Phân tích tâm trạng nhân vật bù cụ Tứ trong truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân.
Đoạn kết còn thể hiện tư tưởng nhân đạo mới - nhân đạo cộng sản chủ nghĩa. Tư tưởng này không chỉ có thương xót, cảm thông với nạn nhân của chế độ xã hội, mà còn hướng tới việc để cho nạn nhân đấu tranh tự giải phóng mình. Đó cũng là quan điểm của phương pháp sáng tác hiện thực xã hội chủ nghĩa ...
Đoạn kết còn thể hiện tư tưởng nhân đạo mới - nhân đạo cộng sản chủ nghĩa. Tư tưởng này không chỉ có thương xót, cảm thông với nạn nhân của chế độ xã hội, mà còn hướng tới việc để cho nạn nhân đấu tranh tự giải phóng mình. Đó cũng là quan điểm của phương pháp sáng tác hiện thực xã hội chủ nghĩa (truyện được hoàn thành từ năm 1955, phân biệt với các tác phẩm hiện thực phê phán), theo đó các nhân vật, tính cách, hoàn cảnh... đều trong xu thế vận động đi lên, một sự vận động hướng tới tương lai ...
Phân tích ý nghĩa của đoạn kết truyện Vợ nhặt.
Gợi ý:
- Đoạn kết là diễn biến tất yếu của mâu thuẫn nội tại của câu chuyện: người dân đang bị lâm vào cảnh chết đói còn nghe tiếng trống thúc thu thuế của chính quyền. Vì vậy, nhân vật như Tràng đã nghĩ đến lá cờ Việt Minh.
- Đoạn kết còn thể hiện tư tưởng nhân đạo mới - nhân đạo cộng sản chủ nghĩa. Tư tưởng này không chỉ có thương xót, cảm thông với nạn nhân của chế độ xã hội, mà còn hướng tới việc để cho nạn nhân đấu tranh tự giải phóng mình. Đó cũng là quan điểm của phương pháp sáng tác hiện thực xã hội chủ nghĩa (truyện được hoàn thành từ năm 1955, phân biệt với các tác phẩm hiện thực phê phán), theo đó các nhân vật, tính cách, hoàn cảnh... đều trong xu thế vận động đi lên, một sự vận động hướng tới tương lai tươi sáng hơn.
Dựa vào nội dung truyện, hãy giải thích nhan đề Vợ nhặt Qua tình huống trong truyện, anh/ chị hiểu gì về tình cảnh và thân phận của người nông dân nghèo trong nạn đói 1945?
Gợi ý:
a) Nhan đề Vợ nhặt có nghĩa là “nhặt được vợ” (không phải cưới hỏi theo phong tục).
b) “Nhặt vợ” là “nhặt” được hạnh phúc, nhưng khi nó không còn là hạnh phúc nữa mà trở thành cái khốn cùng của cuộc sống.
c) Cái đói quay quắt dồn đuổi đến mức người đàn bà chủ động gợi ý đòi ăn. Chỉ vì đói quá mà người đàn bà tội nghiệp này ăn luôn và “ăn liền một chặp bốn bát bánh đúc”. Chỉ cần vài lời nửa đùa nửa thật chị đã chấp nhận theo không Tràng. Giá trị con người bị phủ nhận khi chỉ vì cùng đường đói khát mà phải trở nên trơ trẽn, liều lĩnh, bất chấp cả thẹn. Cái đói đã bóp méo cả nhân cách con người.
d) Nhan đề truyện phản ánh thân phận con người bị rẻ rúng như rơm rác, có thểnhặt ở bất kì đâu, bất kì lúc nào. Người ta hỏi vợ, cưới vợ, còn ở đây Tràng “nhặt” được vợ. Đó thực chất là sự khốn cùng của hoàn cảnh.
Tình huống éo le nên đã mở đầu cho sự diễn biến tâm trạng và hành động các nhân vật trong tác phẩm, nhất là tâm trạng bà cụ Tứ - mẹ Tràng: bà vừa ngạc nhiên, vừa xót thương: mừng, tủi, lo và hi vọng...
Phân tích tâm trạng buồn vui lẫn lộn của bà cụ Tứ (Vợ nhặt), qua đó anh chị hiểu gì về tấm lòng của bà mẹ nông dân này?
