Phân tích tác phẩm Vi hành của Nguyễn Ái Quốc – Văn mẫu hay lớp 11
Xem nhanh nội dung Phân tích tác phẩm Vi hành của Nguyễn Ái Quốc – Bài làm 1 của một học sinh giỏi Văn tỉnh Bắc Ninh 1. Đặc điểm về nội dung a) Mục đích sáng tác truyện "Vi hành" Nguyễn Ái Quốc viết ...
Xem nhanh nội dung
Phân tích tác phẩm Vi hành của Nguyễn Ái Quốc – Bài làm 1 của một học sinh giỏi Văn tỉnh Bắc Ninh
1. Đặc điểm về nội dung
a) Mục đích sáng tác truyện "Vi hành"
Nguyễn Ái Quốc viết "Vi hành" cho các bạn đọc là người Pháp, đặc biệt ở Pa-ri, nên Người đã viết bằng tiếng Pháp theo phong cách viết hiện đại. Để câu chuyện có thể hấp dẫn và thuyết phục người đọc ở các nước dân chủ và hiện đại như nước Pháp lúc đó, câu chuyện được kể ít nhiều phải có liên quan đến những vấn đề thời sự, những hoạt động giải trí mà người dân của một thủ đô hiếu kì quan tâm. Lấy việc tố cáo, đả kích là mục đích nhưng cảm hứng chủ đạo của người viết chỉ là mỉa mai, châm biếm chứ không thể phê phán kiểu mạt sát, thóa mạ, trực diện. "Vi hành" đã đáp ứng được những yêu cầu khắt khe của công chúng Pháp và thực hiện xuất sắc mục đích sáng tác của Nguyễn Ái Quốc đặt ra.
b) Truyện khắc họa thành công hình tượng ông vua Khải Định
Tác giả "Vi hành" không trực tiếp miêu tả, kể chuyện về nhân vật ông hoàng Khải Định nhưng bằng cách xây dựng tình huống truyện độc đáo với giọng văn châm biếm, mỉa mai trong hình thức một bức thư gửi cô em họ, hình ảnh ông hoàng đế An Nam từ tướng mạo đến bản chất dần dần hiện rõ một cách hèn hạ và lố bịch. Từ sự nhầm lẫn của đôi trai gái trên tàu điện ngầm (tưởng nhân vật "tôi" là hoàng đế An Nam), nhân vật "tôi" – người kể chuyện – nghe được họ nhận xét về tướng mạo Khải Định rất nực cười: mũi tẹt, mắt xếch, mặt vàng bủng, đầu quấn khăn lại còn đội nón, ngón tay đầy nhẫn, người đầy lụa là và hạt cườm, dáng vẻ nhút nhát, lúng túng…
Trong con mắt của họ, của những người dân Pháp, ông vua một nước thuộc địa do Pháp bảo hộ kia chẳng khác nào một thứ sinh vật lạ hiếm hoi đến từ một xứ sở xa xôi và mông muội. Tệ hại hơn nữa là, họ nhìn ngắm khải Định như xem các tiết mục giải trí không mất tiền (vợ lẽ nàng hầu vua Cao Miên, trò leo trèo nhào lộn của một sư thánh xứ Công – gô,…) Hơn thế, Khải Định lúc thì có vẻ như một con rối trên sân khấu Nhà hát Múa rối của họ ; lúc thì giống như một công tử bé chơi bời bừa bãi, lén lút ở Pa – ri.
c) Truyện khéo léo đả kích "những bậc khai hóa".
– Tác giả "Vi hành" còn tái hiện tiếp sự nhầm lẫn nữa của người dân Pa – ri (tưởng nhân vật "tôi" là hoàng đế An Nam đang vi hành), kết hợp với hình thức viết thứ để thực hiện mục đích thứ hai của truyện: đả kích Chính phủ Pháp, bọn mật thám tay sai, bọn thực dân mà tác giả gọi là "những bậc khai hóa".
Như phụ đề của truyện ngắn có ghi: Trích "Những bức thư gửi cô em họ" do tác giả tự dịch từ tiếng An Nam, ngoài ý định gợi sự chú ý của người dân Pháp về chuyện xứ lạ, hình thức thư từ (gửi cho cô em họ) cho phép người viết được tự do kể chuyện gì mà mình thích, mình muốn ; tha hồ liên hệ, tạt ngang tùy ý. Nhưng liên hệ tạt ngang trong "Vi hành" thường có vẻ "mát mẻ", "dí dỏm", "nhẹ nhàng" nhưng hàm ý phản đối, đả kích sâu cay. Chẳng hạn:
+ "Nhật báo chẳng còn cái gì để bôi bác lên đấy cả": châm điếm báo chí Pháp lúc đó.
