06/05/2018, 08:11

Phân tích đoạn trích Chuyện cũ trong phủ Chúa Trịnh của Phạm Đình Hổ – Văn mẫu hay lớp 9

Xem nhanh nội dung Phân tích đoạn trích Chuyện cũ trong phủ Chúa Trịnh của Phạm Đình Hổ – Bài làm 1 của một học sinh giỏi Văn tỉnh Ninh Bình Trong các áng văn xuôi thời kì trung đại ở nước ta, bên cạnh Truyền kì mạn lục – một "Thiên cổ kì bút" – người đời thường nhắc tới Vũ ...

Xem nhanh nội dung

Phân tích đoạn trích Chuyện cũ trong phủ Chúa Trịnh của Phạm Đình Hổ – Bài làm 1 của một học sinh giỏi Văn tỉnh Ninh Bình

Trong các áng văn xuôi thời kì trung đại ở nước ta, bên cạnh Truyền kì mạn lục – một "Thiên cổ kì bút" – người đời thường nhắc tới Vũ trung tuỳ bút (Theo ngọn bút viết trong khi mưa) của Phạm Đình Hổ. Tác phẩm ra đời vào đầu thế kỉ XIX. Khác với Truyền kì mạn lục, tập sách "viết trong mưa" ấy thuộc thể loại tuỳ bút. Dùng văn tuỳ bút, danh nho Phạm Đình Hổ đã tuỳ theo hứng thú và suy nghĩ của riêng mình, ghi chép lại những sự việc, những câu chuyện cụ thể chân thực, những điều tai nghe, mắt thấy trong cuộc sống. Khi đọc Truyền kì mạn lục, chúng ta bắt gặp đây đó những yếu tố lãng mạn, huyền ảo, còn trong Vũ trung tuỳ bút thì đậm đặc chất hiện thực. Một trong những bức tranh hiện thực ấy là những chuyện trong phủ chúa Trịnh Sầm. Viết lại những câu chuyện cũ ấy, tác giả dự báo "đó là triệu bất tường", là những dấu hiệu không lành, những điềm gở.

Trước hết là những câu chuyện về thói ăn chơi xa xỉ, vô độ của chúa Trịnh Sâm và các quan lại hầu cận trong phủ chúa. Tác giả Phạm Đình Hổ kể ba sự việc tiêu biểu. Việc thứ nhất : chúa cho xây dựng nhiều cung điện, đình đài ở các nơi để thoả mãn ý thích "đi chơi ngắm cảnh đẹp", ý thích đó cứ triền miên, nối tiếp tưởng đến không cùng. Vì vậy, nhà văn viết "Việc xây dựng đình đài cứ liên miên". Nghĩa là việc huy động sức dân, thu tiền bạc, chiếm đất đai, bắt nhân công liên tục diễn ra hàng tháng, hàng nãm, nơi này, nơi khác. Việc thứ hai : những cuộc rong chơi của chúa Thịnh Vương (Trịnh Sâm). Chúa thường thích đi chơi, thường ngự – tới ăn ngủ, ngắm cảnh đẹp, hưởng của ngon, vật lạ, thoả mãn thú vui cả thể xác lẫn tinh thần – ở các li cung (cung điện, lâu đài xa kinh thành) trên Hồ Tây, núi Tử Trầm, núi Dũng Thuý. Trong những chuyến du lịch ấy của chúa đạc biệt nhất là cuộc dạo chơi trên Hồ Tây. Vòng quanh bốn mặt hồ, binh lính phải "dàn hầu", vừa để bảo vệ vừa sẵn sàng làm theo lời chúa sai bảo. Cũng vòng quanh bốn mật hồ, các quan trong triều phải "đầu bịt khăn, mặc áo đàn bà" cải trang là những thị dân buôn bán, bày hàng hoá như một khu chợ sầm uất, đông vui, vui cho thiên hạ thì ít mà vui cho chúa thì nhiều.

