13/01/2018, 10:33

Phân tích tác phẩm Muốn làm thằng Cuội -Văn hay lớp 8

Phân tích tác phẩm Muốn làm thằng Cuội -Văn hay lớp 8 Phân tích tác phẩm Muốn làm thằng Cuội – Bài làm số 1 của một bạn học sinh giỏi văn thành phố Cần Thơ Tản Đà – Nguyễn Khắc Hiếu xuất hiện trên văn đàn Việt Nam những năm đầu thế kỷ với một cá tính độc đáo: một nhà thơ của sầu và mộng, ...

Phân tích tác phẩm Muốn làm thằng Cuội -Văn hay lớp 8

Phân tích tác phẩm Muốn làm thằng Cuội – Bài làm số 1 của một bạn học sinh giỏi văn thành phố Cần Thơ

Tản Đà – Nguyễn Khắc Hiếu xuất hiện trên văn đàn Việt Nam những năm đầu thế kỷ với một cá tính độc đáo: một nhà thơ của sầu và mộng, ngông và đa tình. Bài thơ Muốn làm thằng Cuội đã thể hiện rất rõ cá tính ấy của ông.

Bài thơ Muốn làm thằng Cuội in trong tập Khối tình con (1916). Mặc dù tác phẩm được làm theo thể thất ngôn bát cú Đường luật song người đọc sẽ thấy ở đây, dưới cái hình thức còn là của thơ cổ ấy những dấu hiệu mới mẻ của cảm xúc. Tâm sự của nhà thơ ở một thời đại mới đã khiến cho cái hình thức thơ cũ có chiều hướng giảm nhẹ đi tính trang trọng, mực thước. Sự giản dị, trong sáng gần với khẩu ngữ tự nhiên làm nên nét duyên của bài thơ này.

Ngay từ nhan đề của bài thơ đã cho thấy một giọng điệu suồng sã, như là đã giải tỏa được một nhu cầu nói thật, thẳng thắn của nhà thơ và cũng lại cho thấy cái ngông nghênh, bất đắc chí: muốn ở đây như một nhu cầu bức xúc, chẳng cần giấu giếm, vòng vo. Nhưng muốn cái gì? Muốn làm cuội thì đích thực là muốn thoát lên trên rồi. ước vọng lên trên thơ mộng thế mà nói tựa như là muốn ăn, muốn uống, muốn ngủ… thật là thành thực!

Và, nếu muốn thoát tục, lên trên thì thiếu gì những hình mẫu tiên để ước sao cứ phải là thằng Cuội? Thằng chứ không phải chú – cũng là một kiểu nói ngông.

Thế thì chính là thi sĩ đa tình này muốn lên cung trăng rồi!

Đêm thu buồn lắm chị Hằng ơi,

Trần thế em nay chán nửa rồi!

Chị Hằng thì phải ở cung trăng chứ còn gì nữa! Thì ra thi sĩ của chúng ta muốn làm thàng Cuội để tâm sự cùng chị Hằng Nga xinh đẹp. Hai câu mở đầu bài thơ như một tiếng kêu than. Chẳng cần phải mượn cái khác để diễn tả nỗi buồn trong lòng mình, thi sĩ bộc bạch ngay nỗi lòng mình. Hai chữ buồn lắm thật chân thành. Thi sĩ chỉ lòng mình ra trong tiếng gọi tha thiết. Ta thường gặp trong thơ Tản Đà một vẻ buồn chán, cái buồn lan trùm tất cả. Vì buồn lắm như thế nên thi sĩ mới "muốn làm thằng Cuội. Nhưng không phải là cái buồn vô cớ, càng không phải kiếm cớ buồn đẽ được lên tiên. Cái buồn ở đây là cái buồn đời, buồn chán cuộc đời tối tăm, đen bạc, đảo điên. Không ít lần Tản Đà kêu chán đời: "Đời đáng trách biết thôi là đủ – Sự chán đời xin nhủ lại tri âm", "Gió gió mưa mưa đã chán phèo – Sự đời nghĩ đến lại buồn teo"… Sống trong bối cảnh xã hội thực dân nửa phong kiến những năm đầu thế kỉ XX, chẳng phải chỉ riêng Tản Đà buồn chán. Không khí tù hãm, u uất của một dân tộc bị mất nước bao trùm hết thảy, đè nặng tâm trí con người, nhất lại là những con người nhạy cảm như thi nhân. Tâm trạng buồn chán là tâm trạng của thời đại. Có trăm ngàn vẻ buồn khác nhau song đều thấy điểm chung là sự bế tắc trước thực tại cuộc đời, từ đó mà sinh ra chán nản, bất mãn đối với thời cuộc.