+ " Tôi nhớ chuyện vua Thuấn, vì muốn đích thân tai nghe mắt thấy dân có bằng lòng mình không, nên cải trang làm dân làm dân cày đi dò la khắp xứ": tiếp tục châm biếm Khải Định "vi hành".
+ "Phải chăng là ngài (Khải Định – NBS) muốn biết dân Pháp, dưới quyền ngự trị của bạn ngài là A-lếch-xăng Đệ nhất, có được sung sướng, có được uống nhiều rượu và được hút nhiều thuốc phiện bằng dân Nam, dưới quyền ngự trị của ngài, hay không ?": đả kích chính sách bóc lột của thực dân Pháp đối với nhân dân các nước thuộc địa, trong đó có Việt Nam.
– Còn mức độ nhầm lẫn thứ ba trong truyện được xây dựng đó là sự "nhầm lẫn" của Chính phủ Pháp giữa hoàng đế An Nam với tất cả những người da vàng trên đất pháp lúc đó. Mức độ nhầm lẫn càng tăng tiến, bút pháp mỉa mai càng tỏ ra lợi hại nhằm đả kích chính quyền thực dân Pháp, nhân có sự việc Khải Định sang dự cuộc đấu xảo ở Mác – xây, đã ráo riết theo dõi bất cứ ai là người Việt Nam yêu nước, cách mạng đang ở trên đất Pháp, sẵn sàng có biện pháp đàn áp dã man mọi biểu hiện của dư luận, mọi hành vi phản kháng công khai hay ngấm ngầm về chuyện "xuất ngoại" của ông vua bù nhìn Khải Định: "…để chắc chắn khỏi thất thố trong nhiệm vụ tiếp dân, Chính phủ bèn đối đãi với tất cả mọi người An Nam vào hàng vua chúa và phái tùy tùng đi hộ giá tuốt!", "…các vị bám lấy đế giày tôi, dính chặt với tôi như hình với bóng và thật tình là các vị cuống cuồng cả lên nếu mất hút tôi chỉ trong dăm phút!", …
2. Đặc điểm về nghệ thuật
a) Đặc sắc ở "Vi hành" là đã sáng tạo được một tình huống truyện độc đáo, đạt được hiệu quả đả kích sâu cay nhưng kín đáo. Đấy là tình huống nhầm lẫn với ba mức độ tặng tiến, tạo thành sức mạnh chủ yếu của nghệ thuật "Vi hành":
– Đôi trai gái nhầm lẫn nhân vật "tôi" với hoàng đế An Nam. Tình huống nhầm lẫn có dụng ý nghệ thuật nhưng vẫn đảm bảo tính chất hợp lí, khách quan của bản chất nhân vật, chuỗi sự việc được trần thuật. Vậy nên Khải Định không xuất hiện trong tác phẩm mà chân dung hắn dần dần hiện lên cụ thể, hoàn chỉnh, rất đặc trưng. Cách lố bịch hóa tên vua bù nhìn như vậy đảm bảo tránh được sự chủ quan có thể bị nghi ngờ của nhân vật người kể chuyện – một nhà văn cộng sản ; thật đấy, người Pháp họ quan sát, bình giá như vậy đấy.
Nhiều người dân Pa – ri tưởng nhầm nhân vật "tôi" với hoàng đế An Nam đi "vi hành" để hoàn chỉnh chân dung ông vua bù nhìn Khải Định bên đất Pháp đồng thời châm biếm bản chất đê hèn của hắn.
– Đến cả Chính phủ Pháp cũng nhầm lẫn vị khách quý – hoàng đế An Nam với những người Việt Nam yêu nước cách mạng để nhân đó, châm biếm, tố cáo tính chất điêu trá, bịp bợm của cái gọi là "văn minh", "khai hóa" của chủ nghĩa thực dân Pháp.
b) Truyện "Vi hành" được viết dưới hình thức một bức thư của nhân vật "tôi" gửi cô em họ ở quê nhà và tác giả tự dịch ra tiếng Pháp.