Gợi ý:
- Tâm trạng bà cụ Tứ, mừng, vui, xót, tủi. “Vừa ai oán, xừa xót thương cho số kiếp đứa con mình”. Đối với người đàn bà thì “lòng bà đầy xót thương”. Nén vào lòng tất cả, bà đang dang tay đón người đàn bà xa lạ làm con dâu mình: “ừ, thôi thì các con phải duyên, phải kiếp với nhau, u cũng mừng lòng”.
- Bữa cơm đầu tiên đón nàng dâu mới, bà cụ Tứ đã nhen nhóm cho các con niềm tin, niềm hi vọng “Khi nào có tiền ta mua lấy đôi gà về nuôi chả mấy mà có ngay đàn gà cho xem”.
- Bà cụ Tứ là hiện thân của nỗi khổ cuộc sống. Người mẹ ấy đã nhìn cuộc hôn nhân éo le của con thông qua toàn bộ nỗi đau khổ của cuộc đời bà. Bà lo lắng trước thực tế quá nghiệt ngã. Bà mừng một nỗi mừng xót xa. Từ ngạc nhiên đến xót thương, nhưng trên hết vẫn là tình yêu thương. Cũngchính bà cụ là người nói nhiều nhất về tương lai rất cụ thể thiết thực với những gà, lợn, ruộng, vườn... Một tương lai khiến các con tin tưởng bởi nó không quá xa vời. Kim Lân đã khám phá ra một nét độc đáo khi đểcho một bà cụ cập kề miệng lỗ nói nhiều với đôi trẻ về ngày mai.
Anh /chị hãy nhận xét về nghệ thuật viết truyện của Kim Lân (cách kể chuyện, cách dựng cảnh, đối thoại, nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật, ngôn ngữ.. ).
Gợi ý:
- Cách kể chuyện tự nhiên, lôi cuốn, hấp dẫn.
- Dựng cảnh chân thật, gây ấn tượng: cảnh chết đói, cảnh bữa cơm ngày đói.
- Miêu tả tâm lí nhân vật tinh tế, tự nhiên, chân thật.
- Ngôn ngữ nhân vật phù hợp với tính cách và thực tế đời sống.
Dựa vào mạch truyện, có thể chia tác phẩm Vợ nhặt thành mấy đoạn? Ý chính của mỗi đoạn? Mạch truyện đã được dan dắt như thế nào?
Gợi ý:
a) Tác phẩm có thể được chia thành bốn đoạn:
- Đoạn 1: Từ đầu đến “tự đắc với mình”: Tràng cùng người đàn bà về làng, tâm trạng tự đắc phởn phơ của Tràng và sự ngạc nhiên hài hước của xóm ngụ cư.
- Đoạn 2: Tiếp đến “rồi cùng đẩy xe bò về”; kể lại chuyện làm quen và “nhặt” được vợ của Tràng. Người đàn bà vì đói khát đã quên sĩ diện mà theo Tràng.
- Đoạn 3: Tiếp đến “len vào tâm trí mọi người”: cảnh sống trong gia đình Tràng sau khi Tràng có vợ: tâm trạng vừa mừng, vừa tủi, vừa lo của bà cụ Tứ, hành động, lời nói của bà nhằm động viên các con và động viên chính mình, nhưng vẫn không lấp được nỗi lo khôn xiết; hạnh phúc vợ chồng Tràng diễn ra trong hoàn cảnh cháo cám chát đắng và tiếng khóc hờ của những nhà hàng xóm có người chết đói...).
- Đoạn 4: từ “Ngoài đình bồng dội lên một hồi trống” đến hết: kết thúc thiên truyện: cảnh thúc thuế trong làng và ý tưởng đi theo Việt Minh của nhân vật Tràng.
b) Mạch truyện đã được dẫn dắt một cách tự nhiên, hợp lôgic và gắn với truyện truyền thống (chủ yểu theo thời gian tuyến tính): tuy nhiên sự hấp dẫn nằm trong nghịch lí mang tính hài hước của truyện kể: giữa ngày đói kém, một anh cu Tràng “quá lứa”, “dở hơi” đưa một người đàn bà “rẻ rúng” về làm vợ.