Cái buồn của Tản Đà cũng bắt nguồn từ đấy. Và thế là thi sĩ tìm lối thoát bằng cách thoát li khỏi cuộc đời, sống trong một thế giới khác, thế giới mộng mơ, thần tiên. Thi nhân gọi trăng là chị, xưng với trăng là em thì vừa là muốn thân tình, gần gũi để giãi bày, vừa là chơi ngông. Bốn câu thơ tiếp càng thể hiện cái ngông của Tản Đà:

Cung quế đã ai ngồi đó chửa?

Cành đa xin chị nhắc lên chơi

Ngông thực chất là một thái độ ứng xử đối với cuộc đời, một biểu hiện khác của sự chán ngán, bất mãn với thời cuộc. Phải là người yêu đời lắm, tha thiết với cuộc sống lắm thì mới tỏ ra buồn chán đến bất hòa trước cuộc đời đang rối ren, đen tối như thế. Câu 3 của bài thơ là lời ướm hỏi, rồi đến câu 4 là lời đề nghị. Nấu Cung quế chưa có ai thì chị cũng buồn, cũng cô đơn lắm nên hãy để em lên chơi cùng, em đỡ buồn mà chị cũng bớt cô đơn. Tính từ đây mà cũng ngang tàng đấy! Xin chị đừng từ chối nhé, bởi vì em có lí lẽ đây này:

Có bầu có bạn, cùng tri kỷ

Cùng gió cùng mây, thế mới vui.

Cái lí của thi nhân thật là thuyết phục. Song trong sự thuyết phục để thoát li, xa lánh trần thế ấy chúng ta thấy một thực trạng buồn vắng, cô đơn của tâm hồn thi sĩ. Vốn đa tình đa cảm nên thi nhân luôn luôn có khát vọng được người tri kỉ, mà cõi trần thì "Chung quanh những đá cùng cây; Biết người tri kỉ nơi đâu mà tìm". Cái vui của thi nhân là cái vui được tâm giao, tâm đồng. Gió, mây thơ mộng được không nếu chẳng có bầu có bạn". Khát vọng lên trên, lánh đời ở đây thực ra là một cách bộc lộ khao khát đồng cảm, tri âm trong cuộc đời của Tản Đà. Và cái cách ở đây là ngông. Chưa hết, thi nhân còn vẽ ra viễn cảnh:

Rồi cứ mỗi năm rằm tháng tám

Tựa nhau trông xuống thế gian cười

Lãng mạn hết mức, tưởng tượng ra cảnh "tựa nhau" cùng chị Hằng thì quả là cái ngông đã đến đỉnh điểm. Tác giả hạ chữ cười ở cuối bài thật đắt. Cười ở đây chứng tỏ cái hả hê thỏa mãn khi trong ước vọng được thoát tục, rồi bỏ được trần ai mà lên tiên. Cười còn là thái độ mỉa mai, khinh khi cái cuộc đời đang đầy những sầu khổ, cô đơn dưới kia. Cười thách thức. Cười ngông.

Bài thơ tuân thủ khuôn mẫu của một bài thất ngôn bát cú Đường luật cổ điển. Nhưng nguồn cảm xúc tự nhiên, không chừng bay bổng đã tự tìm đến những lời thơ tựa như lời nói hàng ngày: "buồn lắm chị Hằng ơi", "em nay chán nửa rồi", "đã ai ngồi đây chưa", "xin chị nhắc lên chơi", "thế mới vui", "tựa nhau trông xuống thế gian cười"; xưng hô khẩu ngữ (chị – em) tự nhiên, không đẽo gọt cầu kì và ngữ điệu biểu hiện đa dạng (ơi, rồi, đó chửa, xin, thế mới). Lên tiên, thoát tục là thi đề quen thuộc trong thơ cổ, ở đây cái không mới ấy đã được làm mới bằng giọng điệu, bằng lời thơ.