Ai cũng biết thư từ là kiểu văn bản tự do, nhất là thư gửi người thân (ở đây là gửi cô em họ) thì lại càng tự do trong việc cung cấp tin tức, giải bày tình cảm, kể bằng nhiều giọng điệu, hỏi – đáp về nhiều chuyện có vẻ linh tinh cùng một lúc… Bức thư "Vi hành" có mấy nét đáng chú ý như sau:
– Sự chuyển giọng, chuyển cảnh, kể, tả khá linh hoạt: khi nghiêm trang khi cười cợt, khi vui tươi nhí nhảnh, lúc lại lạnh lùng sắc sảo… Nhưng giọng chủ đạo là mỉa mai, châm biếm.
– Hiện tượng liên hệ tạt ngang, so sánh thoải mái nhằm tăng hiệu quả châm biếm: Từ sự phỏng đoán Khải Định "vi hành", nhân vật "tôi" đưa ra hàng loạt phán đoán nhằm lố bịch hóa đối tượng mà tác giả đả kích ; Từ chuyện nhầm lẫn của hai thanh niên Pháp bất ngờ người viết vạch mặt bọn mật thám ở Pa – ri theo lệch của nhà cầm quyền bám sát theo dõi những người Việt Nam yêu nước;….
Nhìn chung, truyện ngắn "Vi hành" là một tác phẩm có tính chiến đấu cao, nghệ thuật mỉa mai châm biếm độc đáo, linh hoạt và đa dạng.
Phân tích truyện ngắn Vi hành của Nguyễn Ái Quốc – Bài làm 2
Truyện ngắn “Vi hành” của Nguyễn Ái Quốc được viết trong dịp vua Khải Định “vi hành” sang Pháp để tham dự triển lãm ở Maxay. Tuy nhiên những hành động mờ ám của vua Khải Định lại khiến nhiều người bất bình, không đồng lòng. Nguyễn Ái Quốc đã lấy bối cảnh đó để mỉa mai, châm biếm hành vi lén lút của một ông vua triều đại phong kiến.
Ngay từ nhan đề, người đọc đã nhận ra giọng mỉa mai, châm biếm rất sâu cay. “Vi hành” được hiểu là hành vi đi du ngoạn để quan sát tình hình dân chúng một cách bí mật, không công khai nhưng vua Khải Định lại làm trò lố, lợi dụng việc chung để làm việc cá nhân của mình. Giọng văn nhẹ nhàng nhưng đầy hàm ý đã khiến cho người đọc hình dung được sự thối nát của một ông vua.
Điều đặc biệt chính là Nguyễn Ái Quốc đã chuyển thể nội dung bằng cách viết thư cho cô em gái. “Bức thư đặc biệt” đó đã vạch trần ra được sự lố lăng, kệch cỡm, ngây ngô của vua Khải Định trên đất bạn xa xôi. Câu chuyện được xâu chuỗi bằng những sự việc, hiện tượng diễn ra hằng ngày trong suốt chuyến đi của Khải Định. Cuộc trò chuyện của cặp trai gái trẻ người Pháp về vua Khải ĐỊnh khiến tác giả vỡ ra rất nhiều điều.
Dân chúng Pháp đều cho rằng ai da vàng, mũi tẹt, mắt xếch thì đó chính là vua An Nam. Và bọn thực dân đã nhầm lân vua Khải ĐỊnh với Nguyễn Ái Quốc nên đối đãi rất tốt với ông.
Nguyễn Ái Quốc đã khéo léo bịa ra những tình huống hay ho, nhưng là bịa như thật, khiến cho người nghe bị cuốn hút vào mạch kể đó. Qua lời của đôi trai gái thì chúng ta có thể nhận ra được Khải ĐỊnh là ông vua “mặt mũi ngây ngô, điệu bộ lúng ta lúng túng, mũ mãng lố lăng”. Thực ra trong mắt của người dân Pháp thì vua Khải Định thật đáng khinh và bị xem thường ở khắp mọi nơi.
Lối dẫn dắt câu chuyện tự nhiên khi kể mọi việc cho cô em gái nghe, Nguyễn Ái Quốc đã làm tăng tính chân thực và hấp dẫn của sự thật. Tác giả đã tố cáo tội ác của Khải Đinh đối với nhân dân ta, đất nước ta. Đớ chính là việc đầu độc nhân dân ta bằng thuốc phiện và rượu độc đầy nham hiểm, hăn chỉ quan tâm đến lợi ích của hắn còn lợi ích của quốc gia thì bỏ mặc.
