Phân tích hồi thứ 14 rút trong tác phẩm Hoàng Lê Nhất Thống Chí – Văn mẫu hay lớp 9
Xem nhanh nội dung Phân tích hồi thứ 14 rút trong tác phẩm Hoàng Lê Nhất Thống Chí – Bài làm 1 của một học sinh giỏi Văn tỉnh Hạ Long Tác phẩm đã khái quát một giai đoạn lịch sử với bao biến cố dữ dội đẫm máu từ khi Trịnh Sâm lên ngôi chúa đến khi Gia Long chiếm Bắc Hà ...
Xem nhanh nội dung
Phân tích hồi thứ 14 rút trong tác phẩm Hoàng Lê Nhất Thống Chí – Bài làm 1 của một học sinh giỏi Văn tỉnh Hạ Long
Tác phẩm đã khái quát một giai đoạn lịch sử với bao biến cố dữ dội đẫm máu từ khi Trịnh Sâm lên ngôi chúa đến khi Gia Long chiếm Bắc Hà (1868 – 1802) như: loạn kiêu binh, triều Lê Trịnh sụp đổ, Nguyễn Huệ đại phá quân Thanh, Gia Long lật đổ triều đại Tây Sơn.
Hoàng Lê nhất thông chi là cuốn lịch sử chương hồi của một số tác giả trong Ngô gia văn phái. Tác phẩm đã khái quát một giai đoạn lịch sử với bao biến cố dữ dội đẫm máu từ khi Trịnh Sâm lên ngôi chúa đến khi Gia Long chiếm Bắc Hà (1868 – 1802) như: loạn kiêu binh, triều Lê Trịnh sụp đổ, Nguyễn Huệ đại phá quân Thanh, Gia Long lật đổ triều đại Tây Sơn…
Sự sụp đổ không thể cưỡng nổi của triều đại Lê Trịnh và khí thế sấm sét của phong trào nông dân Tây Sơn là hai nội dung lớn được phản ánh qua Hoàng Lê nhất thống chí. Đặc biệt Hồi thứ mười bốn đã thể hiện một cách hào hùng sức mạnh quật khởi của dân tộc trước thù trong giặc ngoài và khắc họa hình tượng Nguyễn Huệ, người anh hùng dân tộc đã làm nên chiến công Đống Đa bất tử.
Ta như được sống lại những giờ phút lịch sử nghiêm trang và hào hùng của dân tộc vào cuối năm Mậu Thân (1788), đầu năm Kỉ Dậu (1789) khi Lê Chiêu Thống đã rước 29 vạn quân Thanh do Tôn Sĩ Nghị cầm đầu, kéo sang xâm lược nước ta. Tác giả Hoàng Lê nhất thông chí mở đầu hồi mười bốn đã viết:
Đánh Ngọc Hồi, quân Thanh bị thua trận,
Bỏ Thăng Long, Chiêu Thống trốn ra ngoài.
Vị cứu tinh của dân tộc thuở ấy là Nguyễn Huệ, người anh hùng áo vải đất Tây Sơn. Ngày 22 tháng 11 năm Mậu Thân, Tôn Sĩ Nghị chiếm Thăng Long. Tướng Ngô Văn Sở lui binh về án ngữ tại Tam Điệp. Ngày 24, Nguyễn Huệ được tin cấp báo, và ngày 25 lên ngôi hoàng đế "tế cáo trời đất cùng các thần sông, thần núi", lấy niên hiệu là Quang Trung, Nguyễn Huệ đốc xuất đại binh ra Bắc. Ngày 29 đến Nghệ An tuyển thêm một vạn quân tinh nhuệ. Nguyễn Huệ tổ chức duyệt binh truyền hịch đánh quân Thanh, vạch trần âm mưu xâm lược của bọn chúng "mưu đồ lấy nước Nam ta đặt làm quận huyện…; kêu gọi tướng sĩ "đồng tâm, hiệp lực, để dựng nên công đức”. Nhà vua chia quân làm 5 doanh (tiền, hậu, tả, hữu, trung quân) rồi thần tốc ra Tam Điệp hội quân với cánh quân Ngô Văn Sở. Quang Trung chia đại quân làm 5 đạo, cho quân ăn tết Nguyên đán trước, "bảo kín" với các tướng soái đến tối 30 thần tốc đánh quân Thanh, hẹn đến ngày mồng 7 năm mới thì vào thành Thăng Long "mở tiệc ăn mừng". Qua đó, ta thấy rõ Quang Trung có tầm nhìn chiến lược sâu rộng, sáng suốt, giàu mưu lược, nêu cao tinh thần quyết chiến, quyết thắng lũ xâm lăng. Các sự kiện như lên ngôi hoàng đế ở Phú Xuân, tuyển quân và truyền hịch ở Nghệ An, cho quân sĩ ăn Tết Nguyên đán trước; đặc biệt, nhà vua đã lạo nên yếu tố bất ngờ, đánh quân Thanh vào đúng dịp tết khi chúng "chỉ chăm chú vào việc vến tiệc vui mừng, không hề lo chi đến việc bất trắc' đã thể hiện tinh thần quyết đoán của một thiên tài quân sự khi Tổ quốc lâm nguy.
Tác giả mượn lời người cung nhân cũ để làm nổi bật tính cách anh hùng phi thường của Nguyễn Huệ khi trận Ngọc Hồi chưa xảy ra:
"Không biết rằng, Nguyễn Huệ là một tay anh hùng lão luyện, dũng mãnh vù có tài cầm quân. Xem hắn ra Bắc vào Nam, ẩn hiện như quỷ thần, không ai có thể lường biết. Hắn bắt Hữu Chỉnh như bắt trẻ con, giết Văn Nhậm như giết con lợn không một người nào dám nhìn thẳng vào mặt hắn. Thấy hắn trỏ tay đưa mắt là ai nấy đã phách lạc hồn xiêu, sợ hơn sấm sét".
Nguyễn Huệ là một anh hùng có tài điều binh khiển tướng, trù hoạch quân mưu như thần. Ra quân đánh thắng như chẻ tre. Bất sống toàn bộ toán quân Thanh đi do thám tại Phú Xuyên, dùng mưu gọi loa, vây kín làng Hà Hồi, quân Thanh "rụng rời sự hãi" phải đầu hàng. Dùng kì mưu kết ba tấm ván thành một bức bên ngoài lấy rơm dấp nước phủ kín, tất cả là 20 bức; mỗi bức có 20 dũng sĩ, lưng dắt dao ngắn dàn thành trận chữ "nhất" xông thẳng vào đồn Ngọc Hồi. Súng quân Thanh bắn ra đều vô hiệu. Vua Quang Trung cưỡi voi đốc chiến. Sáng mồng 5, đồn Ngọc Hồi bị tiêu diệt, Sầm Nghi Đống phải thắt cổ tự tử, hàng vạn giặc bị giết "thây nằm đầy đồng, máu chảy thành suối, quân Thanh đại bại". Vua đã đặt phục binh tại đê Yên Duyên và Đại Áng, hợp vây quân Thanh tại Quỳnh Đô, giặc trốn xuống đầm Mực bị quân Tây Sơn "lùa voi cho giày đạp, chết đến hàng vạn người". Thừa thắng, vua Quang Trung tiến vào giải phóng kinh thành Thăng Long đúng trưa mồng 5 tháng giêng năm Kỉ Dậu, trước kế hoạch 2 ngày. Có tài thao lược vô song, có tin vào sức mạnh chiến đấu và tinh thần yêu nước của tướng sĩ, của nhân dân ta mới có niềm tin tất thắng ấy. Chiến thắng Đông Đa 1789 đã làm cho tên tuổi người anh hùng dân tộc Nguyễn Huệ sáng ngời mãi ngàn thu.
