24/05/2017, 12:31

Phân tích tính độc đao của phong cách trong sáng trong văn học Việt Nam

ĐỀ: Nói về tính độc đáo của phong cách trong sáng tác văn học, có ý kiến cho rằng: "Nghệ thuật là lĩnh vực của cái độc đáo, vì vậy đòi hỏi người sáng tác phải có phong cách nổi bật, tức là có nét gì đó rất riêng, mỏi lạ, thể hiện trong tác phẩm của mình". Em hãy chọn hai trong bốn phong cách của ...

ĐỀ: Nói về tính độc đáo của phong cách trong sáng tác văn học, có ý kiến cho rằng: "Nghệ thuật là lĩnh vực của cái độc đáo, vì vậy đòi hỏi người sáng tác phải có phong cách nổi bật, tức là có nét gì đó rất riêng, mỏi lạ, thể hiện trong tác phẩm của mình". Em hãy chọn hai trong bốn phong cách của tác giả Chế Lan viên, Tố Hữu, Nam Cao, Nguyễn Tuân, phân tích làm sáng tỏ ỷ kiến trên.

BÀI LÀM

Trong cuộc sống của chúng ta, có biết bao điều rất khó định nghĩa hoặc khó định nghĩa một cách chính xác và đầy đủ. Chẳng hạn, bạn sẽ trả lời thế nào câu hỏi: “Nghộ thuật là gì.

“Nghệ thuật là cái đẹp” câu trả lời đúng nhưng không đầy đủ. Nghệ thuật là những đường nét mang dại thô sơ trôn những dụng cụ thời cố đại, có khi là cách tạo ra một nhân vật làm cho mọi người đều khiếp sợ... Vậy có nôn chăng khi chúng ta chấp nhận quan niệm “Nghệ thuật là tôi, khoa học là chúng ta”. Và cái tôi của nghệ thuật đó biểu hiện như thế nào? Có thể đó là cái tôi duy cảm, cũng có thể là cái tôi mang tính công dân, nhưng trước hết đó phải là cái tôi dầy cá tính mang sắc thái riêng. Trong văn học cũng thô, nói về tính độc đáo trong phong cách sáng tác có ý kiến cho rằng “Nghệ thuật là lĩnh vực của cái độc đáo, vì vậy nói đòi hói người sáng tác phải có phong cách nối bật, tức là có nét gì đó rất riêng, mới lạ thể hiện trong các tác' phẩm của mình”. Ý kiến trên rất bao quát nhưng cùng đưa ra được một khía cạnh nghệ thuật đòi hỏi phong cách. Trong văn đàn Việt Nam, nói về phong cách, có lẽ không ai quên được Nam Cao và Nguyên Tuân, hai tác giả văn xuôi cừ khôi.

Nhà vật lý học nổi tiếng thế giới Einstein từng nói: “Trước hết là các nghệ sĩ lớn, sau dó mới đến các nhà khoa học, họ xứng đáng được hưởng hơn ai hết sự kính trọng của con người”. Nhà nghệ sĩ chính là người sáng tạo ra nghệ thuật, sáng tạo “cái đẹp để cứu vớt nhân loại”. Nghệ thuật là một khái niệm rất trừu tượng. Những nhiệm vụ mà nghệ thuật phái hoàn thành thật to lớn. Bởi thế người ta đưa ra một ý kiến thật đúng, “nghệ thuật là cái lĩnh vực độc dáo”. Thật vậy, tác động vào tâm

hồn con người không phải là chuyện dễ, để đột phá vào thế giới thật riêng tư, nhà văn cần dùng một phương tiện cũng phải rất riêng: phong cách độc đáo. Họa sĩ Puskin đã cho “nghệ thuật đó là sự mô phỏng tự nhiên”. Tuy quan điểm không hoàn toàn đúng, nhưng theo ý trên ta thấy được cũng là sự mô phỏng nên để tránh nhàm chán, người nghệ sĩ phải thêm vào tác phẩm tự sáng tạo để lại dấu ấn riêng mình trôn từng trang viết. Đây chính là phong cách, Đặc điểm quan trọng nhất để nhận ra nhà văn qua tác phẩm của họ.