 

Cái ngông của Tản Đà trong bài thơ này là một hình thức ứng xử vốn nằm trong cốt cách của nhà nho tài tử trong thơ truyền thống. Song, như chúng ta đã thấy, cái ngông ấy lại là thái độ của Tản Đà đối với xã hội ta những năm đầu thế kỉ XX, bộc lộ một nguồn xúc cảm mới, đầy cá tính đa tình, phóng túng. Cái mơ mộng thành ra cái ngông thì quả là đậm chất riêng của Tản Đà.

Phân tích tác phẩm Muốn làm thằng Cuội – Bài làm số 2

Bài thơ viết theo thể Đuờng luật thất ngôn bát cú. Niêm luật đầy đủ, đôi ý. đối thanh chặt chẽ và cân đôi. Nhưng ngay từ câu đầu, bằng lời lẽ tự nhiên, nhà thơ bộc lộ tâm sự trong lời than thở “buồn lắm”! Nhưng phải đọc cả hai câu đầu mới thấy cái buồn của nhà thơ là vì lẽ gì? Than thở với ai? Và ở thời điểm nào?

Ta hãy đọc câu 1 và 2:

 

Đêm thu buồn lắm Hằng ơi!

Trần thế em nay chán nửa rồi.

Thì ra vào một đêm thu, có trăng sáng, nhà thơ bị nỗi buồn nơi trần thế xâu xé, nên ngẩng lên phàn nàn với chị Hằng!

Như thế đã “buồn” lại “chán” nữa, nhưng tìm hiểu một sô" ý trong hai câu thơ này sẽ thấy chẳng riêng của Tản Đà. Trước hết là lí do của cái buồn. Phải chăng trong cuộc đời này chí hướng của ông không thể thực hiện? Cái “trần thế” mà nhà thơ đang sống nó ngột ngạt, nặng trĩu xuống bởi các thanh bằng “chị Hằng ơi, trần thế em nay”. Nhưng dù buồn chán, nhà thơ vẫn dùng cách xưng hô ngọt xớt “chị Hằng ơi”, thành ra giọng điệu thơ vừa ngọt ngào vừa thân thiết, xoá đi cái khoảng cách vời vợi giữa trái đất và vầng trăng. Nhưng sao không nói “chán lắm rồi” mù chỉ mới “chán nửa rồi”, một cách nói hình tượng có vẻ ỡm ờ, nhưng không sàm sỡ! vầng trăng từ xưa đến nay vốn là nguồn mạch vô tận của thơ ca. Nhưng hôm nay thì “vầng trăng” không còn để ngắm, để xúc cảm, mà để cho thi sĩ làm bạn xin giúp đỡ cho ông thoát khỏi cái “trần thế” đã chán một “nửa rồi”.

Tiếp đến câu 3 và 4 vẫn là nỗi niềm tâm sự, nhưng nói rõ nguyện vọng:

Cung quế đã ai ngồi đó chửa?

Cành đa xin chị nhắc lên chơi.

Đây là lời ướm hỏi “có ai” trên ấy hay chưa, rồi mới xin bám vào cây đa để lên chơi!

Câu 4 và 5: Ta thấy thi sĩ đi từng bước, lúc đầu chỉ xin lên chơi với ý nghĩa:

 Có bầu có bạn can chi tủi

 Cùng gió cùng mây thể mới vui.

Có nghĩa là trong cảm tưởng, nhà thơ hình dung thấy “chị Hằng” cũng đang cần có nguồn vui, cần “có bầu có bạn”!

Câu 7 và 8: Tiến thêm một bước nữa, nhà thơ muốn lên cung trăng và ở lại đó suốt đời chứ không phải chỉ lên chơi, vì hai câu kết đã nói rõ:

Rồi cứ mỗi năm rằm tháng tám,

Tựa nhau trông xuống thế gian cười.