Các tác giả Hoàng Lê nhất thống chí đã từng ăn lộc của nhà Lê, vốn có cảm tình với vua Lê nhưng trước họa xâm lăng và chiến công Đống Đa oanh liệt, họ đã đứng trên lập trường dân tộc, đã viết nên những trang văn đẹp nhất, dựng lên một tượng đài kì vĩ ,tráng lệ về người anh hùng Nguyễn Huệ. Chỉ mấy năm sau, trong bài Ai tư vãn khóc vua Quang Trung qua đời, Ngọc Hân công chúa đã viết:
Mà nay áo vải cờ đào,
Giúp dân dựng nước xiết bao công trình.
Đó là hình tượng người anh hùng Quang Trung trong văn học mà ta cảm nhận được với bao ngưỡng mộ.
Bằng biện pháp nghệ thuật tượng phản đối lập, các tác giả Hoàng Lê nhất thống chí đã miêu tả và nêu bật sự thảm bại của quân Thanh xâm lược và số phận nhục nhã, bi đát của bọn vua quan phản nước hại dân.
Chỉ huy 29 vạn quân Thanh sang xâm lược nước ta là Tôn Sĩ Nghị. Sau khi chiếm được Thăng Long "không mất một mũi tên, như vào chỗ không người" hắn vô cùng "kiêu căng buông tuồng". Bon tướng tá chỉ biết "chơi bời tiệc tùng, không hè đề ý gì đến việc quân". Chúng huênh hoang tuyên bố là đầu xuân sẽ kéo quân thẳng đến sào huyệt của Tây Sơn để "bắt sống không một tên nào lọt lưới!".
Thế nhưng, trước sức tiến công như vũ bão của Nguyễn Huệ, bao đồn giặc bị đánh tơi bời. Đồn Hà Hồi phải đầu hàng. Đồn Ngọc Hồi bị đập nát, Sầm Nghi Đống phải tự tử. Hàng vạn giặc phải bỏ mạng ở đầm Mực, Tôn Sĩ Nghị "sợ mất mật, ngựa không kịp chói yên, người không kịp mặc giáp… nhằm hướng Bác mà chạy". Quân tướng "hoảng hồn, tan tác bỏ chạy". Chúng tranh nhau chạy, xô đẩy nhau rơi xuống sông, cầu phao đứt, hàng vạn giặc bị rơi xuống nước mà chết, đến nỗi nước sông Nhị Hà bị tắc nghẽn. Bọn sống sót chạy tháo thân về nước!
Bọn Việt gian bán nước cầu vinh như Lê Chiêu Thống, Lê Quýnh, Trịnh Hiến trên đường tháo chạy trở thành lũ ăn cướp. Chúng bạt vía kinh hồn chạy đến Nghi Tàm, "thình lình gặp được chiếc thuyền đánh cá, vội cướp lấy rồi chèo sang bờ bắc".
Tại cửa ải, Lê Chiêu Thống và bọn cận thần "than thở, oán giận chảy nước mắt" trông thật bi đát, nhục nhã. Còn Tôn Sĩ Nghị "cũng lấy làm xấu hổ". Chết nhưng nết không chừa! Lê Chiêu Thống hứa “xin sang hầu tướng quân", nghĩa là tiếp tục rước voi về giày mả tổ! Còn Tôn Sĩ Nghị vẫn khoác lác: “ Nguyễn Quang Trung chưa diệt,việc này còn chưa thôi!".
Có thể nói, hình ảnh lũ xâm lược và bọn bán nước được miêu tả bằng nhiều chi tiết châm biếm, thể hiện một thái độ khinh bỉ sâu sắc.
Đọc Hồi thứ mười bốn (Hoàng Lê nhất thống chí) ta càng thấu rõ tim đen quân xâm lược phương Bắc, âm mưu của thiên triều, và bộ mặt dơ bẩn của bọn Việt gian bán nước. Ta càng thêm tự hào về truyền thống yêu nước, anh hùng của dân tộc ta, vô cùng kính phục và biết ơn Nguyễn Huệ, nhà quânsự thiên tài của Đại Việt.
Nghệ thuật kể chuyện, bút pháp miêu tả nhân vật lịch sử (Nguyễn Huệ, Lê Chiêu Thống, Tôn Sĩ Nghị) rất chân thực và sinh động tạo nên những trang văn hào hùng tuyệt đẹp vừa giàu giá trị văn chương, vừa mang tính lịch sử sâu sắc.
Phân tích hồi thứ 14 rút trong tác phẩm Hoàng Lê Nhất Thống Chí – Bài làm 2
Chuyện vua Quang Trung đại phá quân Thanh, ngày nay, hẳn chẳng mấy ai còn không biết. Người dân Việt từ lâu đã từng thân thiết và tự hào với những cái tên Hà Nội, Ngọc Hồi, Khương Thượng, Đống Đa …
Nhưng hình như không phải ai cũng biết rằng, phần lớn những gì vẫn được truyền tụng về chiến công oai hung đó lại không được lấy trực tiếp từ chính sử. Phải đâu ai cũng tỏ tường rằng những hiểu biết lâu nay về sự kiện đại phá quân Thanh chính ra lại chứa đựng nhiều nhất trong một tác phẩm vẫn được coi là tiểu thuyết, cuốn sách mang tên Hoàng Lê Nhất Thống Chí của dòng họ Ngô Thì ở làng Tả Thanh Oai (nay thuộc về Hà Nội, chứ không phải Hà Tây như nhiều sách đã ghi lầm). Quả thế, nếu muốn được thở hít lại bầu không khí như của những tháng ngày có chiến thắng tưng bừng đó thì không gì hơn là cùng đọc lại Hồi thứ mười bốn trong thiên tiểu thuyết lịch sử của văn phái họ Ngô.
Thế nhưng trong chủ đích của người viết Hoàng Lê Nhát Thống Chí thì Hồi thứ mười bốn này được soạn ra không cốt để ngợi ca chiến thắng của Quang Trung. Ai còn hồ nghi xin đọc lại hai vế đối mở đầu, người làm sách, theo thường lệ của tiểu thuyết chương hồi, vẫn muốn qua đó để tự tóm tắt nội dung của toàn hồi truyện:
Đánh Ngọc Hồi, quân Thanh bị thua trận
Bỏ Thăng Long, Chiêu Thống trốn ra ngoài.