Giọng điệu đầy mỉa mai, sâu cay khiến cho người dân vô cùng căm phẫn trước tội ác, sự lố lăng của một ông vua đáng khinh bỉ.
Với cách viết giản dị, chân thực và những tình huống hay ho Nguyễn Ái Quốc đã vạch ra bộ mặt thật của một ông vua đáng trách, đẩy nhân dân vào bước đường cùng.
Phân tích truyện ngắn Vi hành của Nguyễn Ái Quốc – Bài làm 3
Sinh thời Nguyễn Ái Quốc- Hồ Chí Minh (1890-1969) không có ý định xây dựng cho mình một sự nghiệp văn học. Nhưng căn cứ vào di sản mà Người để lại cho dân tộc đủ để ta khẳng định: Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh là một nhà thơ, nhà văn lớn. Thơ của Người có thể sánh với Lí Bạch, Đỗ Phủ (Trung Quốc); văn của Người có thể so sánh với Huy Gô, BanGiắc (Pháp). Tiêu biểu nhất trong các sáng tác văn xuôi của Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh phải kể đến Vi Hành, một truyện ngắn vừa có nội dung sâu xa vừa có nghệ thuật độc đáo.
Năm 1922, nhằm phô trương thanh thế, bòn rút chính quốc và tăng cường khai thác thuộc địa, thực dân Pháp đã tổ chức đưa vua Khải Định sang "nước mẹ" dự cuộc đấu xảo thuộc địa, tổ chức tại cảng Véc-xay. Vua Khải Định, đây là cơ hội để ăn chơi xa xỉ và vận động cho ngôi vua cua con cháu sau này được chắc chắn. Lúc đó nhiều người Việt Nam yêu nước trên đất Pháp đã vô cùng phẫn nộ. Phan Châu Trinh lập tức cho công bố một bức thư nổi tiếng lên án Khải Định, trong đó ông đã khẳng định Khải Định có bảy tội đáng chết chém (thư thất điều). Nguyễn Ái Quốc "chào đón" Khải Định bằng một loạt sáng tác: Lời than vãn của bà Trưng Trắc; Sở thích đặc biệt; kịch Con rồng tre và nổi bật nhất là truyện ngắn Vi hành.
Vi hành là một truyện ngắn độc đáo được viết dưới dạng hình thức một bức thư gửi cô em họ, được chính tác giả dịch ra tiếng Pháp và cho đăng trên tờ báo Nhân đạo năm 1923.
Nằm trong hệ thống tác phẩm được sáng tác theo một dụng ý chính trị rõ rệt, Vi hành đả kích, tố cáo chế độ đế quốc và phong kiến mà trực tiếp là thực dân Pháp và vua bù nhìn Khải Định. Vậy vua Khải Định dưới mắt nhìn của người dân Pháp đã hiện ra như thế nào?
Có thể nói, Khải Định được tác giả khắc hoạ rất chân thực mặc dù nhân vật không hiện diện trong tác phẩm. Từ hình dáng đến phục sĩ: của Khải Định đều rất kệch cỡm, nhố nhăng, lố bịch và kì quặc. Hãy nghe một cô gái Pháp tả Khải Định: Hắn có cả cái chụp đèn đè chụp lên đầu, các ngón tay thì đeo đầy những nhẫn, vẫn cái mũi tẹt ấy, vẫn đôi mắt xếch ấy, vẫn cái mặt bủng vỏ chanh. Hắn đeo lên người đủ cả bộ lụa là, đủ cả bộ hạt cườm… Với phương Tây, vào những năm 20 của thế kỉ XX đã là thời kì của xã hội tư bản phát triển. Giữa một thủ đô tráng lệ như Pa ri, nổi tiếng thế giới với các mốt ăn chơi trang điểm, thì cách phục sức của Khải Định là quá cổ lỗ sĩ, đặc biệt là dưới mắt nhìn cua những thanh niên Pháp, vẫn là nhân vật cô gái nhận xét Khải Định: Em thì em đã thấy hắn ở trường đua, trông hắn có vẻ nhút nhát hơn, lúng ta lúng túng hơn cơ… có khi hắn đã gửi tuốt ở kho hành lí nhà ga để đi vi hành đấy… Hay là chán cảnh ông vua to, bây giờ lại nếm thử cuộc đời của các cậu công tử bé. Một ông vua như thế thì thật là xấu xa. Cứ như lời cô gái Pháp thì Khải Định đã lén lút vi hành để tìm đến các nhà thổ, các trường đua ngựa, để lao vào các cuộc cá cược đỏ đen như con bạc khát nước rồi cuối cùng phải vào hiệu cầm đồ. Ăn chơi xấu xa, sa đoạ, thô bỉ, Khải Định không có tư cách của một ông vua.
