Phân tích tác phẩm Vào nhà ngục Quảng Đông cảm tác – Văn hay lớp 8
Phân tích tác phẩm Vào nhà ngục Quảng Đông cảm tác – Văn hay lớp 8 Phân tích tác phẩm Vào nhà ngục Quảng Đông cảm tác – Bài làm số 1 của một bạn học sinh giỏi văn tỉnh Thái Bình Cuối thế kỷ XIX, khi các phong trào đấu tranh chống Pháp lần lượt bị thất bại, đất nước chìm ngập trong ...
Phân tích tác phẩm Vào nhà ngục Quảng Đông cảm tác – Văn hay lớp 8
Phân tích tác phẩm Vào nhà ngục Quảng Đông cảm tác – Bài làm số 1 của một bạn học sinh giỏi văn tỉnh Thái Bình
Cuối thế kỷ XIX, khi các phong trào đấu tranh chống Pháp lần lượt bị thất bại, đất nước chìm ngập trong đau thương. Bước sang đầu thế kỷ XX, hưởng ứng luồng gió mới từ phương Tây thổi tới, những con người yêu nước, quyết chí dành tự do cho dân tộc lại náo nức bước vào một cuộc đấu tranh mới, theo khuynh hướng dân chủ tư sản.
Phan Bội Châu xuất thân nho học song lại là người sớm có tinh thần tiên tiến, bắt nhịp với thời đại mới. Cái chí khí "phú quý bất năng dâm, bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất" (giàu sang không thể làm cho mê đắm, nghèo khó không thể làm cho thay lòng đổi dạ, uy vũ không thể làm cho khuất phục) của một nho gia đã biến thành bản lĩnh vững vàng, thành cốt cách anh hùng trước cơn tai biến nguy nan của một chí sĩ cách mạng. Ngày 19-1-1914, Phan Bội Châu bị bắt giam vào ngục Quảng Đông. Trước đó, thực dân Pháp đã kết án tử hình vắng mặt đối với ông. Bài thơ Cảm tác vào nhà ngục Quảng Đông nằm trong Ngục trung thư – một huyết tâm thư tuyệt mệnh. Ngay từ đêm đầu tiên vào ngục Phan đã làm hai bài thơ Nôm (Cảm tác vào nhà ngục Quảng Đông là một trong hai bài ấy): "Làm xong hai bài thơ tôi ngâm nga lớn tiếng rồi cả cười, vang động cả bốn vành, hầu như không biết thân mình đang bị nhốt trong ngục". Xem ra, tù ngục cũng chẳng mảy may khiến bậc trượng phu nao núng.
Đây là bài thơ thất ngôn bát cú Đường luật. Hai câu vào bài thể hiện ngay khẩu khí của bậc anh hùng:
"Vẫn là hào kiệt, vẫn phong lưu
Chạy mỏi chân thì hãy ở tù".
Nhân vật trữ tình hiện ra với một phong thái đường hoàng, tự tin đến ngang tàng, ngạo mạn. Giọng đùa vui, tự trào làm tan biến đi cảm giác của một người tù, chỉ thấy một tư thế cao ngạo, xem thường hiểm nguy, cổ nhân nói: Trí hơn vạn người gọi là "anh", trí hơn nghìn người gọi là "tuấn", trí hơn trăm người gọi là "hào", trí hơn mười người gọi là "kiệt". Kẻ tài trí hơn người, phong thái ung dung, đường hoàng (phong lưu) đang ngân nga tỏ chí. Hai từ vẫn trong câu thơ đầu mang đậm tính khẩu ngữ. Một sự việc nghiêm trọng (tù) được nói đến bằng một thái độ cười, cợt, xem thường. Bị giam hãm trong tù ngục (lại là tử tù!) mà cứ như khách tài tử tạm dừng chân trên chặng đường dài dặc. Hoàn cảnh dù có đổi thay, tai biến có thể đến bất cứ lúc hào nhưng chí khí thì chẳng khi nào dời đổi.
Hai câu tiếp, giọng thơ chợt chuyển:
Đã khách không nhà trong bốn biển,
Lại người có tội giữa năm châu
Tác giả tự nghiệm về thân thế của mình. Một cuộc đời bôn ba đầy sóng gió. Phan Bội Châu từng phiêu bạt khắp nơi (khi Trung Quốc, khi thì Nhật Bàn, Thái Lan). Trên hành trình lưu lạc ấy ông đã phải trải qua biết bao cay đắng, cực khổ.