Rõ ràng, theo tác giả, đây là một đoạn truyện kể về vua Lê, ông nhìn từ phía vua Lê, theo đúng tinh thần "Hoàng Lê thống nhất". Nên trong đoạn trích này của thiên tiểu thuyết, nếu có ai được gọi chỉ bằng một chữ "vua" thì kẻ đó nhất định phải là Lê Chiêu Thống , nếu có quân đội nào được gọi là "nghĩa binh" (quân chính nghĩa) thì đó cũng chỉ có thể là "quân đội nhà Lê (trong khi lực lượng thực đáng gọi là nghĩa quân, nghĩa binh, quân đội Tây Sơn lại chỉ được gọi chung là "quân lính", "quân sĩ", không hề có chữ "nghĩa" nào bên cạnh). Vào khoảng cuối đoạn trích, người viết còn ghi lại chi tiết kể về cuộc gặp gỡ giữa mẹ con cua Lê với người thổ hào tại một sơn trại thuộc vùng Hòa Lạc. Đấy không phải một sự cố ý tạo ra tình huống hài hước, để người đọc có dịp nhaọ cười một kẻ ngu trung. Trái lại, tác giả dường như đã gắng công để cuộc gặp gỡ có ánh lên vẻ cao đẹp của một tấm lòng thần tử tận tụy, trung trinh, ngay cả khi đấng quân vương của mình đang cơn khốn khó. Trong chi tiết này, thấy có cả mừng tủi lệ rơi, cả cơm gà vội vàng thết đãi, cả lối tắt đưa vua chạy loạn … tác giả như cố nhắn rằng: đối với cái triều đại đa tàn kia, lòng người còn chưa nỡ bỏ, và dẫu vua Lê có lâm vào hoạn nạn thì trong đời vẫn chưa hết mối cô trung …
Có nghĩa là, xét về mặt lập trường chính trị, tác giả Hoàng Lê Nhất Thống Chí đứng về phía đối địch với phong trào khởi nghĩa Tây Sơn. Song may mắn làm sao họ Ngô đã không thể thắng chính mình. Mối tình cảm chính trị ấy không thắng nổi tình yêu sự thật, không thắng nổi lương tri, lương tâm của người biết nhận ra sự thật và tha thiết muốn nói lên sự thật. Tình cảm chính trị ấy đã không thể chuyển hóa thành sức mạnh văn chương, không đủ sức chi phối nội dung của văn chương. Không biết người viết Hồi thứ mười bốn của Hoàng Lê Nhất Thống Chí có ngờ rằng, với công trình nghệ thuật này, mình đang viết bản án dành cho chính cái chế độ mình vẫn hằng tôn kính? Và con người phù Lê ấy liệu có tự giác nhận ra rằng mình đang tấu lên khúc ca dành cho những người đang kết thúc số mệnh lịch sử của chính nhà Lê.
Nhưng đấy chính là sự thật. Một sự thật vô cùng thú vị khi ta tiếp nhận, thưởng thức và suy ngẫm về tác phẩm Hoàng Lê Nhất Thống Chí.
Tuy nhiên tác giả của những trang viết ta đang nói tới là một nhà văn, một người làm nghệ thuật. Tư cách nghệ sĩ không cho phép ông kể sự thật một cách phiến diện, giản đơn. Hồi chuyện được bắt đầu từ phía có vẻ như ngược lại. Đội quân xâm lược nhà Thanh thoạt nhiên được nói tới cứ y như một đạo hung binh, với sức mạnh lay thành phá ải, không gì có thể đương đầu: "Lại nói Tôn Sĩ Nghị sau khi đem quân ra cửa ải, xuyện rừng vượt núi như giẫm đất bằng, ngày đi đêm nghỉ, không phải lo lắng gì, kéo thẳng một mạch đến thành Thăng Long, không mất một mũi tên, như vào chõ không người". Cứ xem đây thì chống chọi lại một đạo binh nhưu thế này khác nào đem trứng chọi đá? Chưa hết, ngay liền sau đó, tác giả lại bồi thêm: "Từ xưa các nhà cầm quân chưa có khi nào được dễ dàng như thế".
Nhưng sự dễ dàng chưa từng có dó, chính nó lại khiến cho những người từng trải, biết suy nghĩ có lý để mà ngờ vực. Từ rất lâu trước đấy, người xưa đã hiểu rằng cái gì đến độ thái quá, đến tột cùng thì thế nào cũng gặp phải sự biến. "Cùng tắc biến" (đến tận cùng thì phải thay đổi). Nhưng mà biến theo chiều trái lại. Và cái mầm mống của sự biến ấy, tác giả đã không để cho người đọc phải chờ đợi lâu. Cổ nhân từ xưa đã dạy: "thắng không kiêu", Nhưng đạo quân của Tôn Sĩ Nghị chưa kịp thắng trận nào cho ra thắng đã quá vội kiêu: "quân lính các đồn tự tiện bỏ cả đội ngũ, đi lại lang thang, không có kỷ luật gì cả … Bọn tướng tá cũng ngày ngày chơi bời tiệc tùng, không hề để ý điến việc quân". Mầm mống của bại vong đã được nứt nanh từ đây.
Chuyện trở nên rõ ràng hơn qua lời của người cung nhân cũ đến từ phủ Trường Yên. Không rõ những lời nói ấy về mặt sử học thì chính xác và sâu xa tới mức nào, chứ về mặt văn chương thì chi tiết này cực thú. Không hẳn chỉ vè những lời nói của người từng là cung nữ ấy đã phác họa ra đại cục, thắng lợi của vua Lê, nếu có, cũng chưa mang ý nghĩa gì lớn, mà mối nguy cho triều Lê thì quả đã như mồi lửa âm ỉ bên trong trường vách. Cũng không hẳn chỉ vì những câu nói ấy đã sớm đem lại ấn tượng về một Nguyễn Huệ bách thắng, một Nguyễn Huệ kiêu hùng, từ trước khi Nguyễn Huê bằng thịt bằng xương xuất hiện trên chương truyện: Xem hắn ra Bắc vào Nam, ẩn hiện như quỷ thần, không ai có thể lường biết. Hắn bắt Hữu Chĩnh như bắt trẻ con, giết Văn Nhậm như giết con lợn … Thấy hắn trở tay, đưa mắt là ai nấy đều phách lạc hồn xiêu, sợ hơn sợ sấm sét. E rằng chẳng mấy lâu nữa hắn lại trở ra, tổng đốc họ Tôn đem thứ quân nhớ nhà kia mà chống lại, thì địch sao cho nổi"? Âm vang của một chiến thắng hào hùng nghe như đã văng vẳng dần lên từ lời cảnh báo của cung nhân.
Cái thú văn chương trong chi tiết về người cung nhân còn có thể nhìn ra từ chỗ; nó cho thấy, hóa ra, một phụ nữ tầm thường, hèn mọn, bị vua ruồng bỏ, xa cung cấm đã lâu, thế mà còn thông hiểu binh tình gấp bội phần so với một Thái hậu "mẫu ghi thiên hạ" cao sang, quyền quý. Rồi đến khi bà Thái hậu đem chuyện ấy nói với vua, vua nói lại vơi Tôn Sĩ Nghĩ thì ta còn vỡ lẽ: những kẻ nắm binh quyền dương dương tự đắc kia, còn không có nổi một kiến thức đàn bà!