Trong con mắt người Pháp, Khải Định chỉ là một thằng hề, một con rối dưới bàn tay điều khiển của bọn thực dân Pháp. Em thì em thích Sác- Lô hơn … Phải trả những ngàn rưỡi phờ răng để xem vợ lẽ, nàng hầu vua Cao Miên, tụi làm trò nhào lộn của sứ thánh Công Gô; hôm nay chúng mình có mất tí tiền nào đâu mà được xem vua ngay bên cạnh? Nghe nói ông bầu nhà hát múa rối có ý định kí giao kèo thuê đấy. Lời bộc lộ tâm tình tự nhiên là của đôi trai gái người Pháp. Đó có thể xem là một lời đánh giá khách quan nhất về Khải Định. Cứ đó mà suy, ta thấy Khải Định được so sánh theo giá trị giảm dần: với anh hề Sác Lô; với nàng hầu (con sen) của vua Cao Miên; rồi đến thay cho con rối trong nhà hát… thật Khải Định không còn là một con người nữa.
Không dừng lại ở việc phê phán vua bù nhìn Khải Định, Vi Hành còn nhằm tố cáo những chính sách thuộc địa dã man, nham hiểm và bịp bợm của thực dân Pháp. Qua lời bộc lộ suy nghĩ của nhân vật trữ tình, khi tính cách của Khải Định được bộc lộ, thì tội ác của thực dân Pháp cũng bị bóc trần. Tác giả Nguyễn Ái Quốc. Với tầm nhìn lãnh tụ mặc dù lúc đó Nguyễn Ái Quốc chưa phải là lãnh tụ) Nguyễn Ái Quốc đã vạch trần bộ mặt xâm lược của thực dân qua ba chính sách tiêu biểu của chúng.
Thứ nhất: Thực dân Pháp đã thực hiện một chính sách ngu dân ở Việt Nam bằng cách đầu độc người dân bản xứ bằng thuốc phiện, rượu cồn. Đây có thể xem là kế sách thâm độc nhất của bọn thực dân. "Dân ngu dễ trị" được bọn chúng xem như là một học thuyết cai trị. Chỉ cần qua một câu nói của nhân vật trữ tình, cái bộ mặt "chăm dân" của bọn thực dân đã bị lật tẩy: Phải chăng ngài muốn biết dân Pháp, dưới quyền ngự trị của bạn ngài là A-Lếch-Xăng đệ nhất, có được sung sướng, có được quyền uống nhiều rượu cồn và đi được hút nhiều thuốc phiện bằng dân An Nam dưới quyền ngự trị của ngài hay không?
Thứ hai, tác giả vạch trần chính sách tuyên truyền dối trá, bịp bợm của bọn thực dân. Đem quân đi ăn cướp nước người mà lại gọi là "bảo hộ", là "khai hoá văn minh". Tác giả đã bóc trần sự thật này chỉ bằng một câu chứa đựng mâu thuẫn, phi lôgíc : Đến nay tất cả ai ở Đông Dương có màu da trắng đều là những bậc "khai hóa", thì bây giờ đến lượt tất cả những ai có màu da vàng đều trở thành hoàng đế ở Pháp…
Thứ ba, tác giả Vi hành còn lên tiếng tố cáo chế độ nhà tù, chính sách mật thám truy nã, bủa vây những người Việt Nam yêu nước trên đất Pháp. Qua câu chuyện bịa 100% tác giả lại nói về một sự thật 100%. Bịa là, bức thư gửi cô em họ; ngay cả chính phủ Pháp cũng không biết ai là Khải Định … thật là Khải Định sang Pháp, thực dân Pháp lấy lí bảo vệ Khải Định để theo dõi, bủa vây những người Việt Nam hoạt động trên nước Pháp, đặc biệt là Nguyễn Ái Quốc. Tác giả viết: "Cái.vui nhất là ngay cả đến chính phủ cũng không ai nhận ra được khách thật của mình nữa, và để chắc chắn khỏi thất thố trong nhiệm vụ tiếp tân chính phủ bèn phải đối đãi tốt với tất cả mọi người An Nam vào hàng vua chúa và phái tuỳ tùng đi hộ giá tuốt!… và giá có được thấy các vị ấy ân cần theo dõi tôi chẳng khác bà mẹ rình con thơ chập chững bước đi thứ nhất, thì hẳn cô phải phát ghen lên được vì nỗi âu yếm của các vị đối với tôi. Có thể nói các vị bám lấy đế giầy tôi, dính chặt với tôi như hình với bóng". Rõ ràng đây không phải là một sự chăm sóc ân tình mà lại một sự bủa vây kìm kẹp.