Mạch truyện bắt đầu từ đó: sự kiện khôi hài này tất yếu gây ra những lời bàn tán hài hước và xót xa; rồi màn bi - hài kịch diễn ra trong nhà cụ Tử. Cuối cùng tác giả đã tìm được lối thoát cho truyện: giữa những âm thanh của tiếng trống thúc thuế, dồn người ta đến bước đường cùng, hình ảnh lá cờ Việt Minh và đoàn người phá kho thóc của Nhật trong câu chuyện mơ hồ và xa xôi (Nghe đâu tận Thái Nguyên, Bẳc Giang) xuất hiện và ám ảnh trong đầu óc của Tràng.
Dàn ý tham khảo
1. Mở bài
- Vợ nhặt là tác phẩm xuất sắc của Kim Lân, viết về cuộc sống ngột ngạt của nhân dân ta mà tiêu biểu là gia đình bà cụ Tứ trong nạn đói khủng khiếp năm 1945. Ngòi bút nhân đạo của Kim Lân vừa thể hiện ở sự phát hiện khẳng định vẻ đẹp tinh thần ẩn giấu sau cái bề ngoài xác xơ vì đói khổ của nhân vật.
- Trong ba nhân vật của truyện (bà cụ Tứ, Tràng và người đàn bà vợ Tràng), bà cụ Tứ, mẹ Tràng, là nhân vật có tâm trạng phức tạp mà nhân hậu vô cùng đã thể hiện nổi bật nội dung nhân đạo sâu sắc, cảm động trong tác phẩm. Ngòi bút tài hoa của Kim Lân đã diễn tả rất thành công trạng thái tâm lí đó.
2. Thân bài
a) Sự ngạc nhiên đến sững sờ
- Tình huống đặc biệt làm cho bà cụ Tứ ngạc nhiên, ấy là việc con trai mình đã lấy vợ. Bà cụ ngạc nhiên vì con mình nghèo, xấu xí, dân ngụ cư lại đang thời buổi đói khát, nuôi thân chẳng xong. Tràng còn dám lấy vợ, rước thêm miệng ăn.
- Khi bà cụ đi làm về muộn, thấy người đàn bà ngồi ở đầu giường con mình bà rất ngạc nhiên, càng ngạc nhiên hơn khi được người đàn bà chào bằng u và được Tràng giới thiệu: “Kìa nhà tôi nó chào u”... “Nhà tôi nó mới về làm bạn với tôi đấy u ạ”. Bà ngạc nhiên đến mức không còn tin được vào mắt và tai mình nữa: “Bà lão hấp háy cặp mắt... Bà lão quay sang nhìn con tỏý không hiểu”.
b) Vừa mùng vừa tủi
- Khi đã vỡ lẽ, đã hiểu ra con mình “nhặt” được vợ, bà “cúi đầu nín lặng”. Bà liên tưởng đến bao cơ sự “oái ăm” “ai oán” “xót thương” cho số kiếp của đứa con mình. Bà liên tưởng đến người chồng quá cố, đến đứa con gái đã qua đời, lòng bà trĩu nặng tủi buồn, xót xa.
- Bà cụ Tứ mừng cho con từ nay yên bề gia thất, tủi thân làm mẹ không lo nổi vợ cho con. Giờ đây giữa lúc người chết đói “như ngả rạ” lại có người theo con trai bà về làm vợ. Cái tủi, cái buồn của người mẹ bị dồn vào cảnh nghèo cùng quẩn. Biết lấy gì để cúng tổ tiên, để trình làng khi con đã có vợ. Bà cụ Tứ khóc vì mừng con có vợ, khóc vì thương con dâu không biết làm sao vượt qua nỗi khó khăn này.
“Trong kẽ mắt kèm nhèm của bà rỉ xuống hai dòng nước mắt”. “Chúng mày lấy nhau lúc này, u thương quá!...” “ừ thôi thì các con đã phải duyên phải kiếp với nhau, u cũng mừng lòng...”. “Con ngồi xuống đây. Ngồi xuống đây cho đỡ mỏi chân”. Bao nhiêu tình yêu thương chân thành tha thiết của người mẹ thể hiện trong những lòi giản dị mộc mạc ấy.