Đây là tiếng cười, nhưng cười cái gì khi trông xuống “thế gian”? Cười cái bọn bon chen ở trần thế nơi ông đã sống những ngày đi về với những giấc mộng mà trong thực tế thì rất vất vả, gian truân. Hai câu thơ cuối không còn khoảng cách “chị” và “em” nữa, mà hầu như nhà thơ đã “bá vai” chị Hằng cười sảng khoái hả hê!

Nhiều bài thơ của Tản Đà có cái ngông! Trong bài thơ này cái ngông cũng thể hiện ở nhiều câu. Trước hết là cái ngông muôn làm thằng Cuội. Hình tượng thằng Cuội trong dân gian được xem như một con người xấu (nói dối như Cuội) thế mà nhà thơ lại không có cái điều đáng chê trách đó, vì muốn lên cung trăng! Cái ngông thứ hai là lúc đầu ông xưng hô “chị, em” cười với chị Hằng, nhưng sau đó lại lả lơi muốn kết thành “bầu, bạn”. Thật là khó hiểu hai chữ “bầu bạn”! Cái ngông thứ ba là lúc đầu ông chỉ muốn lên chơi, sau dần chuyển thành ý định ở lâu dài nơi cung quảng để mỗi năm đến rằm tháng tám “tựa nhau” trông xuống thế gian mà cười! “Tựa nhau” quả là một tư thế nam nữ có vẻ quá thần mật (nêu không muôn nói là suồng sã). Cái ngông cuối cùng là tiếng cười ngạo mạn, coi như dưới con mắt mình toàn chuyện nực cười.

Muốn làm thằng Cuội còn có ý nghĩa sâu xa khác là chán ghét cái xã hội hiện thời, mơ ước một cõi đời “Bồng Lai ngày tháng thanh nhàn”, nơi con người không còn vướng bận, lo lắng, bon chen nữa! Tuy vậy bài thơ không để lại một cảm giác nặng nề, bi quan mà gợi cho lòng ta một nỗi buồn man mác, trong sáng… Đó cũng là yếu tố tạo nên sức hấp dẫn của bài thơ.

Thơ văn Tản Đà là cái gạch nối giữa cổ điển và hiện đại, nổi bật trên thi đàn hợp pháp hồi đầu thế kỉ. Bài thơ Muốn làm thằng Cuội rút ra từ tập thơ Giấc mộng con in năm 1926. Tuy mới chỉ là thể hiện của một khát vọng lãng mạn đầu tiên, nhưng đây là một hồn thơ phóng khoáng, khơi nguồn cho những sáng tạo của phong trào Thơ mới như ông Hoài Thanh đã nhận định.

Cái hay của bài thơ là sức tưởng tượng dồi dào, táo bạo vừa phóng túng nhưng lại rất duyên dáng, tế nhị.

Phân tích tác phẩm Muốn làm thằng Cuội – Bài làm số 3

 

Bài thơ có sức hấp dẫn do lời thơ tự nhiên, giản dị, có nhiều hình ảnh bắt nguồn từ trong các tác phẩm dân gian hoặc các điển tích thông dụng, do tình thơ buồn chán mà chân thành,

Hai câu đề đã diễn tả tâm trạng của nhà thơ trước cảnh đời:

Đêm thu buồn lắm chị Hằng ơi!

Trần thế em nay chán nữa rồi.

Đã “buồn”, đã “chán”, lại gặp cảnh “đêm thu”, tâm trạng ấy dường như nhân lên gấp bội. Nhà thơ buồn chán vì chí hướng của mình không thực hiện được hay vì cuộc đời nghèo khổ, túng quẫn. Câu thơ cứ buồn trĩu xuống bằng những thanh bằng liên tiếp. Nhà thơ không chỉ chán một cảnh đời đang sống mà chán cả trần thế. Có lẽ vì thế mới nảy sinh cái ý “muốn làm thằng Cuội” muốn bỏ quách trần gian để lên ở trên cung quế với chị Hằng.

Tản Đà chán đời nhưng vẫn không quên đời, Lên với chị Hằng, ông vẫn tìm cách hướng về đời:

Rồi cứ mỗi năm rằm tháng tám

Tựa nhau trông xuống thế gian cười.