Vẫn biết Vi hành được sáng tác theo một dụng ý chính trị, nhưng không vì thế mà tác giả xem nhẹ nghệ thuật; trái lại, truyện ngắn Vi hành là một sáng tạo nghệ thuật độc đáo của một nhà văn bậc thầy : Nguyễn Ái Quốc. Sự sáng tạo trong Vi Hành được thể hiện trong từng tế bào của tác phẩm
Nhan đề tác phẩm đã là một sáng tạo. Từ "vi hành" có xuất xứ từ Trung Quốc nghĩa gốc là chỉ hành động của các hoàng đế anh minh cải trang làm dân thường đi sâu vào nhân dân để tìm hiếu thực tế, từ đó có đường lối cai trị đúng đắn nhằm đem lại hạnh phúc thực sự cho nhân dân, phồn vinh cho dân tộc. Nhưng "vi hành" còn có nghĩa là lối mòn ; lối đi hẹp, chỉ hành động lén lút, việc làm khuất tất.
Thực tế Khải Định cải trang đi vi hành là để làm những việc xấu xa, bỉ ổi, nhằm thoả mãn những dục vọng thấp hèn. Chính vì thế từ "vi hành" mà tác giả Nguyễn Ái Quốc dùng đặt tên cho tác phẩm này được hiểu ở nét nghĩa thứ hai (trong bản tiếng Pháp, tác phẩm có tên là: Incognito, nghĩa là đội một cái tên không phải là tên thật). Khải Định cải trang đi vi hành nên mới tạo nên một tình huống nhầm lẫn. Chính từ tình huống nhầm lần này đã khơi gợi nhiều trí tưởng tượng cho người đọc.
Nội dung Vi hành đề cập đến một vấn đề nghiêm túc và có thật nhưng hình thức nghệ thuật lại như là "bịa". Trong văn học người ta gọi là "bịa nghệ thuật”. Tác giả đã bịa ra hàng loạt cuộc nhầm lẫn do Khải Định gây nên. Đầu tiên là đôi tình nhân người Pháp nhầm Nguyễn Ái Quốc là Khải Định. Thế rồi sự nhầm lân ấy như một vết dấu, cứ loang ra mãi. Đôi tình nhân người Pháp (cũng có nghĩa là nhân Pháp) nhầm và đến cả chính phủ Pháp – cơ quan đích thân mời Khải Định sang làm thượng khách, cùng nhầm. Và, phải có sự nhầm lẫn này nhân vật trữ tình của chúng ta mơi có cơ hội để lắng nghe một cách khách quan cuộc đối thoại của đôi trai gái người Pháp, để qua đó biết được dư luận của nhân dân Pháp đối với Khải Định. Như vậy là người Pháp nhận xét về Khải Định chứ không phải là người Việt Nam; nhờ đó mà giá trị hiện thực của tác phẩm được nâng lên và bộ dạng, tính cách của Khải Định vốn đã lố bịch lại càng trỏ nên hài hước, lố bịch hơn.
Nghệ thuật của truyện ngắn là nghệ thuật của khoảng khắc và tình huống. Lựa chọn được những khoảng khắc có ý nghĩa nhất trong cuộc đời nhân vật kiếm tạo được những tình huống độc đáo làm nổi bật chủ đề tác phẩm và tính cách nhân vật là cơ sở quyết định sự thành công. Cốt truyện trong Vi Hành chẳng có gì độc đáo nhưng câu chuyện trở nên trớ trêu, éo le, có kịch tính và hết sức hấp dẫn là do tác giả đã tạo được một tình huống độc đáo: nhầm lẫn. Chính sự nhầm lẫn này là cơ sở cho cốt truyện phát triển, là điều kiện tạo nên sức hấp dẫn của truyện.