Chỉ vì hết lòng muốn tìm đường cứu nước, chỉ vì yêu đất nước, dân tộc mình mà người chí sĩ bị xem như một tội nhân, bị truy nã khắp nơi. Phiêu bạt, lênh đênh, chẳng được yên ổn bao giờ, con người ấy cất tiếng than cho mình cũng là đau cho nỗi đau chung của một đất nước đang mất chủ quyền. Tiếng thở dài ấy là của bậc anh hùng. Cái buồn ấy là cái buồn của một người tù yêu nước, của một nhân cách phi thường. Một phút ngẫm ngợi về mình để rồi lại sang sảng ca lên âm giai lãng mạn:
Bủa tay ôm chặt bồ kinh tế
Mở miệng cười tan cuộc oán thù.
Kinh tế – kinh bang tế thế, người chí sĩ chẳng lúc nào thôi ôm ấp hoài bão trị nước cứu đời. Đây là con đường Phan đã chọn, nguyện dấn thân, vẫn là cái khẩu khí hơn người, tiếng "cười" của một người tù sao mà khoáng đạt đến thế. Đến độ ta chỉ còn thấy âm hưởng hào hùng bao trùm tất cả, lấn át tất cả như cánh buồm thênh thênh lướt sóng đại dương. Lối nói khoa trương đã được sử dụng để biểu đạt cái chí lớn lao, khát vọng xoay chuyển càn khôn. Như trong bài thơ Chơi xuân, Phan viết:
Phùng xuân hội, may ra, ừ cũng dễ,
Nắm địa cầu vừa một tí con con.
Đạp toang hai cánh càn khôn,
Đem xuân vẽ lại trong non nước nhà…
Hai liên giữa câu 3 – 4 và câu 5-6 của bài thơ Cảm tác vào nhà ngục Quảng Đông đã tuân thủ khuôn mẫu của một bài thơ thất ngôn bát cú luật Đường trong đối ý, đối lời. Sự đăng đối, hài hòa ở những câu thơ này góp phần tạo ra ấn tượng về cái vững vàng. Các cặp từ đối: bốn biển – năm châu, bủa tay – mở miệng, bồ kinh tế – cuộc oán thù khiến cho tầm vóc của người chi sĩ trở nên phi thường phù hợp với âm hưởng chủ đạo của bài thơ.
Bản lĩnh và tư thế khác người của người anh hùng yêu nước được khẳng định dứt khoát trong hai câu thơ kết bài:
Thân ấy hãy còn, còn sự nghiệp,
Bao nhiêu nguy hiểm sợ gì đâu!
Con người ấy còn sống là còn tranh đấu đến cùng cho lý tưởng chính nghĩa của mình. Hai chữ còn ngắt ra, điệp lại càng tăng thêm sắc thái mạnh mẽ, dứt khoát cho câu thơ. Ý chí thép sẽ chiến thắng hiểm nguy.
Cả bài thơ toát lên một tinh thần bất khuất, một tư thế vững vàng của bậc trượng phu trong cơn sóng gió. Truyền thống yêu nước, chí khí anh dũng của dân tộc đang tiếp tục mạch chảy bất tận trong tâm huyết chí sĩ Phan Bội Châu. Hình ảnh người anh hùng đã tạc vào lịch sử như một minh chứng cho tinh thần yêu nước, xả thân vì lý tưởng chính nghĩa.
Phân tích tác phẩm Vào nhà ngục Quảng Đông cảm tác – Bài làm số 2
Phan Bội Châu (1867-1940) biệt hiệu là Sào Nam. quê ở Nam Đàn, Nghệ An. Ông là chiến sĩ cách mạng vĩ đại của dân tộc ta trong hơn hai mươi năm đầu của thế kỉ XX. Ông còn là một nhà thơ. nhà văn lớn để lại nhiều kiệt tác chứa chan tinh thần yêu nước chống xâm lăng. Ông sáng tác nhiều tác phẩm bằng chữ Hán, chữ Nôm, chữ Quốc ngữ gồm có: “Hải ngoại huyết thư”, “Ngục trung thư”. “Phan Bội Châu niên biên”, “Trùng quang tám sử”. “Việt Nam vong quốc sử”…
Năm 1913. Chính quyền Quảng Đông, Trung Quốc đã bắt giam Phan Bội Châu. Với cuộc mua bán chính trị bẩn thỉu này, chúng định trao nhà cách mạng Việt Nam cho thực dân Pháp, trong khi tòa án Pháp ở Đông Dương đã kết án tử hình vắng mặt Phan Bội Châu.
“Cảm tác vào nhà ngục Quảng Đông” là chùm thơ hai bài, đây là bài thơ thứ nhất được Phan Bội Châu viết trong ngày đầu bị bắt giam.
Bài thơ thể hiện khí phách hiên ngang, bất khuất và phong thái ung dung của người chiến sĩ yêu nước cách mạng trước cảnh tù đày, nguy hiểm.