Đây là cái cười gì? Cười tình, cười sảng khoái, hả hê hay cười mỉa mai, khinh thị? Có lẽ phải hiểu đây là cái cách biểu lộ thái độ khinh bạc với đời. Vì sao ông lại chọn ngày rằm tháng tám chứ không phải ngày khác để biểu thị sự khinh bạc đó? Chắc vì ông muốn nhân lên nhiều lần thái độ bất cần của mình với đời.

Tóm lại, tâm sự của Tản Đà là tâm sự kẻ buồn chán cuộc sống muốn tìm một nơi ẩn náu. Ông muốn tìm đến với thiên nhiên (ở đây là cung quế và chị Hằng), ẩn mình trong thiên nhiên để giễu cợt lại đời bằng sự kiêu bạc của mình.

Qua thơ Tản Đà ta còn thấy cái “ngông” thể hiện khá rõ:

Trước tiên, ngay đề bài đã lóe lên một cái gì không bình thường. Ai cũng biết thằng Cuội trong văn học dân gian, trong ấn tượng của người Việt Nam gắn liền với cái thói nói dối (cho nên mới có câu: “Nói dối như Cuội”). Thế mà ở đây, Tản Đà lại “Muốn làm thằng Cuội”, cái ý muốn ấy thật khác thường, thật coi thường tất cả. Nó là một điều ngông.

Nhà thơ gọi Hằng Nga là chị, xưng em ngọt xớt. Song trong bốn câu thơ sau, ông lại có phần lả lơi với chị Hằng:

Cung quế đã ai ngồi đó chửa?

Cành đa xin chị nhắc lên chơi

Có bầu, có bạn, can chi tủi

Cùng gió, cùng mây, thế mới vui.

Câu “Cành đa, xin chị nhấc lên chơi” vừa nói cách lên cung trăng lạ đời của ông, vừa có ý vị cười cợt của Xuân Hương. Chất đùa cợt lúc ẩn lúc hiện trong những câu thơ này khiến bài thơ lấy lại thế cân bằng, không lao sâu vào nỗi buồn chán giãi bày trong hai câu thơ mở đầu của bài. Trong cách xưng hô, trò chuyện của ông với chị Hằng, có ẩn chứa chút hơi ngông.

Ởhai câu cuối, tư thế nhà thơ và chị Hằng cùng “Tựa nhau trông xuống thế gian cười” cũng là tư thế khác thường với quan niệm nam nữ thời ông đang sống. Nó cũng là cử chỉ ngông nghênh của ông dưới con mắt các nhà nho đương thời.

Vì sao Tản Đà lại có cái ngông, lại thể hiện cái ngông đó trong thơ mình? Có lẽ đây là một cách phản ứng lại với cuộc sống. Nó gắn liền với cá tính phóng túng của nhà thơ. Nó tạo cho thơ ông có một giọng điệu khác thường.

Bài thơ hấp dẫn người đọc trước tiên do lời thơ giản dị, tự nhiên. Có câu như một tiếng than, có câu lại như một lời hỏi. Câu nào cũng không thấy dấu vết đẽo gọt của bàn tay thơ nhưng câu nào cũng điêu luyện.

Phân tích tác phẩm Muốn làm thằng Cuội – Bài làm số 4

Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu là nhà thơ lớn nhất của dân tộc ta trong những năm đầu thế kỉ XX. Thơ Tản Đà là tiếng lòng của một cái tôi bất hòa sâu sắc với thực tại tầm thường, tù túng, muốn tìm cách thoát ly bằng mộng tưởng. Với một hồn thơ vừa phóng túng, vừa sầu mộng và rất ngông, Tản Đà đã thổi một luồng gió lãng mạn vào trong thi ca, dạo những bản đàn mở đầu cho một cuộc hoà nhạc tân kì đang sắp sửa (Hoài Thanh).

Bài thơ Muốn làm thằng Cuội nằm trong cuốn Khối tình con I, xuất bản năm 1917. Bài thơ là lời nhà thơ nói với chị Hằng trong một đêm thu và xin chị cho lên cung trăng cùng chị để tránh xa cái trần thế đáng chán này.