Thuyền ngự đến đâu thì chúa và các hỗ tụng đại thần tuỳ ý ghé vào bờ mua bán. Chúa và cận thần tới, thì nhạc công phải tấu lên những khúc nhạc dặt dìu gần xa vẳng từ dưới bóng cây, bến đá nào đó. Đúng là bức tranh cuộc sống phồn hoa mà giả dối. Tác giả chỉ ghi chép khách quan, không một lời nhận xét, mà sự việc nó cứ tự phơi bày những nét rởm hợm, nực cười, đáng chê trách. Việc thứ ba – đáng chê trách hơn – là câu chuyện chúa "sức thu lấy" – ra lệnh bằng văn bản – cướp đoạt một cách trắng trợn tất cả "những loài trân cầm dị thú, cổ mộc quái thạch, chậu hoa cây cảnh" trong nhân dân. Chọn một cảnh điển hình của những cuộc cướp đoạt ấy – cảnh lính tráng chở một cây đa cổ thụ về phủ chúa – tác giả miêu tả bằng những từ ngữ sống động, một giọng văn thật nặng né. Cây đa to, cành lá rườm rà, được rước qua sông "… như một cây cổ thụ mọc trên đầu non hốc đá, rễ dài đến vài trượng, phải một cơ binh mới khiêng nổi, lại bốn người đi kèm, đều cầm gươm đánh thanh la đốc thúc quân lính khiêng đi cho đều tay". Đó là một đám rước công phu, tốn kém. Cây đa ấy vốn ở đầu non hốc đá tự do – phóng khoáng giữa rừng núi nay bị rước về vườn nhà chúa bề ngoài có vẻ oai phong, song nhìn kĩ thấy tội nghiệp quá. Bởi vì từ nay, đa đâu còn là biểu tượng trường tồn, bất diệt, biểu tượng cho sức sống của con người, của quê hương, đất nước. Đa đã bị ép buộc để "điểm xuyết, bày vẽ" thành thứ đồ chơi riêng của nhà chúa. Cây đa cũng giống như thân phận của muôn loài trân cầm dị thú, cổ mộc, quái thạch, chậu hoa cây cảnh trong dân gian đã bị cầm tù, bị tha hoá. Bao nhiêu cái đẹp của tự nhiên, những thú vui tao nhã, chính đáng của nhân dân đã bị nhà chúa chiếm đoạt. Số phận của cây trời, đá núi, hoa lá,… vô tri thì như thế, hỏi số phận con người ra sao? Người viết tuỳ bút, danh nho Phạm Đình Hổ đã đưa ra những sự việc cụ thể chân thực và khách quan, không bình luận mà các hình ảnh, chi tiết cứ hiện lên đầy ấn tượng. Ấn tượng nhất là cảnh đêm nơi vườn nhà chúa : "Mỗi khi đêm thanh cảnh vắng, tiếng chim kêu vượn hót ran khắp bốn bề, hoặc nửa đêm ồn ào như trận mưa sa gió táp, vỡ tổ tan đàn, kẻ thức giả biết đó là triệu bất tường"…

