quan nhàn hạ, ung dung, không mảy may quan tâm đến tình cảnh thảm thương của dân chúng đang diễn ra trên đê. Trong đình vẫn duy trì cái không khí uy nghiêm của chốn công đường, không hề có một chút liên hệ nào với cảnh hộ đêtất bật ngoài kia của dân phu. Dựng lên hai cảnh đối lập, tác giả có dụng ý tố cáo thái độ vô trách nhiệm, vô lương tâm, “sống chết mặc bay” của bọn quan lại phong kiến đương thời.
Trên cái nền là cảnh trăm họ lo toan chống giặc nước, chân dung “quan phụ mẫu” hiện lên rõ ràng qua những nét vẽ sinh động về hình dáng, cử chỉ, lời nói và diễn biến tâm lí nhân vật. Người đọc không thể tưởng tượng nổi là trong tình cảnh nước sôi lửa bỏng, tính mạng và của cải của hàng nghìn con người đang bị đe doạ từng giờ từng phút, vậy mà “quan phụ mẫu” vẫn điềm nhiên vui chơi, hưởng lạc. Xung quanh hắn bầy biện đủ thứ sang trọng, xa hoa: “Bên cạnh ngài, mé tay trái, bát yến hấp đường phèn để trong khay khảm, khói bay nghi ngút, tráp đồi mồi chữ nhật để mở, trong ngăn bạc đẩy những trầu vàng, cau đậu, rễ tía, hai bên nào ống thuốc bạc, nào đồng hồ vàng, nào dao chuôi ngà, nào ống vôi chạm, ngoáy tai, ví thuốc, quản bút, tăm bông trông mà thích mắt”.
Quả là hoàn toàn trái ngược với hình ảnh: ... “mưa gió ầm ầm, dân phu rối rít...trăm họ đang vất vả lấm láp, gội gió tắm mưa, như đàn sâu lũ kiến ở trên đê”... Sự đối lập đó càng làm nổi bật tính cách ích kĩ, độc ác, vô nhân đạo của tên quan phủ và thảm cảnh của dân chúng; đồng thời góp phần gia tăng ý nghĩa phê phán gay gắt của truyện.
Trong khi thảm hoạ vỡ đê khủng khiếp đang đập vào mắt dân chúng thì bọn nha lại tay chân vẫn cúc cung hầu hạ quan lớn đánh bạc. Tuy chỉ là một cuộc chơi, lại chơi trong khi làm nhiệm vụ đôn đốc dân phu hộ đê nhưng quan lớn vẫn giữ cái trật tự trên dưới và không khí tôn nghiêm, nghi vệ như ở chốn công đường: “Chung quanh sập, bắc bốn ghế mây, bát đầu từ phía hữu quan thì có thầy đề, rồi lần lượt đến thầy đội nhát, thầy thông nhì, sau hết giáp phía tay tả ngài, thì đèn chánh tổng sở tại cùngngồi hầu bài”. Mặc cho dân tình nhếch nhác, khổ sở, quan vẫn mải mê dồn hết tâm trí vào các quân bài tổtôm. Cung cách ấy tốcáo bản chất xấu xa cùng thái độ vô trách nhiệm đến mức vô nhân đạo của hắn.
Nếu ở trên mặt đê, không khí sôi động, nhốn nháo, hối hả với công việc cứu đê thì trong đình không khícũng rộn ràng với những lời lẽ xoay quanh ván bài đen đỏ: “Bát sách! An; Thất văn…Phỗng, lúc nhặt, lúc khoan, ung dung, êm ái, khi cười, khi nói vui về, dịu dàng... Ngoài kia, đê vỡ mặc đê, nước sông dù nguy không bằng nước bài cao thấp.
Sự đam mê cờ bạc của tên quan phủ với đám nha lại dưới quyền diễn ra ngay trên mặt đê, trong hoàn cảnh ngặt nghèo đã nói lên sự tàn ác, vô liêm sỉ của kẻ cầm quyền. Những lá bài tổ tôm có một ma lực lớn đến độ nào mà khiến cho tên quan phủ quên hết trách nhiệm của mình, quên cả mốihiểm nguy, chết chóc đang đe doạ sinh mạng, tài sản của bao người? Phải! Hắn ta đâu cần biết những điều đó vì quanh hắn lúc nào cũng có bọn tay sai nịnh nọt, hầu hạ, dạ vâng... Chúng thi nhau tỏ ra cho quan biết là: “Mình vào dược, nhưng không dám cốăn kìm, rằng: Mình có đôi, mà không dám phỗng qua mặt”. Thì ra, chúng cố ý nhường cho quan thắng bài liên tiếp đểlấy lòng quan lớn. Sau khi quan “xơi bát yến vừa xong, ngồi khểnh rung đùi, vuốt râu, mắt đang mải trông đĩa nọc, bỗng ngoài xa, tiếng kêu vang trời dậy đất. Mọi người đều giật nảy mình, duy quan vẫn điềm nhiên, chỉ lăm le chực người ta bốc trúng quân mình chờ mà ha”. Có người bẩm báo là có khí đê vỡ, hắn trả lời thật phũ phàng: “Mặc kệ!” Sau đó lại tiếp tục đánh bài.
Thú cờ bạc và những đồng tiền vơ vết được từ ván bài đã làm cho hắn mất hết lương tri: “Ngài mà còn dở ván bài, hoặc chưa hết hội thì dầu trời long đất lở, đê vỡ dân trôi, ngài cũng thây kệ”.