Vậy là một người phụ nữ vô danh cũng đã thừa khả năng mở mắt cho cả một bộ sâu triều đình, vua quan, tướng tá về cách đánh, tình thế, cách cầm quân. Lời nói của cung nữ xưa quả đã khiến Thái hậu phải "giật mình" và vua Lê "hoảng sợ". Nhưng cũng chỉ đến thế thôi. Tác giả Hoàng Lê Nhất Thống Chí nhận ra và đã muốn chúng ta cùng thấu hiểu: Không gì có thể đem lại cho bè lũ bạc nhược kia sức mạnh trong ý chí và hành động. Bọn chúng đã không hành động, dù cho có lo lắng có giẫn dữ trách mắng nhau. Bởi vì nỗi lo âu, lời quát nạt rồi cũng chóng qua đi. Và bọn người đó lại tiếp tục nằm ườn ra trên lạc thú, lười nhác tự dối lừa mình trong ý nghĩ: "Cần phải tính toán cho chu đáo không thể hấp tấp và uể oải đợi chờ đến sang xuân, vào ngày mùng sáu thì sẽ xuát quân, nhưu vậy cũng không còn xa gì nữa"…
Nhà văn đã cho ta thấy một mầm mống bại vong nữa của bè lũ Lê Chiêu Thống. Nó nằm trong bản chất của một chế độ đã không còn khả năng hành động, không còn đủ sức manh, ý chỉ, quyết tâm để mà hành động. Và trong khi bọn cướp nước bán nước cứ đờ đẫn đi, rã rời ra trong kiêu căng và trễ nãi thì người anh hùng áo vai Tây Sơn lại khẩn trương làm được một núi việc khổng lồ.Quả thế, nếu quân Thanh không làm gì khác ngoài việc ăn chơi thì quân Tây Sơn lúc nào cũng ráo riết trong chuẩn bị. Phía quân Thanh im lìm bất động : Ngược lại, phía bên Tây Sơn, tình hình chuyển biến từng ngày. Hẳn chẳng phải là tình cờ, khi chuyển mạch truyện sang phía thời gian nối tiếp nhau, dồn dập: "Ngày 20 tháng ấy (tháng 11 âm lịch, năm Mậu Thân 1788). Sớ lui về Tam Điệp thì ngày 24 Tuyết đã vào đến Phú Xuân". Chỉ một tháng sau, Nguyễn Huệ đã làm xong mọi việc đắp khắp trong ngoài" và "hạ lênh xuất quân, hôm ấy, nhằm ngày 25 tháng chạp". Bốn ngày sau "ngày 29 đến Nghệ An". Hơn một vạn quân được quân kén ngay sau đó, lập tức được đưa vào cơ ngũ chỉnh tề. Để rồi ngày 30. Quân đến Tam Điệp và ngay tối hôm ấy, năm cánh hùng binh tràn ngập Bắc Hà, sau khi đã kịp mở tiệc khao quân, ăn Tết trước.
Ta đang được chứng kiến văn chương của Hoàng Lê Nhất Thống Chí một cỗ náy vận hành hết công suất, một hơi thở mạnh mẽ, gấp gáp, một dòng máu chảy sục sôi trong huyết quản, một sức sống rạo rực, bừng bừng, đầy phấn chấn.
Tác giả Hồi thứ mười bốn của Hoàng Lê Nhất Thống Chí thuộc về một dòng họ danh vọng bậc nhất trên đất Bắc. Còn Nguyễn Huệ xuát thân từ một người áo vải miền Trung. Song không vì thế mà văn phái Ngô gia đã vội nhìn lãnh tụ Tây Sơn chỉ như một kẻ võ biền, một kẻ nông phu ít học. Ngược lại, người con của dòng họ Ngô Thì đã vượt qua rất nhiều thành kiến để đem lại cho người đọc sự thật về một Quang Trung giàu tri thức và am hiểu lòng người. Hãy lắng nghe lại một lời hiếu dụ của Hoàng đế Quang Trung trong cuộc duyệt binh lớn ở doanh trấn tại Nghệ An. Có phải là ta đã nhận ra, từ bên dưới lời van, cái hồn phách thiêng liêng của một Nam quốc sơn hà, cái giọng khích lệ nghiêm nghị của một Hịch tướng sĩ, và nhất là cái âm hưởng dõng dạc, chứa đầy căng một niềm bất khuất, tự hào ở những dòng đầu tiên của áng thiên cổ hùng văn Bình ngô đại cáo? Chắc chắn phải là một trí tuệ, một tâm hồn cao rộng lắm mới có thẻ bao gồm và chung đúc được chừng ấy tinh hoa trong một bài nói làm lay động lòng người.
Nhưng tác giả sẽ dần dần cho ta hiểu hai khối tự tin kia nặng nhẹ rất khác nhau. Sự tự tin của quân Thanh là sự tự tin kiêu ngạo và mù quáng, tự tin trong ảo tưởng, không biết gì về đối phương, không biết gì về tình thế. Trong khi niềm tự tin bên phía Tây Sơn được bảo đảm chắc nịch rằng bằng cả một công phu chuẩn bị, từ lực lượng phương tiện chiến đấu đến việc nuôi dưỡng, hun đúc chí quyết tâm. Vì thế, khi chiến dịch thực sự diễn ra thì đó là trận đánh giữa một bên là anh dũng, là hào khí ngất trời với bên kia chỉ thấy hoảng loạn đớn hèn, khiếp nhược.
Cái chiến dịch phi thường ấy, trong Hoàng Lê Nhất Thống Chí, chỉ được kể lại bằng thứ ngôn ngữ rất bình thường của truyện, của văm xuôi. Và kể không dài, khi in vào sách giáo khoa thì cũng còn chưa đầy nổi hai trang giấy. Nhưng đó là hai trang giấy vô cùng quý giá, vì nó đã ghi lại không chỉ thật chân thực mà còn thật sống động, thật có không khí một chiến thắng cho hôm nay vẫn là thần tốc nhất trong lịch sử Việt Nam.
Người đọc truyện có thể qua đây mà hình dung ra một chuỗi trận đánh nối tiếp nhau, trận nào cũng hùng tráng, trận nào cũng như chớp nhoáng, mà không trận nào giống trận nào. Có trận đánh ở hai sông, sông Gián và sông Thanh Quyết, hết cái gọi là "Nghĩa binh" của Lê Chiêu Thống, lại đến quân Thanh mới trông thấy bóng quân Tây Sơn từ xa đã sợ mất mật mà tự tan, mà tháo chạy, để rồi bị bắt sống không thoát một tên. Rồi tới trận Hà Hồi, binh uy của vua Quang Trung đúng là như sấm động, chỉ cần dạ ran lên cũng lấy được đồn. Chỉ thấy quân Thanh chống cự một lần duy nhất ở Ngọc Hồi, nhưng sự chống cự mới yếu ớt và ngắn ngủi làm sao! Chúng bắn ra để chẳng trúng người nào. Chúng dùng ống phun khói lửa ra, để tự chịu một trận hỏa công khi trời trở gió.
Tác giả Hoàng Lê Nhất Thống Chí càng viết lại càng cho ta thấy rõ sự khác nhau một vực một trời một vực giữa bè lũ Tôn Sĩ Nghị – Lê Chiêu Thống với quân tướng của Quang Trung. Với quân Thanh, sung đạn và ống phun lửa cũng chẳng có nghĩa gì, chẳng làm được việc gì ngoại trừ việc tự đốt mình. Còn với quân Tây Sơn, những vật dụng sinh hoạt thường ngày như ván, như rơm cũng đã đủ khiến họ trở nên vô địch. Quân Thanh chỉ chạy thôi cũng đã chết hàng vạn đứa, như Mực, Quỳnh Đô. Còn đội quân xung kích của Quang Trung trong trận Ngọc Hồi tính ra chỉ khoảng sáu trăm, vậy mà vẫn phá xong một tuyến phòng thủ kiên cố nhất.
