Phân tích tác phẩm Thái sư Trần Thủ Độ (Ngô Sĩ Liên) – Văn hay lớp 10
Phân tích tác phẩm Thái sư Trần Thủ Độ (Ngô Sĩ Liên) – Văn hay lớp 10 Phân tích tác phẩm Thái sư Trần Thủ Độ (Ngô Sĩ Liên) – Bài làm số 1 của một bạn học sinh giỏi văn tỉnh Bình Dương Trần Thủ Độ là một nhân vật lịch sử khá đặc biệt cho nên xung quanh ông có rất nhiều ý kiến đánh ...
Phân tích tác phẩm Thái sư Trần Thủ Độ (Ngô Sĩ Liên) – Văn hay lớp 10
Phân tích tác phẩm Thái sư Trần Thủ Độ (Ngô Sĩ Liên) – Bài làm số 1 của một bạn học sinh giỏi văn tỉnh Bình Dương
Trần Thủ Độ là một nhân vật lịch sử khá đặc biệt cho nên xung quanh ông có rất nhiều ý kiến đánh giá khác nhau. Đối với nhà Trần, Trần Thủ Độ là người có công đầu. ông đã đem hết lòng trung thành tận tuỵ, tài năng và mưu trí của minh để giúp các vua Trần phát triển cơ nghiệp, chống ngoại xâm bảo vệ đất nước. Ngày nay, chúng ta cẩn có thái độ công bằng và sự phân tích kĩ càng để đánh giá, đề cao phẩm chất chí công vô tư, nghiêm minh, liêm khiết của Thái sư Trần Thủ Độ.
Qua bài Thái sư Trần Thủ Độ, tác giả ca ngợi nhân cách chinh trực, chí công vò tư, biết' lắng nghe và khuyến khích cấp dưới giữ nghiêm phép nước của ông.
Mở đầu bài viết, tác giả tóm tắt vài dòng về cuộc dời và sự nghiệp của Thái sư Trần Thủ Độ. Cách viết của tác giả ngược với binh thường ở chỗ là nêu năm mất và chức tước của Trần Thủ Độ trước, nhằm gây sự chú ý của người đọc:
Giáp Tí, năm thứ 7.
Mùa xuân, tháng giêng.
Thái sư Trần Thủ Độ chết (tuổi 71); truy tặng Thượng phụ Thái sư Trung Vũ
Đại Vương.
Đấy là chủ ý của tác giả nhằm nhấn mạnh thái độ trân trọng và biết ơn của các vua Trần đối với Trần Thủ Độ; qua đó gián tiếp giới thiệu vai trò quan trọng và công lao to lớn của ông.
Thủ Độ tuy không có học vấn, nhưng tài lược hơn người, làm quan triều LI được mọi người suy tôn. Thái Tông lấy được thiên hạ đều là nhờ mưu sức của Thủ Độ cả, cho nên nhà nước phải nhờ cậy, quyền hơn cả vua.
ổ phần sau, nhà sử học Ngô Sĩ Liên đã chọn ra bốn tinh tiết (câu chuyện nhỏ) phản ánh bốn khía cạnh trong nhân cách cao quý của Trần Thủ Độ.
Nét đặc sắc nhất trong nghệ thuật kể chuyện và khắc họa hình tượng nhân vật lả ở chỗ người viết sử đã xây dựng nện những tinh huống giàu kịch tính, biết lựa chọn các chi tiết đắt giá. Mỗi câu chuyện dù ngắn nhưng đểu có những xung đột được đẩy dần đến cao trào và được giải quyết một cách bất ngờ, gãy thú vị cho người đọc. Từ đó, người đọc có thể hình dung rõ nét chân dung nhân vật và tự rút ra những bài học sâu sắc.
Chuyện người hặc tội (người vạch tội) ấm ức tâu lên vua Trần Thái Tông là Thái sư dám lấn át quyền hành của vua: Bệ hạ trẻ thơ mà Trần Thủ Độ quyền hơn cả vua, đối với xã tắc thì sẽ ra sao? là tình huống thứ nhất sẽ dẫn đến mâu thuẫn giữa Trần Thủ Độ với nhà vua. Tác giả đẩy mâu thuẫn ấy lên cao trào bằng chi tiết nhà vua chủ động đem người hặc tội đi theo tới gặp Thái SƯ để đối chất. Trần Thủ Độ không phân trần, biện bạch hoặc trừng trị mà ngược lại, ông nhận lỗi ngay và còn ban thưởng cho người hặc tội. Câu trả lời của Thái sư gây bất ngờ lớn cho nhà vua: Đúng như lời người ấy nói.
