Phân tích bài Bình Ngô Đại Cáo để làm sáng tỏ tư tưởng của Nguyễn Trãi
Mở đầu bài Bình Ngô đại cáo, Nguyễn Trãi viết: Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân, Quân điếu phạt trước lo trừ bạo. Em hãy phân tích bài Bình Ngô đại cáo để làm sáng tỏ tư tưởng trên của Nguyễn Trãi. DÀN BÀI 1.Mở bài - Giới thiệu vài nét cơ bản về tác giả Nguyễn Trãi và tác ...
Mở đầu bài Bình Ngô đại cáo, Nguyễn Trãi viết: Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân, Quân điếu phạt trước lo trừ bạo. Em hãy phân tích bài Bình Ngô đại cáo để làm sáng tỏ tư tưởng trên của Nguyễn Trãi.
DÀN BÀI
1.Mở bài
- Giới thiệu vài nét cơ bản về tác giả Nguyễn Trãi và tác phẩm Bình Ngô đại cáo.
- Bình Ngô đại cáo khẳng định cốt lõi tư tưởng nhân nghĩa: Việc nhân nghĩa... trừ bạo.
2.Thân bài
a. Ý nghĩa của lời khẳng định
+ Nhân nghĩa lấy việc yên dân làm mục đích tối thượng.
- Yên dân là gì?
Là mọi đường lối chính sách của triều đình phải phù hợp với ý nguyện của dân, không ngoài việc làm cho dân được sống yên ổn, no ấm hạnh phúc. Dân có yên, nước mới thái bình, thịnh trị.
Quan điểm tiến bộ của Nguyễn Trãi là dân vi bản - tức là lấy dân làm gốc. Điều gì yên dân là điều nhân nghĩa và ngược lại.
+ Nhân .nghĩa phải trừ bạo:
Có nghĩa là phải tích cực, chủ động trừ thù trong, giặc ngoài - tức là những thế lực làm hại dân, để yên dân (vỗ về, an ủi dân chúng), bảo vệ quyền lợi tinh thần và vật chất chính đáng của dân.
b.Tư tưởng yên dân trừ bạo được thể hiện nhất quán trong toàn bộ tác phẩm Bình Ngô đại cáo. Cơ sở để suy xét về tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi là quá khứ và hiện tại:
+ Quá khứ:
- Những triều đại vẻ vang trong lịch sử đều là những triều đại trọng nhân nghĩa, biết lấy dân làm gốc.
- Những kẻ hung bạo đi ngược truyền thống nhân nghĩa, gây hại cho dân đều chuốc lấy thảm họa..
+ Hiện tại:
- Nguyễn Trãi tố cáo giặc Minh đã gây tội ác man rợ, gieo rắc đau thương tang tóc cho dân lành. Tội ác ấy nhiều khôn xiết: Trúc
Nam Sơn không ghi hết tội, Nước Đông Hải không rửa sạch mùi,nên trời không dung, đất không tha cho chúng: Lẽ nào trời đất dung tha, Ai bảo thần dân chịu được.
- Nguyễn Trãi khẳng định cuộc chiến đấu chống quân Minh xâm lược là biểu hiện cao nhất của tư tưởng nhân nghĩa yên dân - trừ bạo. Trong buổi đầu kháng chiến, những người lãnh đạo khởi nghĩa vì biết dựa vào dân, phát huy sức mạnh lòng yêu nước của dân chúng nên mọi khó khăn trở ngại đều vượt qua: Nhân dân bốn cõi một nhà, dựng cần trúc ngọn cờ phấp phới, Tướng sĩ một lòng phụ tử, hòa nước sông chén rượu ngọt ngào. Đường lối chiến thuật của cuộc kháng chiến chống quân Minh đều được tiếp thu và phát huy một cách sáng tạo từ kinh nghiệm chiến tranh nhân dân qua bao thời đại: lấy yếu chống mạnh, lấy ít địch nhiều...
- Vì chiến đấu để yên dân trừ bạo, đem đại nghĩa để thắng hung tàn, lấy chí nhân để thay cường bạo nên càng về sau, cuộc khởi nghĩa càng lớn mạnh. Từ thế bị động về mọi mặt, quân dân ta đã chủ động phản công, liên tiếp giành thắng lợi: Sĩ khí đã hăng, Quăn thanh càng mạnh...Thừa thắng ruổi dài, Tây Kinh quân ta chiếm lại, Tuyển binh tiến đánh, Đông Đô đất cũ thu về. Quân giặc bị đẩy vào thế cùng đường, thảm bại: máu chảy thành sông... thây chất đầy nội...Trần Hiệp đã phải bêu đầu... Lí Lượng củng đành bỏ mạng... Bó tay để đợi bại vong...
- Trước tư thế thảm hại của kẻ bại trận: như hổ đói vẫy đuôi xin cứu mạng, quân dân ta thể lòng trời mà mở đường hiếu sinh. Hành động nhân nghĩa cao cả ấy khẳng định truyền thống đạo lí tốt đẹp của dân tộc Việt Nam. Đánh cho giặc khiếp sợ, nhưng lại tha chết cho chúng khi chúng đại bại... cũng đều không ngoài mục đích trừ bạo yên dân, lấy toàn quân là hơn để nhân dân nghỉ sức.