Cái có của lũ cướp nước và bán nước, như người viết tác phẩm này cho thấy, là quân đông, vũ khí nhiều. Nhưng ý chí chiến đấu, tinh thần chiến đấu, sự sẵn sàng cho chiến đấu lại là cái chúng không hề có. Tuyệt nhiên không thấy ở bọn này, dù chỉ một chút cái ý thức mà Trần Quốc Tuấn trước đây đã ghi tạc vào lòng dạ của các tướng dưới quyền mình: "nên nhớ câu "đặt mồi lửa vào dưới đống củi" làm nguy cơ, nên lấy điều "kiềng canh nóng mà thổi rau nguội" làm răn sợ". Tác gia hồi truyện này cho thấy rõ : bọn chúng cứ yên tâm kề cà, dềnh dàng yến ẩm trên đống lửa, không hề lo chi đến việc bất trắc". Để rồi khi lửa cháy lên thì việc độc nhất chúng thật khẩn trương làm không phải là cứu hỏa, mà là bỏ chạy cho nhanh. Hồi thứ mười bốn của Hoàng Lê Nhất Thống Chí thực tế đã thành tấm bia miệng còn vững bền gấp hàng chục, hàng trăm lần bia đá, đêr ghi lại cho muôn đời sau chê cười sự hèn nhát của một lũ vua quan tướng tá. Những chi tiết cụ thể, sinh động được nêu ra ở đây, quả thật hùng hồn hơn mọi lời nghị luận. Quang Trung là vua, nhưng vẫn tự mình cưỡi voi đốc chiến. Còn Tôn Sĩ Nghị, thân làm tổng chỉ huy, nhưng chưa xung trận đã sợ hãi tháo chạy, vội vã tới mức "Ngựa không kịp đóng yên, người không kịp mặc giáp". Quân lính dưới quyền cũng không hề chiến đấu mà chỉ biết chạy theo, để rồi sự hèn nhát chịu đòn trừng phạt cuối cùng: không ai đánh mà quân chết đuổi nhiều tới mức một dòng sông lớn như Nhị Hà mà nước cũng phải tắc nghẽn, không chảy nổi.. Mẹ con vua Lê thì bị bỏ rơi, phải qua sông bằng thuyền đánh cá, leo đào mãi mới gặp được Tôn Sĩ Nghị, thế mà vẫn phải chịu nhục nhã tỏ ra sự tri ân: "Đội ơn tướng quân … Đều là ơn của tướng quân ban cho!".
Người viết Hoàng Lê Nhất Thống Chí, dù muốn dù không, thì vẫn phải nhận rằng: sức mạnh duy nhất trong trận chiến chỉ có thể tìm thấy từ phía của quân đội Tây Sơn.. Sức mạnh ấy có nguồn gốc ở nhân dân. Dùng ván phủ rơm dấp nước kết lại thành lá chắn, thành tường chống đạn để xung phong, một sự khôn ngoan kì lạ thế không thể được sinh ra từ bọn người hoa xa hoa, quyền quý. Và sự phấn khích, đồng lòng muôn người như một, không ngại khó nhọc, không quản hi sinh, tình cảm ấy chính là ánh lửa rực rỡ cháy lên từ tinh thần yêu nước của khối quần chúng nhân dân vĩ đại. Sức mạnh vô địch của nhân dân cộng với tài trí vô song của người lãnh đạo đã làm cho đội quân của những người áo vải bình thường phút chốc lớn vụt lên sánh ngang thần thánh, uy thế chấn động trời đất, ẩn hiện, biến hóa xuất quỷ nhập thần, "tướng ở trên trời xuống, quân dưới đất chui lên". Và Hồi thứ mười bốn này của Hoàng Lê Nhất Thống Chí sẽ được thực sự trở thành một khúc ca, với những câu văn cứ làm như ta phải nhớ không nguôi tới Bình Ngô Đại Cáo.
Rồi trong hồi truyện ấy, tác giả sẽ còn cám cảnh cho Lê Chiêu Thống khi phải chạy khỏi Thăng Long. Rồi tác giả sẽ còn khép hồi truyện này bằng hai dòng thơ, như muốn gợi rất nhiều lâm li, ai oán:
Bờ cõi xong bề tính liệu
Nước non buồn nỗi lúc chia ly
Nhưng có lẽ họ Ngô đã hoài công. Tình cảm xót xa có lẽ đã không thể truyền vào lòng của số đông người đọc truyện. Bởi trước đó, người viết đã quá thành công trong việc dựng lên chân dung của một triều đại không còn sức sống: một triều đại cần phải chia tay, phải đưa tiễn xuống mồ một cách vui vẻ chứ không phải một cách buồn đau. Người viết cũng đã quá thành công trong việc tạo ra cảm giác: chiến thắng oai hùng này quả thật là thuộc về người xứng đáng, quân khởi nghĩa Tây Sơn dưới sự dẫn dắt của vị anh hùng dân tộc Quang Trung
Phân tích hồi thứ 14 rút trong tác phẩm Hoàng Lê Nhất Thống Chí – Bài làm 3
Hoàng Lê nhất thống chí là cuốn tiểu thuyết chương hồi ghi lại những sự kiện lịch sử quan trọng của xã hội phong kiến Việt Nam ba mươi năm cuối của thế kỉ XVIII, nửa đầu thế kỉ XIX. Các tác giả Ngô Gia Văn Phái không chỉ ghi lại những sự kiện lịch sử tiêu biểu mà còn dựng lên được bức chân dung về người anh hùng dân tộc Quang Trung Nguyễn Huệ. Hình tượng này được thể hiện một cách sắc nét thông qua hồi mười bốn của tác phẩm.
Ngô Gia Văn Phái đã tái hiện và điển hình hóa nhân vật lịch sử Quang Trung Nguyễn Huệ thành một biểu tượng anh hùng, có công lao lớn đối với đất nước. Trước hết, Nguyễn Huệ hiện lên là một con người mạnh mẽ, quyết đoán, xông xáo, nhanh gọn có chủ đích. Ngay khi nghe tin quân Thanh tấn công vào miền Bắc của nước ta, Nguyễn Huệ đã nhận định được mối nguy hại của quân thanh và sự cấp thiết của việc đánh đuổi nên ông đã quyết định lên ngôi hoàng đế và thân chinh dẫn quân ra Bắc.
Quang Trung Nguyễn Huệ là một vị tướng tài ba, có tài thao lược, ông đích thân đốc thúc đại quân, trực tiếp lãnh đạo cuộc tấn công ra Bắc. không chỉ vậy,Nguyễn Huệ còn là một người biết trọng dụng hiền tài. Trước quyết định tấn công ra Bắc, ông đã cho mời vào dinh La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp, một người nổi tiếng học rộng tài cao lúc bấy giờ. Hành động này của Quang Trung cho ta thấy ông là một vị minh quân sáng suốt, mặc dù nắm trong tay quyền quyết định nhưng ông vẫn đặt việc trọng đại của đất nước lên trên hết.
Lời khẳng định của La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp cũng đã thể hiện được sự sáng suốt cũng như khả năng chiến thắng của toàn quân: “…Bây giờ trong nước trống không, lòng người tann rã. Quân Thanh ở xa tới đây, không biết tình hình quân ta yếu hay mạnh, không hiểu rõ thế nên đánh hay nên giữ ra sao. Chúa công ra đi chuyến này, không quá mười ngày, quân thanh sẽ bị dẹp tan”.