Trần Thủ Độ có sự khác biệt với mọi người trong cách hành xử. Thống thường, người ta ghét kẻ dám vạch ra tội lỗi hoặc phê phán, chỉ trích sai lầm của mình, còn Trần Thủ Độ không chối mà công nhận ngay hành vi của mình và còn lấy tiền lụa thưởng cho bề dưới. Điểu đó thể hiện thái độ thẳng thắn nhận lỗi, nghiêm khắc với bản thân và sự độ lượng của bậc chính nhân quân tử. Lời nói và hành động của ông trong sự việc này có tác dụng khích lệ cấp dưới hãy trung thực, dũng cảm, mạnh dạn tô' cáo sai lầm của người khác, kể cả cấp trên nhưng phải với mục đích trong sáng là vì quyển lợi của quốc gia, dân tộc.
Tình huống thứ hai không liên quan đến quyển lợi của sơn hà xã tắc mổ chi là chuyện riêng trong gia đinh. Phu nhân của Thái sư Trần Thủ Độ vốn là hoàng hậu của vua Lí Huệ Tông. Sau khi Lí Huệ Tông bị bức tử, bà bị giáng xuống làm Thiên Cực công chúa và ép gả cho Trần Thủ Độ. Một lần, bả ngồi trên kiệu để vào cung, người lính quân hiệu bắt bà phải xuống kiệu trước thềm cấm. Tình huống này chứa đựng mâu thuẫn giữa phu nhân của Trần Thủ Độ và người lính. Đỉnh điểm của mâu thuần là chi tiết phu nhân cho rằng minh bị coi thường nên khóc lóc, kể tội người lính và giận dữ nói với chồng rằng: Mụ này làm vợ ông mà bọn quân hiệu khinh nhờn như thế.
Lúc đầu, Thủ Độ giận, sai đi bắt. Người quân hiệu kia chắc mình phả: chết. Khi đến nơi, Thủ Độ vặn hỏi trước mặt. Anh ta đem sự thực trả lời. Thủ Dó nói Ngươi ở chức thấp mà biết giữ phép như thế, ta còn trách gì nữa? Điểu đó cho thấy ông không thiên vị người thân và rất tôn trọng phép nước, tốn trọng người giữ đúng phép nước, dù đó là kẻ dưới quyền.
Tinh huống thứ ba là phu nhân xin ông cho một người họ hàng của bá được làm câu đương, tức là một chức dịch nhỏ trong xã chuyên lo việc bắt giữ và áp giải phạm nhân. Chi tiết này tạo ra mâu thuẫn giữa tính cách liêm chính của Trần Thủ Độ với lời đề nghị của phu nhân. Tác giả gây chú ý bằng chi tiết Thủ Độ gật đẩu và biên lẩy họ tên quê quán của người đó, khiến người đọc lầm tưởng là sự việc sẽ diễn ra đúng theo ý muốn của phu nhân, để rồi hoàn toàn bất ngờ trước cách xử lí của Thái SƯ cũng như thú vị trước cách giả quyết cao trào xung đột của tác giả. Trẩn Thủ Độ yêu cầu hắn
muốn làm câu đương thì phải chặt một ngón chân để phim biệt với những câu đương khác, khiến hắn ta sợ hãi, kêu van xin thôi, hồi lâu mới tha cho. Như vậy là Trần Thủ Độ luôn có ý thức giữ gìn sự công bằng, không chấp nhận thói chạy chọt, đút lót, dựa dẫm, nhờ vả để tiến thân.
Tình huống thứ tư là nhà vua muốn phong tưng cho An Quốc, anh trai của Trẩn Thủ Độ. Tưởng Trần Thủ Độ'sẽ mừng rỡ mà tạ ơn vua nhưng tác giả lại khiến người đọc ngạc nhiên đến bất ngờ khi Trần Thủ Độ thẳng thắn trình bày ý kiến: An Quốc là anh thần, nếu là người hiển thì thần xin nghi việc, còn như cho thần là hiển hơn An Quốc thì không nên cử An Quốc. Nếu anh em cùng là tướng thì việc trong triều sẽ ra sao?
Vì có tầm nhìn xa trông rộng nên ông lường trước được những phiền toái sẽ xảy ra khi cả hai anh em đểu nắm giữ trọng trách. Điều đó sẽ đẩy nhà vua vào tình thế khó xử. Câu trả lời trôn cho tháy Thái sư Trần Thủ Độ có tinh thần chí công vô tư, vượt khỏi quan niệm phổ biến trong xã hội là: Một người làm quan, cả họ được nhờ.