Tính cách của tên quan phủ dược tác giả miêu tả khá tỉ mỉ qua các cử chỉ, lời nói thật tiêu biểu, về cử chỉ: “Khi đó, ván bài quan đã chờ rồi. Ngài xơi bát yến vừa xong, ngồi khểnh vuốt râu, rung đùi, mắt đang mải trông đĩa nọc”... Về lời nói: “Tiếng thầy đề hỏi: Dạ bẩm bốc!Tiếng quan lớn truyền: ừ”. Khi có người chạyvào báo tin đê vỡ, quan đỏ mặt tía tai, quay ra quát rằng: “Đê vỡ rồi! Đê vỡ rồi, thời ông cách cổ chúng mày, thời ông bỏ tù chúng mày! Có biết không? Lính đâu? Sao bay dám để cho nó chạy xồng xộc vào đây như vậy? Không còn phép tắc gì nữa à”? Khi chơi bài, quan lớn tô ra vô cùng thành thạo: “Ù! Thông tôm, chi chinảy!...Điếu, mày”!
Hàng loạt hình ảnh tương phản được tác giả sử dụng rất tài tình trong đoạn văn trên: “Tiếng kêu vang trời dậy đất” ngoài dê tương phản với thái độ điềm nhiên hưởng lạc của tên quan phủ. Lời nói khe khẽ sợ sệt của người hầu: “Bẩm, có khi đê vỡ” tương phản với lời gắt của quan cùng cái cau mặt: “Mặc kệ!” Hình ảnh người nhà quê, “mình mẩy lấm láp, áoquần ướt đầm, tất tả chạy xông vào thởkhông ra hơi” báo tin đê vỡ tương phản với hình ảnh “quan lớn đỏ mặt tía tai quay ra quát rằng: Đê vỡ rồi... thời ông cách cố chúng mày”.
Trong khi miêu tả và kể chuyện cảnh hộ đê, tác giả thể hiện nỗi xót thương và đồng cảm với nỗi khổcủa dân chúng:
“Than ôi! Cứ như cái cách quan ngồi ung dung như vậymà hai bên tả hữu, nha lại nghiêm trang, lính hầu rầm rập, thì đố ai dám bảo rằng: gần đó có sự nguy hiểm to, sắp sinh ra một cảnh nghìn sầu muôn thảm, trừ những kẻ lòng lang dạ thú, còn ai nghĩ đến, mà chẳng động tâm, thương xót đồng bào huyết mạch!”...
Thiên truyện khép lại bằng cảnh đê vỡ: “Ấy, trong khi quan lớn ù ván bài to như thế, thì khắp mọi nơi miền đó, nước tràn lênh láng, xoáy thành vực sâu, nhà cửa trôi băng, lúa má ngập hết; kẻ sống không chỗ ở, kẻ chết không nơi chốn, lênh đênh mặt nước, chiếc bóng bơ vơ, tình cảnh thảm sầu, kể sao cho xiết”!
Ởđoạn cuối truyện, tác giả vừa dùng ngôn ngữ miêu tả, vừa dùng ngôn ngữ biểu cảm để tả cảnh tượng vỡ đê và tỏ lòng ai oán cảm thương của mình đối với những người nông dân khốn cùng. Nhà văn muốn nhấn mạnh rằng: Cuộc sống lầm than đói khổ của nhân dân không phải chỉ do thiên tai gây nên mà trước hết và trực tiếp hơn cả là do thái độ thờ ơ vô trách nhiệm, vô nhân đạo của những kẻ cầm quyền đương thời.
Về nghệ thuật, trong toàn bộ tác phẩm, bên cạnh tương phản thì phép tăng cấp đã được nhà văn sử dụng một cách có chúý nhằm nêu bật ý nghĩa của tác phẩm và khắc hoạ rõ nét tính cách nhân vật chính là tên “quan phụ mẫu”.
Phép tăng cấp thể hiện rõ trong việc miêu tả cảnh hộ đêdưới trời mưa mỗi lúc một dồn dập: “Nước sông Nhị Hà lên to quá... Ấy vậy mà trên trời thời vẫn mưa tầm tã trút xuống... Dưới sông thời nước cứ cuồn cuộn bốc lên giữa tiếng trống, tiếng tù và tiếng người gọi nhau sang hộ đê” mỗi lúc một ầm ĩ, náo động.
Phép tăng cấp còn được vận dụng vào việc miêu tả cảnh tên quan phủ cùng đám nha lại đánh bài tổtôm trong đình. Thái độ vô trách nhiệm, vô lương tâm của tên quan phủ mỗi lúc một tăng. Mê bài bạc mà bỏ nhiệm vụ đôn đốc hộ đê đã đành. Đến khi có người dân phu vào báo tin đê vỡ mà vẫn thờ ơ, lại lên giọng quát nạt bọn tay sai rồi quay lại tiếp tục đánh bài và vui sướng reo to: “Ù/ Thông tôm, chi chi nảy”!. Thì độ say mê cờ bạc quả đã làm cho “quan lớn” mất hết tính người. Nói theo lời bình của nhà văn là loại “lòng lang dạ thú”.
Nhờ khéo léo kết hợp thủ pháp nghệ thuật tương phản và tăng cấp trong miêu tả, kể chuyện nên tác giả truvện ngắn Sống chết mặc bay đã đạt được mục đích lên án gay gắt tên quan phủ tàn ác và bày tỏ niềm cảm thương sâu sắc trước cảnh “nghìn sầu muôn thảm” của nhân dân do thiên tai và do thái độ vô trách nhiệm của kẻ cầm quyền gây nên.