1. Hai câu đề nói lên một tâm thế đẹp của người chiến sĩ cách mạng: “Vẫn là hào kiệt, vẫn phong lưu. Chạy mỏi chân thì hãy ở tù”. Điệp từ “vẫn” làm cho ý thơ được khẳng định, biểu lộ lòng tự hào về nhân cách cao đẹp: hào kiệt, phong lưu. Một con người có tài cao, chí lớn trong mưu đồ đại sự cứu nước, cứu dân. Một nhà nho trang nhã, ung dung đàng hoàng. “Chạy mỏi chân ” là cách nói hóm hỉnh về sự hoạt động sôi nổi của Phan Bội Châu lúc ở Nhật, lúc sang Thái Lan, lúc ở Trung Quốc. Bốn tiếng “Thì hãy ở tù” vừa là chấp nhận cảnh ngộ tù đày, vừa là một sự thách đố, thể hiện một thái độ rất bình tĩnh, rất chủ động trước tai ương hoạn nạn.
2. Hai câu thực nói về cuộc đời người chiến sĩ cách mạng: phải xa gia đình, quê hương đất nước, bôn ba hải ngoại, phải nếm trải mọi thử thách gian truân, chịu cảnh tù tội. “Hai mươi năm lẻ ” (Bài ca chúc tết thanh niên). “Khách không nhà” đối với “người có tội” (bị tù), “bốn bể” đối với “năm châu” – ngôn ngữ thơ cân xứng, thể hiện một tâm hồn cao đẹp, giàu đức hi sinh, một chí lớn tung hoành mang ầm vóc lớn lao được đo bằng “năm châu” và “bốn bể”. Giọng thơ thanh thoát phơi phới:
” Đây khách không nhà trong bốn biển,
Lại người có tội giữa năm châu. ”
Sau này, trong bài thơ “Từ giã bạn bè lần cuối cùng” viết năm 1940 trước lúc qua đời, ý thơ trên được tác giả nhắc lại:
“Những ước anh em đầy bốn biển,
Nào ngờ trăng gió nhốt ba gian”
3. Luận: Hai câu 5, 6 đối nhau, ngôn ngữ trang trọng diễn tả một chí khí hiên ngang, một chí lớn phi thường của người anh hùng muốn làm nên sự nghiệp vĩ đại. Thơ mang cốt cách anh hùng:
“Bủa tay ôm chặt bồ kinh tế,
Mở miệng cười tan cuộc oán thù.” Bủa tay”, “Ôm chặt” nói lên một tư thế hào hùng, một quyết tâm không gì lay chuyên nối, một lí tưởng sáng ngời: Giúp đời cứu nước! “Cuộc oán thù” là cuộc chiến đấu chống thực dân Pháp và bè lũ tay sai bán nước. Hai chữ “cười tan” thể hiện một ý chí, nung nấu căm thù. Giọng thơ hào hùng, thủ pháp nghệ thuật được sử dụng đặc sắc: Hình ảnh thâm xưng kì vĩ, các động từ gợi tả mạnh mẽ (ôm chặt, cười tan) đã dựng nên hình ảnh một đấng nam nhi, một trang anh hùng, một bậc trượng phu, hào kiệt,… trong tù đày vẫn lạc quan, bất khuất, ngạo nghễ.
4. Hai câu kết khẳng định một niềm tin chói sáng qua 2 vé tiếu đối: “Thân ấy hãy còn còn sự nghiệp”. Chữ “còn” được điệp lại 2 lần làm cho ý thơ được nhấn mạnh: Con đường cách mạng cứu nước, cứu dân là con đường vinh quang sáng ngời chính nghĩa. Con đường chiến đấu vì chính nghĩa đang mở rộng ở phía trước. Câu thơ thứ 8 nói lên một chấp nhận, một thách thức, một tinh thần coi thường những nguy hiểm, gian truân:
“Thân ấy vẫn còn còn sự nghiệp,
Bao nhiêu nguy hiểm sợ gì đâu.”
Vần thơ mang tính hướng nội vang lên như một lời động viên khích lệ mình. Nó biểu hiện một dũng khí hiên ngang của người chiến sĩ cách mạng vĩ đại. Đó là niềm tự tin, lạc quan, bất khuất, tự làm chủ hoàn cảnh, mang cốt cách “hào kiệt, phong lưu”.
Đây là bài thơ viết theo thể thơ Đường luật, thất ngôn bát cú. Giọng điệu hào hùng mạnh mẽ. Cảm hứng anh hùng dào dạt bài thơ. Bút pháp khoa trương, lối đối và sử dụng điệp ngữ rất đặc sắc đã làm hiện lên cốt cách của “Bậc anh hùng, vị thiên sứ, sẵn sàng xả thân vì độc lập, được hai mươi triệu con người trong vòng nô lệ tôn sùng” (Nguyễn Ái Quốc). “Cảm tác vào nhà ngục Quảng Đông” của Phan Bội Châu là bài ca yêu nước, bài ca tự do.