Xuất thân từ nhà tướng, Nguyễn Huệ vô cùng linh hoạt trong vệc tổ chức binh lính, từ việc chiêu mộ quân, mở những cuộc duyệt binh lớn ở các doanh trấn, bố chí quân đội thành bốn doanh chính: tiền, hậu,tả, hữu còn những binh lính mới chiêu mộ thì làm trung quân. Qua việc tổ chức quân ta có thể thấy Quang Trung Nguyễn Huệ là một vị tướng tài ba, bố trí binh lính quy củ, có tổ chức, đây cũng là một trong những nguyên nhân quan trọng đưa đến thắng lợi vang dội trước hai mươi vạn quân Thanh.
Trước cuộc hành quân, để động viên tinh thần chiến đấu của binh lính, Nguyễn Huệ đã đưa ra chỉ dụ trước toàn binh lính, ông nói về âm mưu cùng thủ đoạn thâm độc của quân nhà Thanh,nêu ra những tấm gương chống giặc lừng lẫy trong lịch sử từ đó đưa ra lời động viên, dăn đe những binh lính chưa có tinh thần, ý chí đánh giặc: “…Từ đời nhà Hán đến nay, chúng đã mấy phen cướp bóc nước ta, giết hại nhân dân, vơ vét của cải, người mình không thể chịu nổi, ai cũng muốn đuổi chúng đi…Các người đều là những kẻ có lương tri, lương năng, hãy nên cùng ta đồng tâm hiệp lực, để dựng lên công lớn. Chớ có quen thói cũ, ăn ở hai lòng, nếu như ta phát giác ra, sẽ bị giết chết ngay tức khắc, không tha một ai, chớ bảo ta không nói trước”.
Mưu lược hơn người của Quang Trung Nguyễn Huệ còn thể hiện ở cuộc tiến công thần tốc ra Bắc cùng chiến thuật tinh vi trong cuộc tấn công quân Thanh ở Ngọc Hồi. Trong cuộc chiến, vua Quang Trung đã cho người lấy sáu chục tấm ván, cứ ghép liền ba tấm làm một bức, bên ngoài lấy rơm dấp nước phủ kín, tất cả là hai mươi bức. Cuộc chiến diễn ra ác liệt, quân Thanh quá hoảng loạn trước sự xuất hiện bất ngờ cùng sức mạnh của quân ta mà dẫm đạp lên nhau chạy về nước, đại quân toàn thắng.
Không chỉ xây dựng hình ảnh người anh hùng áo vải Quang Trung Nguyễn Huệ mà các tác giả nhà Ngô Gia Văn Phái còn tái hiện lại sinh động tình cảnh thảm hại,nhục nhã của lũ cướp nước Tôn Sĩ Nghị và vua tôi Lê Chiêu Thống. Chúng vẫn luôn chủ quan về sự hùng mạnh của đội quân mình mà không ngờ được sức công phá khủng khiếp của quân ta, thất bại ở Ngọc Hồi khiến chúng sợ hãi mà chạy về nước, vua tôi Lê Chiêu Thống để bảo toàn tính mạng cũng chạy theo thuyền cá về phía Bắc lẩn trốn.
Tác phẩm Hoàng Lê nhất thống chí, đặc biệt là hồi mười bốn Đánh Ngọc Hồi, quân thanh thua trận, bỏ Thăng Long, Chiêu Thống trốn ra ngoài, tác giả Ngô Gia Văn Phái đã dựng lên được không khí ác liệt mà không kém phần hào hùng của dân tộc ta trong một giai đoạn lịch sử đặc biệt, cùng với đó là sự ca ngợi chiến thắng của vua Quang Trung.
Phân tích hồi thứ 14 rút trong tác phẩm Hoàng Lê Nhất Thống Chí – Bài làm 4
Hoàng Lê nhất thống chí là tác phẩm do một số người cùng trong dòng họ Ngô Thi viết. Có thể hai tác giả chính là Ngô Thì Chí và Ngô Thì Du viết trong những thời điểm nối tiếp nhau.
Ngô Thì Chí (1758 – 1788) là em ruột của danh nhân Ngô Thì Nhậm. Ông làm quan dưới thời Lê Chiêu Thống, từng chạy theo Lê Chiêu Thống khi Nguyễn Huệ sai Vũ Văn Nhậm ra Bắc diệt lộng thần Nguyễn Hữu Chỉnh và dâng Trung hưng sách bàn kế khôi phục nhà Lê. Sau đó, ông được vua Lê Chiêu Thống cử đi Lạng Sơn chiêu tập những kẻ lưu vong, lập ra đoàn nghĩa binh chống Tây Sơn, nhưng trên đường đi ông bị bệnh và mất đột ngột tại huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh. Nhiều tài liệu cho rằng ông viết bảy hồi đầu của truyện.
Ngô Thì Du (1772 – 1840) là anh em chú bác với Ngô Thì Chí ông học giỏi nhưng không đổ đạt gì. Dưới triều Tây Sơn, ông ấn mình ở vùng Kim Bảng, Hà Nam. Thời nhà Nguyễn, ông ra làm quan, được bổ nhiệm làm Đốc học Hải Dương, đến năm 1827 thì về nghỉ. Ông là tác giả bảy hồi tiếp theo của Hoàng Lê nhất thống chí, trong đó có hồi mười bốn được trích giảng ở đây. Còn lại ba hồi cuối có thể do một người khác trong Ngô gia văn phái viết vào khoảng đầu triều Nguyễn.
Hoàng Lê nhất thống chí là cuốn sách ghi chép về những sự kiện của vương triều nhà Lê, có lẽ là vào thời điểm Tây Sơn diệt Trịnh, trả lại quyền cai trị đất Bắc Hà cho vua Lê, về hình thức, tuy tác phẩm chịu ảnh hưởng lối viết tiểu thuyết chương hồi của Trung Quốc, những các tác giả rất tôn trọng sự thật lịch sử. Cho nên, mặc dù do nhiều người viết và viết ở nhiều thời điểm khác nhau nhưng nội dung tác phẩm về cơ bản vần giữ được tính nhất quán.
Trong văn học Việt Nam thời trung đại, có thể coi Hoàng Lê nhất thống chí là một tác phẩm văn xuôi viết bằng chữ Hán có quy mô to lớn nhất và đạt được những thành công xuất sắc nhất về mặt nghệ thuật, đặc biệt trong lĩnh vực tiểu thuyết.
Tác phẩm đã tái hiện chân thực và sinh động bối cảnh lịch sử đầy biến động ở nước ta trong khoảng hơn ba thập kỉ cuôi của thế kỉ XVIII và mấy năm đầu thế kỉ xrx. Khởi đầu câu chuyện là sự sa đoạ, thối nát đến cực độ của các tập đoàn phong kiến. Thời Lê mạt, vua chẳng ra vua. Vua Lê Hiển Tông ốm đau, bạc nhược, chỉ còn biết chắp tay rủ áo, cam phận làm bù nhìn. Câu nói cửa miệng của ông ta là: Chúa gánh cái lo, ta hưởng cái vui, Vua Lê Chiêu Thông đê hèn, cúi đầu khuất phục trước giặc Mãn Thanh, mong cứu vãn cái ngai vàng mục ruỗng sắp sụp đổ. Ông vua cuối cùng là Lê Duy Mật thì tệ hại đến mức bị người đời đánh giá cùng chỉ là một cục thịt trong cái túi da mà thôi.
Bên phủ Chúa, Trịnh Sâm sông xa hoa hưởng lạc, hoang dâm vô độ. Vì say mê Đặng Thị Huệ nên Chúa Trịnh sẵn sàng phế con trưởng, lập con thứ, gây nên loạn từ trong nhà loạn ra. Anh em chém giêt lẫn nhau.