Truyện ngắn cũng là lĩnh vực khá lớn của văn học. Truyện ngắn Việt Nam bắt đầu khởi sắc từ những tác phẩm của Tự Lực văn đoàn... nhưng đến Nam Cao thì loại hình văn học này mới đạt được đỉnh cao của nó. Trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, văn đàn Việt Nam không thiếu tên những tác giả có tài như Thạch Lam, Nguyễn Công Hoan... Nhưng hai phong cách nổi bật nhất, theo tôi có lẽ là Nam Cao và Nguyễn Tuân. Không có một người nào đã từng theo dõi văn học nước nhà mà không biết đến dáng đi ngập ngưỡng trong cơn say và gương mặt lằn ngang lằn dọc của Chí Phèo trong truyện ngắn thật xuất sắc, trong đó Nam Cao đã bộc lộ phong cách của mình rất rõ rệt. Trong giai đoạn văn học 1930 - 1945, tác phẩm Chí Phèo ra đời khá muộn khi Tất đèn của Ngô Tất Tốvà Bước đường cùng của Nguyễn Công Hoan đã đứng sừng sững trên văn đàn Việt Nam. Vậy mà Chí Phèo không những không bị chìm đi mà còn có phần lấn át hai tác phẩm ra đời trước đó. Tại sao vậy? Nguyên nhân chủ yếu là vì tác phẩm đó có nét mới lại rất lạ và rất riêng. Ông Nguyễn Đãng Mạnh đã nhận xót rằng khi Chí Phèo ngật ngưỡng bước ra từ tác phẩm của Nam Cao, người ta nhận thấy rằng đây là hình ảnh thê thảm nhất của nông dân trong xã hội thực dân phong kiên. Không biết Nam Cao đã mất bao nhiêu thời gian để quan sát, tìm hiểu và tạo nên tiêng chửi của Chí Phèo. Tiếng chửi của anh khó chịu lắm, nó thông thốc, đập vào tai người đọc, nó như thách thức cả cuộc đời... Chí Phèo chửi mọi người mà như không chửi ai, không còn biết tại sao mình lại chửi. Chua xót hơn, anh ta lại chửi cả “đưa chết mẹ nào lại dé ra hắn”, tiêng chửi của Chí Phèo là một sự phủ nhận mạnh mẽ: phủ nhận xã hội, phủ nhận tình cảm thiêng liêng của gia đình mà anh ta không có được, rồi tiến tới phu nhận cả bản thán mình... Ngòi bút của Nam Cao mang tính khái quát, rất cao, qua tiêng chửi của Chí Phèo ta như thây thấp thoáng dáng dâp của Binh Chức, Nâm Thọ, những con người chịu một số phận tương tự như Chí Phèo, bị bấn cùng rồi côn đồ hóa và tha hóa.

Chí Phèo là một nhân vật phải nói là rất lạ với những nhân vật của những tác giả khác. Cùng ở điểm xuất phát là người nông dân chất phát hiền lành như chị Dậu, anh Pha, nhưng nêu như hai người này vẫn giữ được phẩm chất của con người thì Chí Phèo lại đánh mất cả nhân hình lần nhân tính.

r

Lối kể chuyện hấp dẫn cũng là một nét độc đáo trong phong cách của Nam Cao. Kết cấu của truyện Chí Pheo là một chuỗi xích móc của những cơn say liên tiếp, chồng lên nhau, “bữa đầu về người làng ta đà thấy hắn ngồi ở quán rượu”... Và cứ thế câu chuyện diễn tiến trong cơn say triền miên của Chí Phèo. Trong không khí sặc sụa mùi rượu đó, anh ta trở thành tên côn đồ tay sai cho bá Kiến rồi gặp thị Nở, lúc này cơn say rượu lắng xuống nhường chỗ cho cơn say tình yêu. Thố rồi bị thị Nở thóa mạ, Chí Phèo lại say và anh đã bừng tỉnh trong ý thức để đi đến hành động giết bá Kiến. Nhưng thật ra mà nói, đến phút cuối đời Chí Phèo vẫn đắm chìm trong cơn say.