Phân tích tác phẩm Vào nhà ngục Quảng Đông cảm tác – Bài làm số 3
Bài thơ Cảm tác vào nhà ngục Quảng Đông nói về ý chí kiên cường, với phong thái dung dung và hào hùng vượt lên cảnh ngục tù khốc liệt để an ủi mình giữ vững lí tưởng, niềm tin và khát vọng cứu nước cứu dân của cụ Phan Bội Châu trong những này bị chính quyền Trung Quốc bắt giữ.
Hai câu 1, 2 là hai câu đề: Giới thiệu vấn đề cần nói tới.
“Vẫn là hào kiệt vẫn phong lưu
Chạy mỏi chân thì hãy ở tù".
Cách vào đề rất khéo. Ở đây nhà thơ muốn nói tới hoàn cảnh mình bị bắt giam. Ý của hai câu có thể diễn đạt lại: Vào tù mình vẫn giữ được tài trí và cách sống của mình: là người có tài cao, chí lớn khác thường (hào kiệt), là người luôn giữ dáng vẻ lịch sự, trang nhã (phong lưu). Mình ở tù không phải do bị bắt mà vì chạy mỏi chân (tức hoạt động cách mạng đã nhiều), tạm thời nghỉ ở đây.
Tác giả có nói đến việc bị bắt vào nhà tù nhưng không nhấn mạnh khía cảnh rủi ro, đau khổ hoặc âu lo, khiếp sợ. Ngược lại, nhà thơ coi việc đó chẳng có gì khủng khiếp, đáng buồn, đó chỉ là những giây phút nghỉ ngơi sau những ngày hoạt động sôi nổi. Mặc dầu trong hồi tưởng cụ viết: "Thật từ lúc cha sanh mẹ để đến nay, chưa lúc nào nếm mùi thất bại chua xót như bây giờ".
Giọng điệu thản nhiên pha chút đùa vui ở hai câu đầu đã được thể hiện ngay từ cách dùng điệp từ « vẫn" đi liền với hai tính từ thể hiện phẩm chất trước sau như một của nhà cách mạng (hào kiệt, phong lưu). Nó trở thành cái cười tủm tỉm khi nhà thơ hạ ở cuối câu thứ hai cụm từ « thì hãy ở tù", biến sự việc bị động, mất tự do thành việc chủ động do mình muốn thế.
Hai câu 3 -4 là hai câu luận: Trình bày sự việc do phần đề đặt ra.
"Đã khách không nhà trong bốn biển
Lại người có tội giữa năm châu"
Hai câu thơ này khác với giọng điệu cười cợt, vui đùa như hai câu đề. Ở đây như lời tâm sự không phải để than thân mà để nói lên nỗi đau đớn lớn lao trong tâm hồn người anh hùng. Tả người tù mà nói "khách không nhà", "người có tội" với "năm châu" thì thật đúng là cái cười nhạo báng đối với nhà tù của bọn quân phiệt tỉnh Quảng Đông (Trung Quốc).
Chữ "đã", chữ "lại" mở đầu hai câu thực càng nhấn mạnh thêm tình cảnh tù đày của người chiến sí cách mạng. Song gắn "khách không nhà" với "năm châu", nhà thơ như muốn vẽ chân dung một người tù một phong cách phóng kháng hơn. Nghệ thuật đối (trong hai câu 3, 4 là hai câu luận) không làm cho ý thơ đối chọi. Ngược lại, sự đối lập ấy lại càng tôn hơn lên chân dung khác thường của người tù: một con người của năm châu, bốn biển, của toàn thế giới.
Hai câu 5, 6 là hai câu luận: Bàn luận, mở rộng vấn đề.
"Bủa tay ôm chặt bồ kinh tế
Mở miệng cười tan cuộc oán thù".
Ở đây tác giả khẳng định: chí lớn tài cao của người chiến sĩ cách mạng không cảnh tù đày nào có thể đè bẹp. Lối nói khoa trương ở đây thể hiện sự lãng mạn, anh hùng ca, khiến cho con người không còn nhỏ bé nữa mà có tầm vóc lớn lao như thần thánh. Tuy bị bắt nhưng người tù vẫn "dang tay", "mở miệng" thể hiện thái độ coi thường, coi khinh mọi khó khăn trước mắt.
Hai câu 7 – 8 là hai câu kết: Nâng cao vấn đề hoặc bày tỏ cảm xúc của tác giả.
"Thân ấy vẫn còn, còn sự nghiệp
Bao nhiêu nguy hiểm sợ gì đâu".
Trong bài thơ này, hai câu kết khẳng định dứt khoát niềm tin của nhà thơ vào tương lai, thể hiện thái độ coi thường lao tù nguy hiểm.
Hai tiếng "còn" đứng cạnh nhau tạo nên âm điệu khẳng định mạnh mẽ ý chí đấu tranh cho sự nghiệp cứu nước. Em cảm nhận như hai tiếng trống chắc nịch, âm vang kích động lòng người, kết thúc môt bản hùng ca.