Những tinh hung đầy kịch tính nêu trên đã góp phẩn làm nổi bật bản lĩnh cứng cỏi và nhân cách cao quỷ của Trần Thủ Độ: thảng thắn, cầu thị, độ lượng, nghiêm minh và đặc biệt là chí công vô tư, luôn đặt việc nước lên trên hết, không mảy may tư lợi cho bản thân và gia đinh. Điều này càng có ý nghĩa hơn bởi Trẩn Thủ Độ đang giữ chức quan cao nhất trong triều và gánh nặng trách nhiệm háu như đồ lên vai ông, vì vua còn nhỏ tuổi. Có thể nói Trần Thủ Độ iả một vị quan đầu triều gương mẫu, xứng đáng là chỗ dựa của quốc gia và đáp ứng được lòng tin cậy của nhân dân.
Sử gia Ngô Sĩ Liên khi viết vổ Thái sư Trần Thủ Độ dù cổ tỏ ra rất khách quan nhưng bằng những câu văn đẩy cảm xúc, tác giả đã thể hiện lòng khâm phục và ca ngợi Trần Thủ Độ. ông là tấm gương sáng để lại nhiều bài học bổ ích, thiết thực cho hậu thế. Tên tuổi và tài năng của ông được lưu danh muôn thuở.
Phân tích tác phẩm Thái sư Trần Thủ Độ (Ngô Sĩ Liên) – Bài làm số 2
Bài Thái sư Trần Thủ Độ là một bài bình phẩm nhân vật lịch sử rất đặc sắc của Ngô Sĩ Liên trong Đại Việt sử kí toàn thư. Nhân cách cao đẹp của Trần Thủ Độ để lại bao ấn tượng sâu sắc trong tâm hồn của con người Việt Nam hơn 700 năm qua.
Mấy dòng đầu ghi rõ ngày, tháng, năm xảy ra sự kiện: Giáp Tí (1264), năm thứ 7 niên hiệu Thiên Long đời vua Trần Thánh Tông, mùa xuân, tháng giêng. Trần Thủ Độ mất, thọ 71 tuổi. Ông được vua truy tặng '‘Thượng phụng Thái Sư Trung Vũ đại vương”. Thượng phụ: Cha vua; Thái sư là thầy của vua; Thượng phụ Thái sư là danh hiệu, tước hiệu cao quí tột bậc của thời phong kiến.
Đoạn văn thứ hai đánh giá phẩm chất, công lao, uy quyền của Trần Thủ Độ:
– Không có học vấn nhưng tài lược hơn người.
– Từng làm quan dưới thời Lí và được mọi người suy tôn.
– Nhờ mưu trí của Trần Thủ Độ mà họ Trần giành được ngôi báu từ tay nhà Lí: “Thái Tông lấy được thiên hạ”.
– Uy quyền của ông “hơn cả vua” cho nên nhà nước phải nhờ cậy.
Đoạn văn thể hiện một lối viết tinh chắc, vừa nêu bật sự kiện vừa biểu lộ khen, chê, đánh giá.
Phần thứ hai nêu bốn sự việc rất điển hình để khẳng định và ca ngợi nhân cách trung thực, cương trực và lòng chí còng cua Trần Thủ Độ. Sự kiện nào cũng đầy kịch tính.
Vị quan đàn hặc về việc “Trần Thủ Độ quyền hơn cả vua”…, ta cứ ngỡ người ấy sẽ bị Trần Thủ Độ báo thù và chém đầu. Nhưng ông ta đã nói rõ:
“Đúng như lời người ấy nói”, rồi ông còn thưởng tiền lụa cho anh ta vì anh ta là người trung trực, dám nói lên một sự thực, dám dũng cảm đàn hặc trước mặt vua về sự “lộng quyền” của vị Thái sư. Câu nói và hành động của vị Thái sư thể hiện một nhân cách lớn: trung thực coi trọng sự thực, đánh giá cao công của người đàn hặc.
Sự việc thứ hai là người quân hiệu không cho Linh Từ Quốc mẫu (vợ Trần Thủ Độ) ngồi kiệu đi qua chỗ thềm cấm. Khi vợ khóc và nói là bị bọn quân kiệu “khinh nhờn”. Trần Thủ Độ giận, sai đi bắt. Anh ta chắc là mình phải chết. Nhưng sau khi nghe anh ta đem sự thực trả lời điều “vặn hỏi”: của mình, Thái sư đã hết lời khen: “Ngươi ở chức thấp mà biết giữ phép như thế, ta còn trách gì nữa?”. Rồi ông lấy tiền vàng lụa thưởng cho người quân hiệu. Sự việc đó cho thấy Trần Thủ Độ là một người trung thực, cương trực, giữ gìn và tôn trọng các luật lệ chung của phép nước. Cách hành xử ấy rất đáng làm gương cho những người quyền quý trong xã hội, cho quan trong triều.