Cũng cần phải nói thêm một điều nữa là, sức hẫp dẫn của Vi hành còn do hình thức tổ chức kết cấu của truyện tạo nên. Dưới hình thức một bức thư gửi cô em họ, tác giả dễ dàng liên hệ tạt ngang: đang từ sự việc này có thể chuyển sang sự việc khác; từ hiện tại nghĩ về quá khứ; từ Pa ri nghĩ về Việt Nam; từ "Vi Hành" (một chuyện nghiêm túc) lại dẫn đến chuyện cò bạc, đĩ điếm (chuyện xâu xa, bỉ ổi)… Chính vì thế mà nội dung cua truyện hết sức phong phủ, nhưng chủ đề lại không bị phân tán. Một truyện ngắn cuời ra nước mắt" và hấp dẫn người đọc từ đầu đến cuối.
Nằm trong hệ thống các tác phẩm được sáng tác theo một ý đồ chính trị rõ rệt, nội dung của Vi hành là phản đế, phản phong. Nhưng Vi hành thực sự là một truyện ngắn xuất sắc, một sáng tạo nghệ thuật độc đáo xứng đáng là một kiệt tác của nền văn học nước nhà.
Phân tích tác phẩm Vi hành của Nguyễn Ái Quốc – Bài làm 4
Nhắc đến văn học trào phúng Việt Nam người ta nhớ đến ngay các tác phẩm của Tú Xương, Nguyễn Khuyến…của nền văn học trung đại. Ở văn học thời hiện đại, văn học trào phúng vẫn được dâng cao. Đặc biệt tác phẩm Số Đỏ của Vũ Trọng Phụng. Không chỉ thế người ta còn biết đến bút pháp trào phúng của Nguyễn Ái Quốc. Vốn là một nhà chính trị, Người không nhận mình là một nhà thơ, nhà văn mà mục đích cầm bút của Người là dùng văn chương như là một vũ khí để đấu tranh tư tưởng và khêu dậy ý chí chiến đấu của nhân dân. Tác phẩm trào phúng của bác chính là truyện ngắn Vi hành. Với nghệ thuật trào phúng Nguyễn Ái Quốc đã phơi bày bản chất tàn bạo, giả dối của chế độ thực dân Pháp. Cũng với nghệ thuật ấy, Người bày tỏ thái độ khinh bỉ đối với bọn vua quan bù nhìn bán nước cầu vinh, chỉ riêng đối với sự kiện Khải Định sang Pháp dự cuộc Đấu xảo thuộc địa. Nguyễn Ái Quốc đã sáng tác truyện ngắn Lời than vãn của bà Trưng Trắc và vở kịch Con rồng tre lên án và chế giễu sâu cay ông vua bù nhìn. Nhân kỉ niệm một năm chuyến đi ô nhục ấy, Nguyễn Ái Quốc lại viết truyện ngắn Vi Hành, biến Khải Định thành đối tượng của những cuộc đàm tiếu khinh bỉ..
Truyện ngắn Vi hành được đăng trên báo Nhân Đạo, tác phẩm đã tố cáo được bộ mặt của chính quyền thực dân Pháp và sự lừa bịp của “quốc mẫu” Khải Định. Ngay từ tiêu đề của tác phẩm, không phải ngẫu nhiên “đứa con tinh thần” của Bác có tên như vậy, mà đó là sự suy nghĩ trăn trở của những người sáng tạo ra nó. Bởi lẽ nó đặt làm sao để tên gọi ấy tạo lên được tư tưởng chủ đề của tác phẩm, không chỉ thế nó còn phải gây sự tò mò hấp dẫn người đọc. Nguyễn Ái Quốc đặt tên tác phẩm là Vi hành, hai từ này thường được dùng cho những bậc vua chúa xưa kia đi khảo sát dân tình đóng giả làm dân thường không cho ai biết. Đi một cách bí mật nhằm hiểu được cuộc sống của nhân dân khổ cực đến đâu và có bị áp bức bóc lột không. Đặc biệt, khi đi vi hành không được lấy tên thật của mình mà phải lấy tên giả. Nhưng, trong tác phẩm này của tác giả, Nguyễn Ái Quốc lại chỉ ra khi đi vi hành Khải Định vẫn lấy cái tên của mình và ông vua này không đi xem dân tình thế đất nước mình như thế nào mà đi sang nước Pháp. Như vậy, Khải Định đâu có phải là đi vi hành thực sự vì dân, lo cho dân mà thật sự hắn đang đi giúp nước xâm lược trên chính đất nước của mình. Ngay ở nhan đề của tác phẩm, tác giả đã cho thấy một sự châm biếm sâu cay.