Bài thơ Vào nhà ngục Quảng Đông cảm tác của cụ Phan Bội Châu được làm ngay sau khi cụ bị bắt vào nhà ngục Quảng Đông, đã truyền vào tâm hồn chúng ta một niềm tự hào về truyền thống bất khuất, hiên ngang của các nhà cách mạng tiền bối.
Tinh thần của bài thơ thể hiện sự đàng hoàng, hiên ngang, tràn đầy niềm lạc quan cách mạng.
Bài thơ có sức truyền cảm lớn, đã khơi dậy lòng yêu nước, ý chí kiên cường, kích thích người đọc – nhất là thanh niên thời ấy- một tấm lòng yêu nước, thương nòi.
Phân tích tác phẩm Vào nhà ngục Quảng Đông cảm tác – Bài làm số 4
Học Ngữ văn, nhất là đọc – hiểu các văn bản, chúng ta được biết có nhiều loại văn: văn miêu tả, kể chuyện, vãn biểu cảm, trữ tinh. Từ bài mở đầu đến bài 11, sách ngữ văn 8 đã giới thiệu các tác phẩm tự sự đặc sắc như đoạn trích tiểu thuyết Tắt đèn, tiểu thuyết Đôn Ki-hô-tê,… các truyện ngắn Lão Hạc, Cô bé bán diêm, Chiếc lá cuối cùng,… các văn bản thuyết minh, nghị luận,… Trong các loại văn bản ấy, ngoài những sự việc, chi tiết, những trí thức khoa học, những lí lẽ, dẫn chứng, các tác giả đã bộc lộ ít nhiều cảm xúc, lay động tình cảm chúng ta. Bắt đầu từ bài 12, chúng ta được đọc – hiểu và suy ngẫm về một thể loại khác là thơ trữ tình, loại văn bản mà ở đó, người viết trực tiếp bày tỏ những tâm tư, tình cảm về cuộc sống của chính mình, cuộc sống mọi người nói chung. Đicu đặc biệt là những tác phẩm mở đầu dòng vãn biểu cảm này lại là tiếng nói, những tâm tình của một lớp cha ông anh hùng, nghĩa sĩ trong buổi đầu đi tìm dường cứu nước, tuy gặp muôn vàn khó khăn gian khổ vẫn nêu cao phẩm giá làm người. Tiêu biểu cho những áng văn ấy là bài Vào nhà ngục Quảng Đông cảm tác của Phan Bội Châu, được sáng tác năm 1914 khi ông bị bọn quân phiệt tỉnh Ọuảng Đông (Trung Quốc) bắt giam. Ở trong bóng tối ngục tù đầy gian khổ, nhà chí sĩ, vị anh hùng dân tộc họ Phan đã tự hoạ bức chân dung tinh thần của chính mình mà nét vẽ tập trung nổi bạt nhất là câu mở đầu "Vẫn là hào kiệt, vẫn phong lưu…".
Về thể thơ, đấy là một bài thất ngôn bát cú Đường luật viết bằng chữ Nôm gồm tám câu, mỗi câu bảy âm tiết phối hợp thanh điệu, vần điệu, đối câu và bố cục một cách hài hoà. về đề tài, đây là loại thơ khẩu khí được tác giả ứng tác trong giây phút xuất thần ngẫu hứng từ một hoàn cảnh cụ thể. Thơ khẩu khí, còn gọi là thơ tự tình, ngôn hoài, ngôn chí, thuật hoài, hoặc vô đề,… vốn là loại văn chương trữ tình rất phổ biến trong kho tàng văn học dân tộc ta. Điều đặc biệt là, nếu các thi sĩ khác ngẫu hứng, tự tình trước thiên nhiên hùng vĩ, cảnh đời đa đoan – những hoàn cảnh thông thường – thì Phan Bội Châu suy ngẫm, cảm xúc về thân phận đang bị cầm tù của mình. Bị giam hãm, bị tước mất tự do tránh sao khỏi buồn, thậm chí có lúc bi quan, chán nản. Vậy mà, âm điệu chung của bài thơ lại khône phải là ảo não, bi quan. Nói đúng ra, trừ câu hai (có hai tiếng ở tù) và câu cuối (có từ nguy hiềm) vương một chút buồn, còn lại toàn bộ bài thơ hơn năm mươi âm tiết đã vang lên sang sảng, toả sáng một hồn thơ, một nhân cách con người hào hùng, ung dung coi thường gian khổ, vượt lên trên mọi gông cùm xiềng xích. Chính Phan Bội Châu kế rằng: sau khi làm xong bài thơ, ône đã "ngâm nga lớn tiếng rồi cả cười vang động bốn bức vách, hầu như không biết thân mình dang bị nhốt trong ngục". Đúng là như thế, đọc từng câu thơ, chúng ta cảm nhận rõ đây là tư thế hiên ngang, ung dung, tự tại của một đấng anh hùng hào kiệt.