Kiêu binh ỷ thế lộng hành, Sự tranh giành quyền lực giữa các phe phái phong kiến đã đến hồi quyết liệt, cần được giải quyết. Trong bối cảnh đó, cuộc nổi dậy với khí thế ngất trời của phong trào Tây Sơn là một tất yếu. Rồi Nguyễn Huệ đánh tan quân xâm lược Mãn Thanh, lập nên triều đại Tây Sơn. Nhưng cơ nghiệp nhà Tây Sơn ngắn ngủi. Chúa Nguyền dần dần hồi phục thế lực, dẹp Tây Sơn, lập vương triều mới (1802). Kết thúc tác phẩm là tình cảnh thảm hại, nhục nhã của vua tôi Lê Chiêu Thống khi nương thân ở nước người.
Tất cả nhừng sự kiện lịch sử trên được các tác giả ghi chép lại thật cụ thể, tỉ mi. Nối bật lên trên bối cảnh của thời đại nhiễu nhương ấy là hình bóng của những con người thuộc các phe phái đôi lập, đặc biệt là hình ảnh ngời sáng của vua Quang Trung Nguyễn Huệ – người anh hùng tiêu biểu cho sức mạnh quật cường của dân tộc.
Hồi thứ mười bốn là đoạn trích dài, kể lại diễn biến của nhiều tình tiết, sự kiện. Để hiếu rõ đoạn trích này, chúng ta phải tìm hiểu đôi nét về nội dung của hồi mười hai và mười ba. Khi Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ kéo quân ra Bắc lần thứ hai đề bắt viên quan phản bội Vũ Văn Nhậm thì vua Lê Chiêu Thông sợ hãi bỏ kinh thành Thăng Long chạy lên vùng biên ải phía Bắc, chiêu mộ nghĩa binh Gần vương đế chống lại. Nhưng nhóm nghĩa binh ít ỏi ấy không đủ sức đối địch với quân Tây Sơn. Lê Chiêu Thống bèn cử hai viên quan hầu cận là Lê Duy Đản và Trần Danh Án bí mật trốn sang Trung Quốc, gặp viên Tổng đốc Lưỡng Quảng là Tôn Sĩ Nghị để cầu viện. Tôn Sĩ Nghị muốn nhân cơ hội này cướp nước ta liền tâu lên vua Mãn Thanh,xin đưa quân sang đánh. Được lệnh, Tôn Sĩ Nghị kéo đại quân sang với danh nghĩa phù Lê, diệt Tây Sơn. Trước thế giặc mạnh, quân Tây Sơn rút lui về cố thủ ở Tam Diệp. Quân giặc kéo thẳng tới Thăng Long, không gặp sức kháng cự nào liền sinh ra kiêu căng, tự mãn. Lê Chiêu Thống cùng theo về, nhận sắc phong bù nhìn An Nam Quốc Vương.
Đoạn đầu của hồi thứ mười bốn nói về việc Tôn Sĩ Nghị kéo quân vào Thăng Long, thấy dễ dàng, cho là vô sự nên không đề phòng gì cả. Điều đó làm cho vua tôi Lê Chiêu Thống vốn đã biết rất rõ tài cầm quân xuất quỷ nhập thần của Nguyễn Huệ, rất lo lắng.
Quân tướng Tôn Sĩ Nghị ở Thăng Long chỉ lo chơi bời, tiệc tùng, không hề để ý đến việc quân, lính thì tự tiện bỏ cả đội ngũ, đi lại lang thang, không còn có kỉ luật gì cả. Người cung nhân cũ đến tâu với thái hậu về thái độ chủ quan coi thường Tây Sơn của giặc Thanh và vua tôi Lê Chiêu Thống có nguy cơ phải chạy sang đất Trung Hoa một chuyến nữa. Thái hậu hoảng hốt nói với vua. Nhà vua lúc bấy giờ mới hoảng sợ, đến doanh trại xin Tôn Sĩ Nghị xuất quân, bị hắn mắng thẳng vào mặt nên sợ hãi lui về.
Ở hồi thứ mươi bốn này, với cảm quan lịch sử nhạy bén và niềm tự hào dân tộc to lớn, các tác giả đã khắc hoạ thành công hình ảnh người anh hùng dân tộc Nguyễn Huệ qua chiến công thần tốc đại phá quân Thanh, miêu tả sự thảm bại của các tướng lĩnh nhà Thanh và số phận bi đát của vua Lê Chiêu Thống phản nước, hại dân.
Bài văn có thể chia làm ba đoạn:
Đoạn một: Từ đầu đến … hôm ấy nhằm vào ngày 25 tháng Chạp năm Mậu Thân (1788): Được tin báo quân Thanh đã chiêm Thăng Long, Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ lên ngôi hoàng đế và thân chinh cầm quân lên đường ra Bắc dẹp giặc.
Đoạn hai: Từ Vua Quang Trung tự mình đốc xuất đại binh… đến vua Quang Trung tiến binh đến Thăng Long rồi kéo vào thành: Cuộc hành quân thần tốc và chiến thắng lẫy lừng của vua Quang Trung.
Đoạn ba: Phần còn lại: Sự đại bại của quân tướng nhà Thanh và tình trạng thảm hại của vua tôi Lê Chiêu Thống.
Từ đầu đến cuối đoạn trích, Nguyền Huệ được miêu tả là con người tài ba, hành động một cách quả quyết, xông xáo, nhanh gọn và có chủ đích rõ ràng. Nghe tin giặc Thanh dã chiếm đến tận Thăng Long. Nguyễn Huệ đã thân chinh cầm quân đi ngay. Rồi chỉ trong vòng hơn một tháng (từ 24 tháng 11 đến 30 tháng Chạp), Nguyễn Huệ đã làm được bao nhiêu việc lớn: tế cáo trời đất, lên ngôi hoàng đế đốc xuất đại binh ra Bắc, gặp gỡ người cống sĩ ở huyện La Sơn, tuyển mộ quân lính và mở cuộc duyệt binh lớn ở Nghệ An, phủ dụ tướng sĩ, định kế hoạch hành quân, đánh giặc và nghĩ đến cả kế hoạch đối phó với nhà Thanh sau chiếu thắng.