Tiếng chim kêu, vượn hót khắp bốn bề giữa đêm khuya thanh vắng, hay là tiếng muôn loài than thở? Trận mưa sa gió táp ồn ào hay sự giận dữ của trời đất? Những âm thanh ấy gợi cảm giác ghê rợn như một điều gì đó đang tan tác đổ vỡ, suy sụp đau đớn, chứ không phải là một cảnh đẹp bình yên, phồn thực, no ấm. Nghe những âm thanh ấy "kẻ thức giả" – nhà nho Phạm Đình Hổ biết "đó là triệu bất tường". Đến dòng văn cuối của những câu chuyện nhà chúa, cảm nghĩ của tác giả bộc lộ trực tiếp, nhưng lời văn vẫn nhẹ nhàng, tế nhị, gián tiếp bằng một danh từ chung là "kẻ thức giả". Kẻ thức giả là những người có học vấn, có hiểu biết sâu rộng. Viết câu văn ấy, Phạm Đình Hổ là một người có tầm phán đoán, dự cảm chính xác. Ông đã thấy rõ những cuộc ăn chơi xa hoa, vô độ của chúa Trịnh Sâm là "triệu bất tường", những dấu hiệu không lành, những điềm gở. Nó báo trước sự suy vong tất yếu của một triều đại chỉ chăm lo việc ăn chơi hưởng lạc trên mồ hôi, nước mắt và cả xương máu của dân lành. Quả thực, điều đó đã xảy ra không lâu sau khi Trịnh Sâm mất. Sách xưa có câu "Thượng bất chính, hạ tắc loạn" – cấp trên không chân chính, nghiêm túc thì cấp dưới tất sẽ làm loạn. Chúa ở ngôi cao mải mê ăn chơi, sa đoạ, tất yếu các quan cấp dưới ỷ thế làm càn. Do đó, từ những câu chuyện của chúa, Phạm Đình Hổ chuyển ý, kể đến chuyện các quan "bọn hoạn quan cung giám lại thường nhờ giỏ bẻ măng, ra ngoài doạ dẫm…". Ở đoạn văn thứ hai này, tác giả tập trung kể một sự việc. Đó là việc bọn hoạn quan bày trò cướp đoạt, vu cáo, phá hoại tài sản của nhân dân một cách trắng trợn, tàn ác. Chúng thực hiện công việc rất "bài bản". Động tác một : "dò xem" nhà nào có vật quý, thì biên vào hai chữ "phụng thủ" nghĩa là lấy để dâng chúa. Động tác thứ hai : "trèo qua tường thành lẻn ra"… "lấy phăng đi"… Động tác thứ ba : nếu nhà nào phản ứng, thì "buộc cho tội giấu vật báu" của vua chúa… Ở đoạn văn tuỳ bút này nhà văn sử dụng liên tục các động từ miêu tả thái độ và hành động bọn hoạn quan trong ba câu văn đặc tả với những từ ngữ nhấn mạnh : "dò xem", "trèo", "lẻn", "lấy phăng", "buộc tội", "doạ dẫm",… Đúng là những thái độ, hành động của một lũ đầu trâu mặt ngựa, vừa ăn cướp, vừa la làng, "Sạch sành sanh vét cho đầy túi tham" (Truyện Kiều). Hậu quả của những vụ cướp bóc trắng trợn ấy là : Người dân bị buộc tội phải nộp tiền, phải "phá nhà huỷ tường… bỏ của ra kêu van chí chết" và tự mình phải "đập bỏ núi non bộ hoặc phá bỏ cây cảnh để tránh khỏi tai vạ". Người dân phải chịu biết bao nhiêu cảnh dau dớn, bao nhiêu bất công, phi lí. Chính tại gia đình Phạm Đình Hổ – một gia đình quý tộc cận kề phủ chúa – cũng bị cái hoạ ăn cướp kia gieo xuống. Trước nhà tiền đường trồng một cây lê hoa trắng xoá thơm lừng, trước nhà trung đường trồng hai cây lựu ra quả trông rất đẹp… "Bà cung nhân ta đều sai chặt di cũng là vì cớ ấy". So với giọng văn kể chuyện các gia đình khác quanh kinh thành bị quấy nhiễu, giọng kể ở đoạn văn cuối này có vẻ như nhẹ nhàng hơn, song nó tô đậm thêm tính hiện thực, tăng thêm ý nghĩa phê phán, tố cáo. Bởi vì, nạn cướp bóc, sách nhiễu ở thời Trịnh Sâm đã trở thành cơn sốc trong xã hội, không chỉ gây đau khổ cho dân thường mà còn đe doạ cả những gia dinh quyền quý, quan lại, không chỉ cướp bóc của cải vật chất mà còn huỷ diệt cả những thú vui tao nhã mang tính văn hoá truyền thống của biết bao gia đình Việt Nam chúng ta. Những từ ngữ cuối đoạn văn dừng lại, nhưng lời kể của tác giả vẫn còn vương vấn ngân nga trong lòng chúng ta những cảm giác xót xa, nuối tiếc, thương cho cây dẹp, hoa thơm, cảm thống với những con người phải sống trong một xã hội phong kiến hỗn loạn mục nát đến như vậy.