Hai câu đầu gọi là "đề" vào ngay vấn đề cần nói tới:
Vẫn là hào kiệt, vẫn phong lưu,
Chạy mỏi chân thì hãy ở tù.
Đó là một tuyên ngôn khẳng định tư thế làm người của mình. Người "hào kiệt" là người có tài năng, chí khí hơn hẳn người bình thường. "Phong lưu" là dáng vẻ của người trang nhã lịch sự, vừa giàu có vừa sang trọng. Nhận mình là người hào kiệt, phong lưu vì "mỏi chân" nên nghỉ tạm ở nhà tù, cụ Phan quá là một đấng anh hùng. Điệp từ vẫn nhắc lại hai lần dẫn dắt hai danh từ gốc Hán hào kiệt, phong lưu nhấn mạnh bản lĩnh không lay chuyến, trước sau như một của người anh hùng. Nó phủ nhận hoàn toàn cái cảnh ngộ đắng cay hiện tại. Trong thực tế, cụ Phan có nhận ra nỗi đắng cay của thân phận "ở tù" không? Có! Chính cụ đã kê rằng mình bị giải đi "nào xiềng tay, nào trói chặt", vào ngục lại bị giam "chung một chỗ với bọn tù xử tử,… Tôi biết sớm chiều gì đây, đầu tôi cũng lìa khỏi cổ, nhưng tôi vẫn lấy làm vui vẻ…". Như vậy, mang bản chất của người anh hùng không bao giờ chịu khuất phục hoàn cảnh nên Phan Bội Châu không để cho cảnh ngộ đè bẹp mình mà đứng cao hơn nhà tù, vượt lên trên gône cùm xiềng xích của kẻ thù, để hoàn toàn tự do thanh thản về mặt tinh thần. Do đó, trước một hiện thực tăm tối, một sự kiện trọng đại, như bước ngoặt của đời, người chí sĩ vẫn nói bàng một giọng đùa vui như thế. Đây cũng là giọng điệu quen thuộc của thơ khẩu khí khá phổ biến trong thơ ca dân tộc ta.
Chúng ta đọc được khẩu khí ấy trong bài Đập đá ở Côn Lôn của Phan Châu Trinh. Và sau này chính Hồ Chí Minh, người kế tục sự nghiệp anh hùng của cụ Phan cũng có những vần thơ khẩu khí tương tự:
Ăn cơm nhà nước, ở nhà công,
Binh lính thay phiên để hộ tùng.
Non nước dạo chơi tuỳ sở thích,
Làm trai như thể cũng hào hùng!
Hai câu thơ mở đầu bài Vào nhà ngục Quảng Đông cảm tác đúng là một tuyên ngôn về nhân cách, về bân lĩnh vừa ung dung tự tại vừa hóm hỉnh lạc quan. Từ đó, người chiến sĩ biến thế bị động thành chủ động, biến thân xác mất tự do thành sự tự do về tinh thần để tự động viên mình giữ vững lí tưởng, suy ngẫm sự đời.
Xuống bốn câu thơ giữa – hai câu 3, 4 (gọi là hai câu "thực") và hai câu 5, 6 (gọi là hai câu "luận"), tác giả trực tiếp giãi bày những suy ngẫm về lí tưởng, về cuộc đời chính mình:
Đã khách không nhà trong bốn biển,
Lại người có tội giữa năm châu.
Vẫn cái giọng thơ hào sảng tiếp nối âm điệu hai câu "đề", nhưng đến hai câu "thực" nhạc thơ có chút chùng xuống, xót xa, tóm tắt chặng đường gian khổ mà mình vừa trải qua. Hình ảnh "khách không nhà" phác ra chặng đường người chiến sĩ cách mạng đã trải qua gần mười năm trời từ lúc xuất dương đến khi bị cầm tù. Tìm hiểu tiểu sử của Phan Bội Châu mà chính cụ đã ghi lại trong sách Ngục trung thư, chúng ta hiểu rõ: bản thân cụ đã phải dấn thân vào cuộc đời phiêu bạt không nhà cửa, không người thân thích ở bên suốt từ Trung Quốc, sang Nhật Bản, vòng về Thái Lan, rồi trở lại Trung Quốc,… Cuộc đời ấy gian khổ, vất vả biết bao nhiêu. Nhưng đây là những gian khổ vì một lí tưởng lớn lao. Đây là một cuộc đời ngang dọc tung hoành của những anh hùng nghĩa hiệp, của các bậc danh nho mà họ Phan từng biết. Do đó "khách không nhà" kia mang phong thái của những anh hùng bốn biển, đáng tự hào. Nhưng, giờ đây, người anh hùng ấy đang trong thân phận "người có tội". Thật là nghịch lí và phi lí. Bọn quân phiệt Trung Quốc bấy giờ đã liên kết với thực dân Pháp gán cho Phan Bội Châu cái tội kì quái, tội "chống lại nhà nước bảo hộ". Cụm từ "lại người có tội…" cất lên nghe phàng phất âm điệu hài hước, giễu cợt bản án phi chính nghĩa, phán công lí của kẻ thù. Đồng thời cũng pha chút chua chát tự cảm nhận mình có lỗi, sơ xuất để rơi vào tay giặc. Do đó, tiếp sau với từ "có tội" là cụm từ "giữa năm châu", như hàm một ý sâu sắc rằng: mình có tội với đồng bào, đồng chí, với bạn bè năm châu vì… giữa đường bị đứt gánh. Hai câu thơ tả thực mà hàm biết bao ý nghĩa bóng bẩy, mở rộng. Điều thú vị nữa là, tác giả đã sử dụng nghệ thuật đối xứng khá chặt chẽ.