- Là lời tuyên bố kết thúc chiến tranh, mở ra một thời đại mới thái bình vững chắc. Lí tưởng nhân nghĩa yên dân trừ bạo đã được thực hiện một cách hào hùng, trọn vẹn: Một cỗ nhung y chiến thắng, nên công oanh liệt ngàn năm, Bốn phương biển cả thanh bình, ban chiếu duy tân khắp chốn...
3.Kết bài
- Tư tưởng nhân nghĩa bao trùm và nhất quán trong toàn bộ tác phẩm Bình Ngô đại cáo.
- Bằng ngòi bút chính luận sắc sảo, Nguyễn Trãi đã khẳng định chắc chắn rằng tư tưởng nhân nghĩa chính là cội nguồn của sức mạnhhào hùng, giúp quân dân ta lập nên chiến công vinh quang trong nhiều cuộc chiến tranh ái quòíc. Bình Ngô đại cáo xứng đáng được coi là bản Tuyên ngôn độc lập, áng thiên cổ hùng văn làm rạng danh lịch sử và văn học nước nhà.
BÀI LÀM
Nám 1428, đất nước ta sạch bóng quân Minh xâm lược, Nguyễn Trãi thay lời nhà vua để viết nên Bình Ngô đại cáo đọc trong lễ tuyên bố" kết thúc chiến tranh, nước Đại Việt từ nay bước sang giai đoạn bốn phương biển cả thái bình.
Điều làm nên giá trị nội dung bất hủ của tác phẩm chính là tư tưởng nhân nghĩa truyền thống đã được Nguyễn Trãi đúc kết như một chân lí ngay trong hai câu mở đầu:
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân Quân điếu phạt trước lo trừ bạo
Tư tưởng ấy, chân lí ấy là nền tảng của mọi suy nghĩ, hành động, chiến lược, chiến thuật và quyết tâm chiến đấu, chiến thắng của quân dân ta trong cuộc kháng chiến chống kẻ thù xâm lược phương Bắc. Hơn ai hết, Nguyễn Trãi thấm nhuần quan điểm tiên bộ của Nho giáo, coi dân là gốc (dân vi bản), ý dân là ý Trời. Ông cho rằng, bất cứ triều đại nào muốn tồn tại dài lâu và vững mạnh đều phải dựa vào dân, đặt mục đích yên dân lên hàng đầu bởi dân có yên thì nước mới thịnh.
Từ triết lí nhân nghĩa thủy chung, Nguyễn Trãi đã cụ thể hóa nó một cách rõ ràng và dễ hiểu. Yên dân là mọi đường lối chính sách của triều đình phải phù hợp với ý nguyện của dân, không ngoài việc làm cho dân được sống trong cảnh thanh bình, ấm no, hạnh phúc: để cho chốn hang cùng ngõ vắng không còn tiếng hờn khóc, oán sầu.
Muốn cho nhân dân có được cuộc sông tốt đẹp như vậy thì điều đương nhiên là phải lo trừ bạo, có nghĩa là diệt trừ tất cả các thế lực tham lam, bạo ngược làm tổn hại đến quyền lợi của dân lành. Yên dân, trừ bạo là hai vế có liên quan chặt chẽ với nhau, hỗ trợ cho nhau để tạo nên tính hoàn chỉnh của tư tưởng nhân nghĩa bao trùm và xuyên suốt cuộc kháng chiến giữ nước vĩ đại lúc bấy giờ.
Khi Lê Lợi phất cao cờ khởi nghĩa chống quân xâm lược nhà Minh thì tư tưởng nhân nghĩa đã được biến thành hành động cụ thể và thiết thực là đánh đuổi giặc thù ra khỏi bờ cõi để cứu dân khỏi cơn binh đao, tang tóc. Ông viện dẫn chứng cứ lịch sử để khẳng định rằng những kẻ cố tình đi ngược lại đạo lí nhân nghĩa cuối cùng đều chuốc lấy tai họa:
Lưu Cung tham công nên thất bại Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong.
Gần mười năm qua, quân cuồng Minh đáng khinh bỉ và ghê tởm đã gây ra biết bao tội ác trời không dung, đất không tha trên đất nước này: Nướng dân đen trển ngọn lửa hung tàn Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ.
Dối trời, lừa dân đủ muôn nghìn kế,
Gây binh, kết oán, trải qua hai mươi năm.
Bại nhân nghĩa nát cả đất trời,
Nặng thuế khóa sạch không đầm núi...
Có nghĩa là chúng đã ngạo ngược xúc phạm đến đạo lí nhân nghĩa của đất trời và lòng người. Tội ác của chúng tất cả bị trừng trị đích đáng và đương nhiên là chúng tự chuốc lấy thảm họa vào thân.