Truyện ngắn Chí Phèo chứng tỏ bút lực mạnh mẽ cũng như phong cách của Nam Cao khá hoàn chỉnh. Có lẽ không ai ngoài Nam Cao có thể tạo cho Chí Phèo một dáng đi ngật ngưỡng, tiếng chửi chói tai mọi người và đối mắt đỏ ngầu trừng trừng nhìn vào hiện thực để rồi chết ngộp trong hiện thực. Xã hội làng Vũ Đại đen tối không còn lối thoát, cái lò gạch bỏ không là điểm bắt đầu cuộc đời Chí Phèo rồi cùng có thể là cái nôi đứa con của anh. Rồi chuyện gì sẽ xảy ra? Quá khứ lặp lại một lần nữa ư? Đó chính là chỗ bế tắc của văn học hiện thực phê phán. Nhưng dù sao ta không thể phủ nhận giá trị của truyện Chí Phèo vì qua đó phong cách của Nam Cao đã tỏa sáng, thế hiện tình thương với cuộc đời.

Cùng thời với Nam Cao nhưng Nguyễn Tuân là một nhà văn lãng mạn. Tập truyện Vang bóng một thời đã đưa tên tuổi ông vào vị trí rất cao trong văn dàn Việt Nam. Nguyễn Tuân là người nặng lòng hoài cổ, ông lưu luyến và mong vớt vát được những nét đẹp xưa để ấp ủ tâm hồn trong xã hội đương thời. Cũng thật kỳ lạ vì Nguyễn Tuân hoàn thành tập truyện mang tính cố xưa ấy ông chưa đầy ba mươi tuổi. Thế mà Vang bóng một thời có giọng văn của một cụ già ngồi ôn lại những năm tháng êm đẹp đã qua trong cuộc đời mình. Chữ người tử tù là một truyện ngắn khá tiêu biếu trong chuỗi những kí niệm nét đẹp xưa. Hẳn là ta không bao giờ quên được cái ngông ngạo của Huấn Cao, một người tù, trước gông cụm và quan lại. Đó là nét đẹp tỏa sáng nhất mang đậm phong cách của nhà chí sĩ và trong đó cũng mang dâu ấn của phong cách Nguyễn Tuân. Thử hỏi có ai nén được sự xúc động khi tìm lại được mái dầu cao ngạo, kiên cường của một nhà nho - hình ảnh trong quá khứ vừa mới đi qua thôi mà đã tưởng như xa lắm. Thạch Lam đã từng nhận xét “Viết uể dề tài xưa là một việc làm tốn nhiều công sức...” phải thực sự yêu mến và muôn giữ lại những vẻ đẹp đã qua thì mới đủ sức làm sống lại cả một thời xưa cũ. Đúng thế, chuyện xảy ra rồi nay nhà văn chỉ ghi lại. Thê nhưng nếu không thương tiếc, không muốn sống lại với những ngày xưa vang bóng thì không thê tìm thấy được những nét đẹp cố kính phảng phất trên cặp mày, vỏ quắc thước toát ra từ đối mát sâu thăm thẳm và bàn tay tài hoa của người tử tù.