Nguyễn Huệ là ông vua có trí tuệ sáng suốt, nhạy bén trong việc phân tích tình hình thời cuộc và thế tương quan chiến lược giữa ta và địch. Trong lời phủ dụ quân lính ở Nghệ An, Nguyễn Huệ đã noi theo việc làm của Nguyễn Trãi trong Đại cáo bình Ngô. Ông khẳng , định chủ quyền dân tộc của ta và lên án hành động xâm lăng phi nghĩa, trái đạo trời của giặc: Trong khoảng vũ trụ, đất nào sao ấy , đều đã phân biệt rõ ràng, phương Nam, phương Bắc chia nhau mà cai trị. Người phương Bắc không phải nòi giống nước ta, bụng dạ ắt khác. Từ đời Hán đến nay, chúng đã mấy phen cướp bóc nước ta, giết hại nhân dân, vơ vét của cải, người mình không thể chịu nổi, ai cũng muốn đuổi chúng đi. Đời Hán có Trưng Nữ Vương, đời Tống có Đinh Tiên Hoàng, Lê Đại Hành, đời Nguyên cỏ Trần Hưng Đạo, đời Minh có Lê Thái Tổ, các Ngài không nỡ ngồi nhìn chúng làm điều tận bạo, nên đã thuận lòng người, dậy nghĩa quân, đều chỉ đánh một trận là thắng và đuổi được chúng về phương Bắc…
Nguyên Huệ đã nhắc lại truyền thống chống giặc ngoại xâm kiên cường, bất khuất của dân tộc ta từ xa xưa. Ông đưa ra một hệ thống dẫn chứng song hành liên tục, cứ một triều đại phương Bắc đi liền với một nhân vật kiệt xuất tiêu biếu của phương Nam. Việc khởi binh của Nguyễn Huệ nằm trong cái tất yếu song hành ấy. Cũng từ cái nhìn sắc sảo này, hơn ai hết, ông vạch ra bản chất việc phù Lê của Tôn Sĩ Nghị chẳng qua là sang cướp nước ta: Nay người Thanh lại sang, mưu đồ lấy nước Nam ta đặt làm quận huyện… Vì vậy ta phải, kéo quân ra đánh đuổi chúng. Các ngươi đều là những kẻ có lương tri, lương năng, hãy nên cùng ta đồng tâm hiệp lực, để dựng nên công lớn. .
Đồng thời, ông cũng ban ra kỉ luật thật nghiêm đế răn dạy quân lính: Chớ có quen theo thói cũ, ăn ở hai lòng, nếu như việc phát giác ra, sẽ bị giết chết ngav tức khắc, không tha một ai, chớ bảo ta không nói trước. Lời phủ dụ có thể xem như một bài hịch ngắn gọn mà ý tứ thật phong phú, sâu sắc, có tác dụng kích thích lòng yêu nước và động viên tinh thần quân sĩ.
Nguyễn Huệ sáng suốt trong việc xét đoán và dùng người, thế hiện qua cách xử trí với các tưởng sĩ tại Tam Điệp. Ông rât hiểu sở trường, sở đoản của từng người, khen chê đều đúng người, đúng việc.,. Chẳng hạn khi đại binh thần tốc ra tới Tam Điệp, hai viên tướng Sở và Lân đều mang gươm trên lưng và xin chịu tội. Nguyễn Huệ hiểu trong binh pháp đã nêu rõ 1 “Quân thua chém tướng” nhưng ông đánh giá rất đúng rằng: Sở, Lân không phải hạng người hèn nhát. Hơn nữa, họ làm theo mưu kế của Ngô Thì Nhậm. Khi thế giặc đang mạnh, Thăng Long lại ở trong tình trạng bị cô lập, thì việc rút lui để bảo toàn lực lượng, chờ đại quân kéo ra là thượng sách. Lẽ ra Sở, Lân bị trừng phạt nhưng cuối cùng lại được Nguyễn Huệ ngợi khen. Hiểu người và dùng người đến mức “tri kỉ, tri âm” như thế là tài của người cầm quân. Hay như khi Nguyễn Huệ sai đại tướng là Hám Hổ Hầu đi kén lính ở Nghệ An theo định mức cứ ba trai tráng, tức là ba suất đinh thì lấy một người. Vì thế nên chẳng mấy chốc đã tuyển được hơn một vạn quân tinh nhuệ.
Nguyễn Huệ có ý chí quyết thắng và tầm nhìn xa trông rộng. Hiếm có một niềm tin nào vững chắc như niềm tin của Nguyền Huệ. Mới khởi binh đánh giặc, chưa giành lại được một tấc đất nào, vậy mà trước mọi người, ông khẳng định chắc chắn rằng: Lần này ta ra thân hành cầm quân, phương lược tiến đánh đã có tính sẵn. Chẳng qua mươi ngày có thể đuổi được người Thanh. Ông còn chuẩn bị cả kế hoạch ngoại giao sau khi chiến thắng đổi với một nước lớn gấp mười nước mình. Thắng thì thắng, nhưng việc binh đao chưa thể dứt được ngay vì sỉ nhục của một nước lớn dễ gì nguôi ngoai. Vì thế cần phải hoà hiếu tạm thời: Chờ mười năm nữa cho ta được yên ổn mà nuôi dưỡng lực lượng, bấy giờ nước giàu quân mạnh, thì ta có sợ gì chúng?
Quang Trung Nguyễn Huệ có tài dụng binh như thần. Cuộc hành quân thần tốc do ông đích thân chỉ huy. Ngày 25 tháng Chạp bắt đầu xuất quân ở Phú Xuân (Huế), ngày 29 đã ra tới Nghệ An, vượt khoảng mấy trăm dặm qua núi, qua đèo. Tại đây, ông vừa tuyển quân, vừa tổ chức đội ngũ duyệt binh, chỉ trong một ngày. Hôm sau, tiến quân ra Tam Điệp, giáp giới Ninh Bình, Thanh Hoá. Đêm 30 tháng Chạp, quân sĩ lập tức lên đường, tiến ra Thăng Long. Tất cả đều đi bộ. Có sách còn kể vua Quang Trung sử dụng cả cáng và võng. Cứ hai người khiêng thì một người được nằm nghỉ, luân phiên nhau suốt đêm ngày. Từ Tam Điệp ra tới Thăng Long khoảng hơn trăm dặm. Vừa hành quân, vừa đánh giặc, vậy nên vua Quang Trung khẳng định là mồng 7 tháng giêng sẽ ăn Tết ở Thăng Long. Thực tế đã rút gọn được hai ngày. Hành quân xa liên tục như vậy, nhưng cơ nào đội ấy vẫn chỉnh tề, cùng do tài năng tổ chức của người đứng đầu. Hơn một vạn quân mới tuyển đặt ở trung quân, còn quân tinh nhuệ từ đất Thuận Quảng ra thì bao bọc ở bốn doanh tiền, hậu, tả, hữu.
Quả thật, theo dõi cuộc hành quân của Nguyễn Huệ từ Tam Điệp trở ra, người đọc mới hiếu thế nào là thần tốc, về lực lượng, quân cua Nguyễn Huệ chia làm năm đạo, có cả thuỷ và bộ, nhưng bộ binh là chính. Phương tiện hành quân không thấy nói đến lừa, ngựa, chỉ có một ít voi, trong đó có con voi do vua Quang Trung cưỡi. Vậy thì đại quân chủ yếu là đi bộ. Từ Nghệ An ra, sau khi nhà vua hạ lệnh tiến quân, các quân đều – nghiêm chỉnh mà đi Từ Tam Điệp trở ra, tình hình cụng chẳng khác gì hơn. Đó là chưa nói vừa đi vừa đánh giặc. Đêm 30 tháng Chạp năm Mậu Thân (1788), đạo quân của Nguyễn Huệ còn ở Tam Điệp, mà đến đêm mùng 3 tháng giêng năm Kỷ Dậu (1789) đá tới Hà Hồi, vượt qua hai con sông Gián Khẩu và Thanh Quyết, tiếp cận Thăng Long. Hơn một trăm dặm mà chỉ đi có ba ngày! Giữ nguyên tốc độ ấy, mờ sáng ngày mùng 5 Tết, đại quấn đã đến đồn Ngọc Hồi, dập tắt sự kháng cự dữ dội của giặc dưới sự chỉ huy của tên thái thú Sầm Nghi Đống.
Trong trận chiến, vua Quang Trung thân chinh cầm quân. Ông là vị tổng chỉ huy ch