Trước những tội ác chồng chất của giặc như vậy, chúng ta chỉ có một con đường là đánh đuổi chúng ra khỏi bờ cõi để trừ bạo, yên dân. Xót xa cho cảnh nước mất nhà tan, Lê Lợi - người anh hùng áo vải đất Lam Sơn đã phất cờ khởi nghĩa:
Trời thử lòng trao cho mệnh lớn,
Ta gắng chí khắc phục gian Han.
Nhân dân bốn cõi một nhà, dựng cần trúc ngọn cờ phấp phới, Tướng sĩ một lòng phụ tử, hòa nước sông chén rượu ngọt ngào. Sức mạnh của cuộc kháng chiến chống quân Minh được nhân lên gấp bội bởi tính chất chính nghĩa và mục đích cao cả của nó: Đem đại nghĩa để thắng hung tàn, Lấy chí nhân để thay cường bạo. Tinh thần đoàn kết son sắt tạo ra những chiến lược, chiến thuật thần kì: lấy yếu chống mạnh, lấy ít địch nhiều, xoay chuyển tình thế từ bị động sang chủ động tiến công như vũ bão, giáng trả quân thù những đòn sấm vang chớp giật, trúc chẻ tro bay, lập nên chiến công hiển hách:
Sĩ khí đã hăng, quân thanh càng mạnh.
Thừa thắng ruổi dài, Tây Kinh quân ta chiếm lại,
Tuyển binh tiến đánh, Đông Đô đất cũ thu về...
Quân thù bị đẩy vào tình thế khốn đôn, cùng đường:
Ninh Kiều máu chảy thành sông, tanh trôi vạn dặm Tốt Động thây chất đầy nội, nhơ để ngàn năm...
Bó tay để đợi bại vong, giặc đã sức cùng lực kiệt...
Cứu binh hai đạo tan tành, quay gót chẳng kịp...
Quân giặc các thành khốn đốn, cởi giáp ra hàng Tướng giặc bị cầm tù như hổ đói vẫy đuôi xin cứu mạng.
Liệt kê những chiến công vang dội liên tiếp của quân dân ta cũng như tô đậm tư thế đê hèn của quân xâm lược lúc thảm bại bằng giọng văn hào hùng sảng khoái, Nguyễn Trãi vẫn nhằm mục đích khẳng định hùng hồn sức mạnh vô địch của tư tưởng nhân nghĩa và truyền thống nhân nghĩa tốt đẹp của dân tộc Việt. Thực tế đã chứng minh điều đó bằng thắng lợi vẻ vang của cuộc kháng chiến chống quân Minh xâm lược.
Kết thúc bài cáo là khúc khải hoàn ca của tư tưởng Đem đại nghĩa để thắng hung tàn, Lấy chí nhân để thay cường bạo. Một lần nữa, dân tộc Việt ngẩng cao đầu chiến thắng, rộng lòng tha chết cho những kẻ bạo nghịch đã quỳ gối đầu hàng: Thần vũ chẳng giết hại, thể lòng trời ta mở đường hiếu sinh. Lại cliu cấp cho chúng nào thuyền, nào ngựa để trở về cố quốc. Cái uy, cái dũng, cái nhân trong đạo lí truyền thống nhân nghĩa Việt Nam một lần nữa khiến kẻ thù khiếp sự: ra đến bể mà vẫn hồn bay phách lạc, về đến nước mà vẫn tim đập chân run.
Lời tuyên cáo của vua Lê vẫn sang sảng vang mãi ngàn năm trên đất nước này:
Xã tắc từ đây vững bển,
Giang sơn từ đây đổi mới.
Kiền khôn bĩ mà lại thải.
Nhật nguyệt hối rồi lại minh.
Muôn thuở nền thái bình vững chắc,
Ngàn thu vết nhục nhã sạch làu.
Ẩu cũng nhớ trời đất tổ tông khôn thiêng ngầm giúp đỡ mới được như vậy.
Than ôi:
Một cỗ nhung y chiến thắng, nên công oanh liệt ngàn năm,
Bốn phương biển cả thanh bình, ban chiếu duy tân khắp chốn.
Xa gần bá cáo,
Ai nấy đều hay.
Chiến công oanh liệt của cuộc chiến tranh giữ nước vĩ đại chống quân xâm lược nhà Minh đã tô đậm thêm lịch sử vẻ vang của dân tộc và cũng là dẫn chứng hùng hồn chứng minh cho sức mạnh vồ biên của tư tưởng nhân nghĩa Việt Nam.
Với ngòi bút chính luận sắc sảo tuyệt vời cùng tài năng sử dụng ngôn ngữ linh hoạt, hình ảnh sinh dộng, giàu sức biểu cảm, Nguyễn Trãi đã viết nên một áng thiên cổ hùng văn có một không hai trong lịch sử văn học nước nhà. Thông qua bài Bình Ngô đại cáo, Nguyễn Trãi khẳng định chắc chắn rằng tư tưởng nhân nghĩa chính là cội nguồn hiển hách trong lịch sử giữ nước suốt mấy ngàn năm.