Huấn Cao là người viết chữ đẹp có tiếng nhưng đích thực là một nhà

nghệ sĩ: “Tính ông vốn khoảnh, trừ chỗ tri kỷ ông ít chịu cho chữ”. Huấn Cao biết rõ rằng chữ nghĩa là tinh hoa của thánh hiền, ông coi thường những kẻ khua tay múa bút vì tiền. Chính đức tính này của ông làm cho viên quản ngục ngần ngại mãi, có người tù trong tay nhưng không biết làm cách nào để xin được vài con chữ tài hoa. Người ta thường nói văn tức là người. Do vậy qua hình ảnh của Huấn Cao, ta thấy thoáng hiện một Nguyễn Tuân với vầng trán cao rộng, với đối mắt tinh anh, cũng ngấng cao đầu, cũng khoảnh tính, chẳng đem văn của mình ra làm món hàng mua bán... Người tử tù của Nguyễn Tuân hiện lên trong tác phẩm giông như một anh hùng thời cổ, ông đi trong buổi chiều văng vẳng tiếng trông thu không, tiếng loa xa xa như vọng về từ quá khứ, không gian tịch mịch và cổ kính. Người tù ấy là một nhà nho tài hoa, vậy mà bất khuất chẳng kém một nghĩa quân trong chiến trận. Lời nói khẳng khái của ông đáp lại những biệt đãi của viên quản ngục nghe như đầy thách thức: Ta muốn là nhà ngươi đừng bao giờ bước chân vào đây! Đọc đến câu nói của Huấn Cao, ta nghe như trong mạch máu sôi lên tinh thần của ông cha ngày trước: bất khuất, rạch ròi. Chính điều này đã tạo cho Vang bóng một thời một giọng văn khác lạ. Nguyễn Tuân là một nhà văn thuộc trường phái lãng mạn nhưng tác phẩm của ông khác xa so với truyện ngắn của Thạch Lam.

Huấn Cao có tính ngông thật nhưng không phải vì vậy mà ông không thấy được tấm lòng của viên quản ngục. Thử hỏi làm sao người như Huấn Cao có thể làm ngơ trước một mong ước rất thanh cao của viên quản ngục. Những dòng chữ vuông vắn đầy cá tính của một người tù có nhân cách vượt trội hơn nhiều so với những kẻ xử án. Khung cảnh ngoạn mục và cảm động nhát truyện xảy ra trong nhà ngục ẩm ướt: Một người tù gò viết trên mảnh lụa bạch, người thơ lại và viên quản ngục yên lặng, thành kính, ngọn đuốc bừng bừng, mù mịt khói chứng kiên ba mái đầu chạm vào nhau. Thực sự Nguyễn Tuân đã tạo nên những hình ảnh nức lòng người đọc, gian phòng giam mù mịt tối tăm ấy đang tỏa ra ánh sáng của nhân cách con người. Người tử tù quên rằng sáng mai mình sẽ bị hành hình, viên quản ngục quên rằng đây là một tù nhân của mình, họ gặp nhau trong tâm hồn thanh cao. Viên quản ngục hướng lên cái đẹp với một mảnh lòng trong sáng, người tử tù cúi xuống nâng tâm hồn ông ta lên bằng tài hoa, nhân cách và khí phách của bản thân mình... Trong Chữ người tử tù nói riêng và Vang bóng một thời nói chung, Nguyễn Tuân đã thê hiện cái tôi duy mĩ, yêu mến và thương tiếc cái đẹp. Tình cảm đó và lôi ngông ngạo khác người đã tạo nên một nghệ sĩ Nguyen Tuân gần như xa lạ với hiện thời nhưng rất gần với quá khứ. Nguyễn Tuân là cầu nối của vẻ đẹp xưa với ngày nay.

Trong cùng một thời kỳ văn học nhưng Nam Cao và Nguyễn Tuân là hai phong cách rất đặc biệt. Điểm giống nhau của họ là cùng nhìn thấy và bất mãn trước hiện thực xã hội, nhưng cách phản ánh vào tác phẩm lại hoàn toàn khác nhau. Theo tôn chí của văn học phê phán, Nam Cao

đem vào tác phẩm một hiện thực làm mọi người giật mình: Có thể có khả năng người nông dân sẽ bị côn đồ hóa và trở nên thê thảm như Chí Phèo. Tác phẩm của Nam Cao như hồi chuông báo động mọi người xem lại xã hội mình đang sống. Đó là hồi chuông nặng lòng nhân đạo, nó hướng về con người, hướng về sự cứu vớt con người. Tác phẩm của Nam Cao có thể đánh giá bằng câu vàn của chính ông: “Nghệ thuật không phải là ánh trăng lừa dối”. Đúng vậy, quan điểm nghệ thuật trong sáng tác của Nam Cao là “nghệ thuật vị nhân sinh”.