"Đã khách" đối với "lại người", "không nhà trong bốn biển" đối với "có tội giữa năm châu". Từng cặp từ ngữ đối nhau, từng ý đối nhau, hài hoà, vẽ lại hình ảnh một con người từng trải qua cuộc đời lưu li chìm nổi, nhưng đáng tự hào. Tự hào kiêu hãnh, nhưng vẫn khiêm tốn nhận rõ lỗi lầm của mình. Đó là nét đẹp cụ thể thứ nhất của bức chân dung người anh hùng hào kiệt Phan Bội Châu.
Nét đẹp cụ thể thứ hai được thể hiện ở hai câu "luận":
Bủa tay ôm chặt bồ kinh tể,
Mở miệng cười tan cuộc oán thù.
Tuy là "luận" nhưng hình ảnh và nội duns: thơ khôns "suy luận" tản mạn mà vẫn tập trung vào chân duns nhân vật trữ tình bằng những chi tiết nhỏ và một âm điệu ngân vang. Nshệ thuật đối tiếp tục được hoàn chỉnh. Hình ảnh "bủa tay ôm chặt" đối xứng với "mở miệng cười tan" đặc tả dáng hình và ý chí một con người mans lí tưởng đẹp, quyết tâm cao, luôn kiên định với lí tưởng của mình. Hình ảnh "bổ kinh tế" đối chọi với "cuộc oán thù" giải thích rõ những dối tượns mà người anh hùng "ôm chặt" và "cười tan". Bồ kinh tế nghĩa gốc là "kinh bang tế thế". Ớ đây, tác giả muốn nhấn mạnh và tự dặn mình không bao giờ ra rời lí tưởng trị nước, cứu đời mà mình dans theo đuổi. Cuộc oán thù là cách nói khái quát cuộc đấu tranh quyết liệt giữa cái thiện và cái ác giữa bọn ngoại xâm và nhân dân các dân tộc bị áp bức, cụ thể hơn nữa, đây chính là cuộc chiến dấu ngoan cường của nhân dân Việt Nam chống thực dân Pháp xâm lược. Ở câu năm, tác giả dùng cụm từ ôm chặt vừa như một lời tâm niệm vừa là một lời thề chiến đấu, đến câu sáu được đối xứng bằng cụm từ cười tan thật lô sich chặt chẽ, thể hiện rõ dự cảm ngày mai cuộc chiến đấu sẽ thắng lợi, người chiến sĩ sẽ nhận dược niềm vui có thể ngạo nghễ cười tan. Vậy là, phép đối từ ngữ của thơ đã thể hiện rõ quan hệ nhân quả trong cuộc đời, quan hệ biện chứng trong cảm xúc, suy nghĩ của tác giả. Trong thơ ca truyền thông Việt Nam, chúng ta từng bắt gặp những câu thơ đãng đối, hoặc đối xứng, hoặc đối lập rất thú vị tương tự như những câu thơ nói trên của cụ Phan. Chẳng hạn, trong bài Qua Đào Ngang của Bà Huyện Thanh Quan có câu:
Nhớ nước đau lòng, con quốc quốc,
Thương nhà mỏi miệng, cái gia gia.
Ở hai câu "thực" và "luận" trong bài thơ này, những câu thơ đối nhau góp phần tạo âm hưởng hào hùng, lãng mạn, kiểu anh hùng ca. Các cặp từ đối "bốn biển" – "năm châu"; "bủa tay" – "mở miệng" ; "bồ kinh tế" – "cuộc oán thù" khắc hoạ rõ nét tầm vóc của nhân vật trữ tình, càng về sau càng lớn lao, kì vĩ, mạnh mẽ, phi thường, rất phù hợp giọng điệu lãng mạn hào hùng của toàn bài thơ.
Hai câu 7, 8 thuộc phần kết bài thơ tuy âm điệu có chút lắng lại để soi rọi, tiếp tục suy ngẫm về cảnh ngộ hiện tại nhưng vẫn có nét gân guốc, bướng bỉnh muốn thách thức tất cả:
Thân ấy vẫn còn, còn sự nghiệp,
Bao nhiêu nguy hiểm sợ gì đâu.