Mở đầu câu truyện một cách khách quan, tác giả không để Khải Định xuất hiện trực tiếp mà thông qua lời kể của hai nhân vật nam nữ thanh niên kể về Khải Định. Việc đàm tiếu về trang phục nhà vua do đôi thanh niên nam nữ người Pháp thực hiện. Lợi dụng cách cảm nhận ngộ nghĩnh của họ đối với cách ăn mặc xa lạ. Nguyễn Ái Quốc đã biến ông vua thành một trò cười rẻ tiền: đầu đội chụp đèn, quấn khăn, tay đeo đầy nhẫn, mũi tẹt, mắt xếch, mặt bủng như quả chanh, không một chút uy nghi, đường vệ. Hơn thế, người bạn gái đã trông thấy nhà vua, hình dung vua là người “đeo lên người hắn đủ cả bộ lụa là, đủ cả bộ hạt cườm“, y như một mụ đàn bà. Còn người thanh niên thì xem vua như một trò vui mắt không phải mất tiền như xem “vợ lẽ nàng hầu vua Cao Miên”, hoặc “trò leo trèo, nhào lộn của sư thánh xứ Công Gô”. Thậm chí còn tung tin Nhà hát Múa rối định ký hợp đồng thuê nhà vua biểu diễn! Thật không còn lời báng bổ, khinh miệt nào hơn đối với một đức Hoàng Thượng! Nhưng đó là sựthật: Khải Định chỉ đóng được một vai hề rẻ tiền trong lịch sử!.Đều là đả kích tên vua nô lệ nhưng nếu Nguyễn Ái Quốc công khai đả kích một cách trực tiếp thì thế giới sẽ thấy được người Việt Nam lên án chính người Việt Nam phản quốc. Vì vậy, Nguyễn Ái Quốc đã rất tinh tế khi xây dựng tình huống trên.
Chính những lời thoại hết sức khôi hài của hai thanh niên người Pháp, từ đó cho thấy bộ mặt của Khải Định rất đáng chê cười, và cái đích cuối cùng của tác giả khi nói đến Khải Định nhằm mục đích chỉ ra đây đích thị là một ông vua bù nhìn, giống như một con rối để cho thực dân Pháp sai khiến chỉ đạo chứ không phải là một ông vua của một đất nước.
Nếu như dừng ở đây, chắc hẳn bộ mặt bỉ ổi của Khải Định vẫn chưa hiện lên đầy đủ, mà tác gải còn lột tả tiếp, sự châm biếm lên đỉnh điểm. Đó chính là tác giả để cho nhân vật tôi bình luận về chuyến đi sang Pháp của tên vua “Phải chăng là ngài muốn biết dân Pháp, dưới quyền ngự trị của bạn ngài là Alêchxăng đệ Nhất, … có được uống nhiều rượu và được hút nhiều thuốc phiện bằng dân Nam, dưới quyền ngự trị của ngài, hay không?(…). Hay là, chán cảnh làm một ông vua to, giờ ngài lại muốn nếm thử cuộc đời các cậu công tử bé?”. Không chỉ tố cáo bộ mặt xấu xa của tên vua Khải Định, Nguyễn Ái Quốc còn tố cáo thực dân Pháp. Những người luôn tự nhận mình là nền văn minh và bảo hộ khai hóa nền văn minh cho nước ta. Nhưng thực chất mục đích của chúng là cướp nước ta, áp bức bóc lột dân tộc ta với những chính sách tàn bạo. Đây cũng chính là những tội ác của chúng.
Có thể thấy và cảm nhận được những chua chát, cay đắng trong nụ cười ở đây. Đó là nghệ thuật mỉa mai, châm biếm có tính chất chính luận hết sức già dặn. Tất cả các chữ dùng đều được sử dụng rất đắt và phát huy tác dụng châm biếm tối đa. Chẳng hạn gọi vua Pháp là “bạn” của vua Nam hoặc nói cảnh sát Pháp theo dõi như “mẹ hiền rình con thơ”. Và đó cũng chính là nghệ thuật trào phúng để nhằm châm biếm tên vua bán nước Khải Định và những tội ác của bọn thực dân gây ra cho nhân dân ta.
Thu Thủy (Tổng hợp)