Xưa nay người ta vẫn thường chỉ trích quan điểm nghệ thuật vị nghệ thuật có lẽ rằng quan điểm đó rất đúng xét trên khía cạnh tích cực của nó. Người ta nói rằng cái đẹp sẽ cứu vớt nhân loại vậy thì nghệ thuật hướng con người tới cái đẹp, tới chân thiện mĩ của cuộc sống, đó chẳng phải là phục vụ con người sao? Truyện ngắn của Nguyễn Tuân về những ngày xưa cũ đem đến cho ta cái đẹp kiêu hãnh của cha ông. Với cái tôi duy mĩ của mình, ông đã tạo nến một thế giới có màu sắc khác lạ, vừa như quen thuộc vừa như xa vời. Nói cách khác, sáng tác của Nguyễn Tuân trước Cách mạng tháng Tám có vẻ “lánh dục về trong”, đi tìm cái đẹp quá khứ để khuây khỏa nỗi buồn hiện tại. Dù sao đi nữa Nam Cao và Nguyễn Tuân vẫn là những phong cách tỏa sáng đặc biệt trên văn đàn Việt Nam trước năm 1945.

Một câu hỏi đặt ra là phong cách của một người có thể thay đổi không và thay đổi như thê nào? Theo tôi sự thay đổi là một quy luật của cuộc sống , không có vật gì tồn tại như lúc ban đầu. Cuộc Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, xã hội đổi khác. Cái không khí xã hội tạo nên những bức xúc cho sáng tác của các nhà văn nay không còn nữa. Phản ánh luận cho rằng những gì thuộc về tâm tư tình cảm của con người đều có thể gọi là hiện thực. Đứng trước sự chuyên biến lớn lao như thế, các nhà văn lại bắt đầu hòa nhập vào lôi sông mới. Nam Cao viết truyện ngắn Đối mắt luận giải cho hiện thực trong tâm hồn những người nghệ sĩ đang “nhận đường” để phù hợp với thời đại mới. Còn Nguyễn Tuân thì lại tìm thấy niêm vui trong sự xây dựng. Tập tùy bút Sông Dà như tiếng lòng ông hồ hởi hòa nhập vào nhịp máy reo vang trên mọi miền đất nước. Thế nhưng cho dù có thay đổi, điém cốt lõi của phong cách họ vẫn còn đó. Cách nhìn ra lối sống có thể biến chuyển nhưng phong cách nghệ thuật cũng như cá tinh con người vẫn luôn tồn tại .

Trong truyện ngắn Dôi mắt ta bắt gặp một Nam Cao đang cô gắng hòa mình vào nhịp sống mớữ trong đó không tránh khỏi những suy tư, bàn khoăn với chính mình... Ong đã tạo nôn nhân vật Hoàng, nhà văn đây cá tính, nhưng khôn nỗi anh ta vẫn giữ những quan điểm cũ về con người và cuộc sống vì thế anh không thể nào trở thành một tế bào của xả hội mới được, vẫn giọng vân ấy, vẫn lôi ké chuyện đầy lôi cuôn ngày xưa, nhưng tư tưởng của Nam Cao đà thay đổi rất nhiều. Khi xưa ông đã từng phản ánh một xã hội như guồng máy vô tri không ngừng tạo ra những con người biến dạng thì ngày nay Nam Cao lại là người phủ nhận đối mắt nhìn đời một cách mai mỉa của Hoàng. Chính tác giả đã nhận

xét rằng: “Cứ giữ dôi mát ấy dể nhìn cuộc đời thì càng đi nhiều, càng quan sát lắm chỉ thấy thêm chán nản”. Thật vậy, trong thời buổi kháng chiến mà anh văn sĩ Hoàng còn cần một cái bàn viết cho ra hồn mới ngồi vào đấy sáng tác thì thật là lạ. Con người dù sao đi nữa củng phải cố gắng hòa nhập vào xã hội, cùng sông cùng sinh hoạt như mọi người quanh mình. Chứ Nam Cao là nhà vãn hay phát biểu quan điểm của mình trong tác phẩm. Đối mất có thề được coi là tuyên ngôn nghệ thuật của ông. Trong giai đoạn văn nghệ sĩ phải “nhận đường” để lao vào những trận chiến mới, Nam Cao rất tích cực. Tuy sáng tác theo một hướng mới nhưng Nam Cao không hề để mất đi phong cách của mình, ta vần gặp đây giọng văn gợi tả, sắc sảo của Nam Cao như muôn vẽ rõ từng chi tiết, từng nét dáng vẻ điển hình của Hoàng trước mắt độc giả: Hai cánh tay như bơi trong không khí, khôi thịt ở hai nách kềnh ra, những ngón tay múp míp. Độc giả yêu thích Nam Cao có thể thở phào nhẹ nhõm vì nhà văn quen thuộc của mình vẫn còn đó, vẫn là Nam Cao và truyện Đối mắt vẫn lôi cuốn không kém tác phẩm nào.