Sự việc thứ ba thật bất ngờ và thú vị. Một người xin được làm câu đương được vợ quan thái sư xin cho anh ta chắc mẩm sự chạy chọt của mình chắc ăn trăm phần trăm. Nhưng khi nghe Trần Thủ Độ nói là “chỉ chặt một ngón chân" thì anh ta “kêu van xin thôi”, hồi lâu mới được tha. Tưởng xin là câu đương để có một chút danh phận giữa chốn đình trung mà kiếm chút lộc, ai ngờ chuốc lấy tai họa! Câu chuyện diễn ra như một màn bi hài kịch. Cách chúng ta hơn bảy thế kỉ, Trần Thủ Độ là người kiên quyết nhất chống tiêu cực: chống chạy chức, chạy quyền. Sau vụ xin làm câu đương của người nọ, “từ đấy không ai dám đến nhà (Quốc Mẫu) thăm riêng nữa”.
Có lẽ nhân chuyện này mà dân gian mới có lời vè:
“Câu đương ăn nhặn gì đâu,
Ngón chân bị chặt thì đau vô cùng!”
Hay:
“Câu đương ăn nhặn gì đâu,
Ngón chân bị chặt từ sau xin chừa!”.
Câu đương mà giải nghĩa là: chức quan nhỏ, lo liệu công việc trong thôn xã, là không đúng. Câu đương: người chức dịch trong làng, giữ việc bắt bí giải tông (Chú thích của “Đại Việt sử kí toàn thư” – in lần thứ hai).
Sự việc thứ tư cho thấy Trần Thủ Độ rất chí công, đặt quyền lợi triều đình, quốc gia lên trên hết. Vua Thái Tông muốn cho An Quốc làm tướng (Tể tướng), nhưng Thái sư đã nói:
“An Quốc là anh thần, nếu là người hiền thì thần xin nghỉ việc,còn như cho thần là hiền như An quốc thì không nên cửa An Quốc. Nếu anh em cùng là tướng (Tể tưởng) thì việc trong triều đình sẽ ra sao?”
Tình anh em là trọng, nhưng chuyện đại sự quốc gia còn trọng hơn. Ngu, hiền (có đức độ tài năng hơn người) là tiêu chuẩn được giao phó trọng trách của nhà nước. Câu nói của Trần Thù Độ đến nay vẫn còn nguyên giá trị.
Phần thứ ba là lời bình tổng quát về nhân vật lịch sử Trần Thủ Độ. Ý nào cũng đúng đắn và sâu sắc.
Thái sư là một con người tận trung với nước, tận hiếu với dân, với sự nghiệp đế vương của họ Trần “phàm công việc gì là không để ý”.
Công lao của ông vô cùng to lớn“giúp nên nghiệp vương, giữ được tiếng tốt cho đến chết’’. Ông đã có tài mưu lược tìm ra mọi cách để giành ngôi báu từ tay nhà Lí qua tay nhà Trần. Trong cuộc kháng chiến chống giặc Mông – Nguyên lần thứ nhất, ông là trụ cột của Triều đình và quốc gia Đại Việt. Câu nói nổi tiếng của ông mãi mãi là khí phách của người anh hùng, biểu tượng cho hào khí Đông A: “Đầu thần chưa xuống đất, xin Bệ hạ đừng lo!” Lòng yêu nước, tính trung thực, cương trực, và đức chí công của ông vằng vặc như ánh sao băng, được hậu thế ngưỡng mộ.
Khi ông còn sông đã lập sinh từ. Vua Trần Thái Tông có làm bài văn về vương triều nhà Trần. Ngô Sĩ Liên đã dành những lời tốt đẹp nhất, nêu những sự kiện lịch sử hùng hồn nhất làm sống dậy công đức vô cùng to lớn của vị Thái sư. Bài bình luận này có giá trị và ý nghĩa như một tượng đài kì vĩ.
Hồng Loan tổng hợp
Bài viết liên quan
- Phân tích tác phẩm Chạy giặc (Nguyễn Đình Chiểu) – Văn hay lớp 11
- Thuyết minh về quần thể di tích cố đô Huế – Văn hay lớp 12
- Giải thích và chứng minh luận điểm “Lòng khiêm tốn có thể coi là …” – Văn hay lớp 7
- Nghị luận xã hội về câu nói: Đất nước càng có nhiều nhân tài, đất nước càng hưng thịnh – Văn hay lớp 12
- Chứng minh ý kiến “Thiên nhiên là bạn tốt của con người. …” – Văn hay lớp 7
- Chứng minh rằng đời sống của chúng ta sẽ bị tổn hại rất lớn … – Văn hay lớp 7
- Phân tích tác phẩm Lão Hạc – Văn hay lớp 8
- Thuyết minh vể Lễ hội Cầu ngư – Văn hay lớp 12