Bài thơ vẫn được viết theo thể thơ truyền thống của thi ca lúc bấy giờ: thể Đường luật bát cú. Đọc kĩ bài thơ, ta thấy nhà thơ vẫn tuân thủ nghiêm chỉnh những quy tắc chặt chẽ của thể thơ cổ điển nhưng không gò bó, khô cứng, mà tự nhiên, thoải mái, lời thơ mặn mà, tình tứ và rất có duyên.
Bài thơ mở đầu bằng một lời than thở, một tâm trạng, một nỗi lòng:

Đèm thu buồn lắm chị Hằng ơi!
Trần thế em nay chán nửa rồi

Trong câu thơ của Tản Đà, ta đọc được một nỗi sầu da diết khôn nguôi. Vì sao Tản Đà, một thanh niên đang phơi phới tuổi xuân, tài danh cũng đã nổi, lại trở nên sầu muộn như thế? Trong bài: Giải sầu (1918), Tản Đà cũng đã từng viết: Từ độ sầu đến nay, ngày cũng có lúc sầu, đêm cũng có lúc sầu. Mưa dầm lá rụng mà sầu, trăng trong gió mát mà càng sầu; một mình tĩnh mịch mà sầu, đông người cười nói mà càng sầu; nằm vắt tay lên trán mà sầu, đem thơ văn ngâm vịnh mà càng sầu…sầu không có mối, chém sao cho đứt sầu không có khối, đập sao cho tan…

Phải chăng cái sầu trong thơ Tản Đà là cái sầu vẩn vơ, vô cớ? Không! Đó là nỗi buồn thời thế, buồn nhân sinh! Nỗi buồn ấy chỉ có thể có được ở những linh hồn cao khiết còn giữ được của một thời cái cốt cách vững vàng, cái phong thái thung dung (Hoài Thanh) như Tản Đà.
Cùng với nỗi buồn, Tản Đà chán ngán cuộc đời:

Trần thế em nay chán nửa rồi

Thái độ chán đời của Tản Đà là thái độ bất hòa sâu sắc với cuộc đời, với cái xã hội phong kiến thực dân ngột ngạt tầm thường. Thái độ ấy bộc lộ một cá tính mạnh mẽ của một tâm hồn thanh cao không chịu uốn mình theo một khuôn phép của xã hội, không cam chịu một thân phận nô lệ thấp hèn.
Tâm trạng của Tản Đà, suy cho cùng, là nỗi đau đớn rất đáng quý, là nỗi buồn đẹp để người đời phải ngẫm suy.

Bất hoà sâu sắc với thực tại, Tản Đà tìm cách thoát li thực tại. Khát vọng thoát li thực tại không chỉ có ở Tản Đà, mà nó là khát vọng của cả một lớp thanh niên trí thức đang sống trong không khí tù túng, u uất. Không ít nghệ sĩ đã tìm cách thoát li trong rượu, trong thơ, trong cuộc sống giang hồ tài tử, trong cõi bồng lai tiên cảnh mơ hồ của mộng tưởng. Với Tản Đà, cá tính ngông khiến thi nhân tìm cho mình một cách thoát li cũng rất đặc biệt, rất ngông:

Cung quế đã ai ngồi đó chửa?
Cành đa xin chị nhắc lên chơi.

Thật là một địa chỉ thoát li lí tưởng, vừa    xa lánh    hẳn cái trần thế đáng chán kia, vừa được sống trong một thế giới bồng lai tiên cảnh thành khiết, bên một thiếu nữ đẹp và bao dung như chị Hằng. Còn gì hơn thế!

Điều đáng chú ý ở đây là việc bày tỏ khát vọng thoát li. Đầu tiên là một lời ướm hỏi: Cung quế đã ai ngồi đố chửa? Tiếp đến là một gợi ý: Cành đa xin chị nhắc lên chơi. Giọng điệu thơ thật tự nhiên, vừa dí dỏm, vừa tha thiết, mặn mà, làm sao nỡ từ chối?

Chẳng biết chị Hằng đã đồng ý chưa mà nhà thơ lại thích thú đến thế khi tưởng tượng ra cảnh sống bên cạnh tiên nga:

Có bầu, có bạn, can chi tủi,
Cùng gió, cùng mây, thế mới vui!