Nguyễn Tuân cũng thế. Tuy cái giọng văn u hoài của Vang bóng một thời không còn nữa những đặc điểm nổi bật của Nguyễn Tuân là chất tài hoa thì lại không thay đổi. Trong Người lái đò sông Đà, ta gặp một cụ già cường tráng. Ông lái đò rất ngang tàng, coi thường ghềnh thác. Cái thú sồng nước của ông là làm sao đưa thuyền ra khỏi những đoạn sông lắm ghềnh thác dữ thì mới cảm thấy “khoái chí”. Đó chính là chất tài tử trong văn Nguyễn Tuân, từ cái ngông ngạo của người hay chừ như Huấn Cao chuyến sang cái nghệ thuật của người coi sông nước sông Đà như ao nhà mình. Đó đây trong tuỳ bút Sông Đà, ta bắt gặp những mánh thiên nhiên trong sáng: Một cánh rừng phủ xanh màu xuân mới, sắc mây êm trôi trên sông Đà... Cái u uẩn ngày xưa không còn nữa nhưng nhà văn Nguyễn Tuần vẫn đứng đó với vầng tráng cao, mái tóc bạc phơ bay ngược chiều gió với sự am tường ngôn ngữ và cuộc sống ngồn ngộn đến mức làm người đọc kinh ngạc.

“Nghệ thuật là tôi, khoa học là chúng ta”. Câu nói ây thật đúng trong nghệ thuật lĩnh vực của cái độc đáo. Người sáng tác tác phẩm văn học là người đem đến cho con người cái đẹp và sự thanh cao, xin được gọi họ là những người tạo ra nghệ thuật. Hai nhà văn Nam Cao và Nguyễn Tuân đã làm nên nét đẹp trong văn học nước ta bằng những phong cách của riêng mình. Trong tác phẩm của họ, ta như lần đầu tiên bắt gặp những gì chợt ẩn, chợt hiện, mới lạ với những gì ta đã biết. Phong cách ấy mãi mãi là những vầng sáng đẹp tạo nên nghệ thuật bất tử.

Truyện ngắn là một lĩnh vực thú vị của văn học. Nó ghi lại sự việc xảy ra trong thời gian và không gian xác định nhưng không phải vì vậy mà giá trị của nó bị thu hẹp. Những nhân vật Chí Phèo, Huấn Cao, Hoàng, ông lái đò... là những hình tượng nghệ thuật đặc sắc tạo bởi năng lực sáng tạo của nhà văn. p.Paylenko nói rằng: “Tôi thu thập hình tượng cũng như con ong hút mật lại” thế mà ta biết rằng một con ong, bay một

đoạn đường bằng sáu lần xích đạo trong một năm ba tháng và đậu lên năm vạn thứ hoa để làm nên năm trăm gam mật (theo Tờ hoa cùa Nguyễn Tuân). Khó khàn biết bao khi người ta muốn vươn đến nghệ thuật thật sự. Thế nhưng mọi người vẫn không ngừng đi tìm cái đẹp, phong cách nghệ thuật độc đáo cho riêng mình. Phải chăng quá trình ấy cũng đầy gian nan không kém gì lao động của các nhà khoa học. Nhà văn Nga Macxim Gorki cho rằng “Văn học là nhân học”, vậy thì vượt gian lao để tìm đến sự độc đáo hoàn thiện của ngòi bút, đến “nhân học” chính là sứ mạng cao quý của người cầm bút.

Nguồn:
0