- Bà cụ xót xa thương dâu, thương con, tủi phận mình: “bà cụ nghẹn lời không nói được nữa, nước mắt cứ chảy xuống ròng ròng”. Bao nhiêu lo lắng ngổn ngang trong lòng.
c) Nỗi lo
- Bà cụ Tứ lo láng thực sự cho con trai, con dâu, lo cho cái gia đình nghèo túng của bà, giữa lúc đói kém này liệu có nuôi nối nhau? Tương lai rồi sẽ ra sao.
- Bà chấp nhận cái “hạnh phúc” oái oăm éo le của gia đình. Ngẫm cái phận nghèo bà tự nhủ: “Có gặp bước khó khăn, đói khổ này người ta mới lấy đến con mình. Mà con mình mới có vợ được...”. Bà chỉ biết khuyên con, khuyên dâu thương yêu nhau, ăn ở hoà thuận với nhau để cùng vượt qua cơn khốn khó. Đó là nỗi lo, nỗi thương của người mẹ từng trải, hiểu đời có tấm lòng sâu thẳm đối với con mình. Trong sự lo lắng tủi hờn vẫn nhen nhóm một niềm tin.
d) Niềm tin
d1. Trong cái mùng, cái tủi, cái lo, người đọc vẫn thấy được niềm vui củabà cụ. Một niềm vui tội nghiệp không sao cất cánh lên được, cứ bị cái buồn, cái lo níu kéo xuống. Nhưng bà cụ Tứ cố vui và gắng làm cho con, cho dâu vui.
- Vui trong ý nghĩ tốt đẹp về tương lai: “Rồi ra may mà ông giời cho khá” ai giàu ba họ ai khó ba đời. Có ra thì con cái chúng mày về sau. Bà cụ “nói toàn chuyện vui, toàn chuyện sung sướng sau này”.
- Vui trong công việc sửa sang vườn tược, nhà cửa. Bà cụ làm cỏcho sạch vườn. “Cái mặt bủng beo u ám của bà rạng rỡ hẳn lên. Bà lão xăm xăm thu dọn, quét tước nhà cửa”.
- Vui trong bữa cơm sáng, bữa cơm đầu tiên có con dâu đó là một bữa “tiệc” với món cháo loãng và món “chè khoán” đắng chát - một bữa ăn ngày đói rất thảm hại nhưng bà cụ cố tạo ra niềm vui để động viên an ủi con trai, con dâu.
d2. Mặc dù cuộc sống khắc nghiệt, ngặt nghèo đến tàn bạo đã đầy đoạ mẹ con bà. Bà vẫn cố tạo không khí hoà thuận ấm cúng trong gia đình và kể chuyện làm ăn, nuôi gà... tươi cười đon đả múc cho con dâu những bát cháo cám.
Tuy nhiên cái vui ấy, dù là rất nhỏ bé mà vẫn mong manh, vẫn chìm đi trong cái tăm tối hiện tại: Tiếng khóc, mùi đốt đống ram ở những nhà có người chết đói. Bà cụ nghĩ đến ông lão, đến đứa con út, đến cuộc đời cực khổ dài dằng dặc của mình, đến cái “đói to” trước mắt. Bà cụ phấp phỏng nghĩ về con trai, về con dâu.
Nhân vật bà cụ Tứ mang nét đạo lí truyền thống:
Trong cái thân hình khẳng khiu, tàn tạ, với “cái mặt bủng beo, u tối” bà vẫn nung nấu một ý chí sống mãnh liệt. Bà là hiện thân của những người mẹ nghèo khổ mà từng trải, hiểu biết: hết lòng thương yêu con, yêu thương những cảnh đời tội nghịêp, oái oăm. Bà nung nấu một khát vọng về cuộc sống gia đình hạnh phúc.
3) Kết bài
Qua nhân vật bà cụ Tứ, với những diễn biến tâm trạng phức tạp - dưới ngòi bút nhân đạo của Kim Lân - nội dung nhân đạo sâu sắc, cảm động của “Vợ nhặt” đã động chạm đến nơi sâu thẳm nhất của lòng người, bắt độc giả phải khóc, phải cười, phải sống cùng nhân vật của mình.