Nếu ở những câu thơ trên tác giả dùng nhiều từ gốc Hán trang trọng với âm điệu lãng mạn bay bổng thì trong hai câu thơ này, trừ một từ "sự nghiệp" gốc Hán, còn lại là những từ nôm na, mộc mạc, gần gũi với cuộc đời. Ngôn ngữ thơ hạ cánh đậu xuống thân phận, cảnh ngộ đầy hiểm nguy của nhà thơ. Song không vì thế mà mất đi chất hào hùng của đấng hào kiệt, phong lưu. Chỉ có điều, cách nói, cách nghĩ và thái độ ứng xử dường như thiết thực, mộc mạc hơn. Hai câu thơ như một lời tự nhủ, một lời tuyên thệ với chính mình. Thề rằng: "Thân ta còn dây, ta còn sống đây thì sự nghiệp cách mạng, cuộc chiến đấu của ta và các đồng chí, đồng bào vẫn còn đây… Gian khổ hiểm nguy không làm ta run sợ, đầu hàng…". Nghĩa nôm na là như thế, nhưng ý nghĩa nhân sinh thì vẫn lồng lộng, sáng ngời một tư thế người anh hùng đứng cao hơn tù ngục, hiểm nguy, cao hơn cái chết, để khẳng định ý chí gang thép của mình mà không kẻ thù nào khuất phục nổi. Từ còn lặp lại hai lần gắn kết hai hình ảnh "thân ấy" với "sự nghiệp" vừa nhấn mạnh quyết tâm, niềm tin của con người vừa ngân vang âm diệu dõng dạc, dứt khoát. Cả hình thức nghệ thuật và ý nghĩa nội dung, hai câu thơ kết bài này đãng đối hài hoà với hai câu thơ mở đầu, góp phần nhấn mạnh, nâng cao chủ đề bài thơ. Nó thẳng băng, trực diện, sáng tỏ, vừa đóng khung lại bức chân dung con người tinh thần mà Phan Bội Châu tự hoạ, vừa mở ra những dự báo bao nhiêu nguy hiểm, khó khăn đang chò ở phía trước…
Tóm lại, bằng giọng diệu hào hùng có sức lôi cuốn mạnh mẽ, bài thơ Vào nhà ngục Quảng Đông cảm tác là bức chân dung tự hoạ con người tinh thần của Phan Bội Châu với phong thái ung dung, dường hoàng và khí phách kiên cường, bất khuất vượt lên trên cảnh tù ngục khốc liệt để tự an ủi mình giữ vững lí tưởng, niềm tin và khát vọng cứu nước, cứu dân. Học Văn và Sử, chúng ta còn được biết sau này – năm 1925, cụ Phan lại bị giặc bắt một lần nữa. Chân dung của cụ, bản lĩnh làm người của cụ vẫn tiếp tục toả sáng mà Nguyễn Ái Quốc từng ca ngợi là "bậc anh hùng, vị thiên sứ, đấng xả thân vì độc lập, được hai mươi triệu con người trong vòng nô lệ tôn sùng…". Lúc bấy giờ nước ta mới có 20 triệu người. Ngày nay, qua thơ văn của chính cụ Phan và thơ vãn người khác viết vể cụ, chắc rằng hon bày mươi triệu trái tim Việt Nam đều rung cảm và nhớ đến Phan Bội Châu như một tấm gương để soi sáng, đổ noi theo…
Hồng Loan tổng hợp
Từ khóa tìm kiếm:
- qua 2 bài thơ vào nhà ngục quảng đông cảm tác và dậpđá ở côn lôn hãy phân tích giọng điệu lối nói khoa trương và phép đối trong 2 bài thơ
- văn 8 - bản lĩnh phi thường của nhân vật trữ tình trong bài thơ Vào nha nguc quang dong canh tac co but pháp nghe thuat j
Bài viết liên quan
- Thuyết minh về hoa lan – Văn hay lớp 8
- Kể lại những kỉ niệm ngày đầu tiên đi học – Văn hay lớp 8
- Tả cảnh khu vườn vào buổi sáng đẹp trời – Văn hay lớp 6
- Phân tích tác phẩm Người cầm quyền khôi phục uy quyền (V.Huy-Gô) – Văn hay lớp 11
- Phân tích tác phẩm Vào phủ Chúa Trịnh (Trích Thượng kinh kí sự) – Văn hay lớp 11
- Tả mẹ em đang nấu cơm – Văn hay lớp 5
- Tả con đường làng em vào lúc vụ mùa thu hoạch – Văn hay lớp 6
- Phát biểu cảm nghĩ về bài Đeo nhạc cho mèo – Văn hay lớp 6