Vì sao Tản Đà cảm thấy sung sướng và hanh phúc đến thế? Bởi lẽ ông đã tìm được tri kỉ: có bầu, có bạn, được hòa đồng với cuộc sống: cùng gió, cùng mây, không còn phải cô đơn, buồn tủi nữa.

Thế có nghĩa là trước đây, ở trần thế, ông luôn cảm thấy mình lẻ loi, cô đơn, buồn tủi: Đông người cười nói mà càng sầu? Sống giữa chốn phồn hoa đô thị nhộn nhịp, hỏi đã mấy ai hiểu được nỗi lòng thi nhân?

Chung quanh những đá cùng cây
Biết người tri kỉ đâu đây mà tìm!

Nhớ lại từ thế kỉ trước, Bà Huyện Thanh Quan cũng đã từng phải cô đơn, buồn tủi giữa đám tùy tùng, giữa những người xung quanh bà:

Một mảnh tình riêng, ta với ta!

Nếu như nữ sĩ xưa chỉ biết ôm mối sầu tủi, buồn thương trong lòng, thì Tản Đà không cam chịu, ông tìm đến với chị Hằng, cùng chị làm bầu bạn tâm tình để cho tâm hồn mình thư thái lại, để cho lòng mình rộng mở mà đón nhận thiên nhiên, đón nhận vẻ đẹp thanh tao của cuộc sống không vấy bẩn bụi trần. Mối u uất trong tâm hồn thi nhân dường như đã được giải tỏa.

Giấc mộng lên cung trăng của thi nhân thật lãng mạn, đầy chất đa tình và ngông. Giấc mộng thoát ly này hẳn phải khiến nhiều người ngỡ ngàng?

Trong thơ văn xưa, đã có không ít người mơ lên cung trăng, thả hồn vào cõi tiên, nhưng liệu đã có ai như Tản Đà, đem theo nguyên vẹn cái: thói phong tình bất kính như thế?

Mạch cảm xúc lãng mạn và ngông được đẩy lên cao độ bằng một hình ảnh tưởng tượng đầy bất ngờ và ý vị:

Rồi cứ mỗi năm rằm tháng tám
Tựa nhau trông xuống thế gian, cười.

Trong con mắt của Tản Đà, cõi trần bụi bặm kia giờ đây chỉ còn bé tí. Và nhà thơ bật cười thích thú với cái ý nghĩ đó. Một cái cười vừa thỏa mãn, vừa mỉa mai, bao dung. Thỏa mãn vì đã thực hiện được mộng tưởng thoát li, đã xa lánh được hẳn cái xã hội tầm thường, tù túng. Mỉa mai, bao dung vì cõi trần giờ đây chỉ còn bé tí, đâu có thể giam hãm được một tâm hồn đang bay bổng lên trên nó. Hai câu kết là đỉnh cao của một tâm hồn lãng mạn và ngông của Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu tiên sinh.

Bài thơ khép lại trong niềm sung sướng đến mãn nguyện của thi nhân vì đã thực hiện được giấc mộng thoát li. Thế mà mấy mươi thập kỉ sau người đời vẫn còn phải bàn luận về nó.

Hồng Loan tổng hợp

Từ khóa tìm kiếm:

  • phân tích 2 câu đầu bài thơ muốn làm thằng cuội

Bài viết liên quan

  • Nghị luận xã hội về các nữ sinh thời nay nên mặc áo dài truyền thống hay trang phục hiện đại khi đến trường – Văn hay lớp 12
  • Bình luận câu tục ngữ “Cá không ăn muối cá ươn, …” – Văn hay lớp 7
  • Thuyết minh về hoa sen – Văn hay lớp 8
  • Phân tích tác phẩm Ông Giuốc-đanh mặc lễ phục – Văn hay lớp 8
  • Phân tích tác phẩm Phong cách Hồ Chí Minh – Văn hay lớp 9
  • Thuyết minh về mì Quảng – Văn hay lớp 12
  • Phân tích tác phẩm Cảnh ngày hè – Nguyễn Trãi – Văn hay lớp 10
  • Tả cảnh mặt trời mọc trên quê hương em -Văn hay lớp 6
0