Đoạn tuỳ bút Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh ấy không chỉ có giá trị hiện thực, phơi bày bộ mặt xấu xa của chúa, của bọn quan lại, lính tráng mà còn hấp dẫn bạn đọc bởi một ngòi bút tài hoa. Phạm Đình Hổ đã ghi chép người thực, việc thực rất cụ thể, chính xác, theo trí nhớ, cảm xúc, suy nghĩ của riêng mình. Từ ngữ câu văn tự nhiên, trôi chảy, không bị gò bó bởi cốt truyện, nhân vật…như trong truyện ngắn. Khi kể chuyện, lúc chuyển sang miêu tả, ngẫu hứng thì điểm vào một dự cảm, dự báo, nhịp văn lúc khoan thai, khi dồn dập nhấn mạnh,… ngỡ như buông thả tự do nhưng tác phẩm vẫn tập trung vào một chủ đé, toát lên cảm xúc trữ tình rõ nét của tác giả.

Nói tóm lại, bằng thể văn tuỳ bút ghi chép tuỳ hứng những sự việc một cách cụ thể, chân thực, sinh động, Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh giúp chúng ta hiểu về dời sống xa hoa vô độ của bọn vua chúa, quan lại phong kiến thời vua Lê, chúa Trịnh suy tàn nửa cuối thế kỉ XVIII. Đó là một xã hội đầy rẫy những dấu hiệu không lành, những điềm gở đáng chê trách và đáng xoá bỏ. Lịch sử đã xoá bó cái xã hội ấy.

Phân tích đoạn trích Chuyện cũ trong phủ Chúa Trịnh của Phạm Đình Hổ – Bài làm 2

Phạm Đình Hổ (1768 – 1839), tên thường gọi là Chiêu Hổ, sinh trưởng trong một gia đình dòng dõi khoa bảng ở làng Đan Loan, huyện Đường An, tinh Hải Dương. Cha đậu cử nhân và ra làm quan dưới triều Lê. Từ thuở nhỏ, Chiêu Hổ đã ôm ấp mộng văn chương. Sau này, ông vào học trường Quốc Tử Giám và thi đậu sinh đồ, nhưng vì thời thế không yên nên đành lánh về quê dạy học. Năm 1821, vua Minh Mạng nhà Nguyền tuần du ra Bắc. Phạm Đình Hổ dâng một số trước tác lên nhà vua và được bổ nhiệm một chức quan ở Viện hàn lâm. Được một thời gian, ông  xin nghỉ việc. Đến năm 1826, Minh Mạng lại triệu Phạm Đình Hổ vào kinh đô Huế nhậm chức Tế tửu Quốc Tử Giám, rồi Thị giảng học sĩ.

Phạm Đình Hổ bắt đầu sáng tác từ thời Tây Sơn, nhưng chủ yếu là vào những năm đầu của triều Nguyễn. Ông để lại nhiều tác phẩm, trong đó giá trị nhất là hai thiên kí sự Vũ trung tuỳ bút và Tang thương ngẫu lục.

Vũ trung tuỳ bút gồm 88 mẩu chuyện nhỏ, viết theo thể tuỳ bút, cung cấp cho người đọc những kiến thức về văn hoá truyền thông, về phong tục tập quán và đặc điểm địa lí cùng những danh lam thắng cảnh của quê bương, đất nước.

Chuyện cũ trong phủ Chúa Trịnh ghi chép lại những cảnh sinh hoạt diễn ra hằng ngày ở phủ Chúa thời Trịnh Sâm. Qua đó, tác giả ngầm lên án thói ăn chơi xa xỉ, vô đạo đức của Trịnh Sâm và bọn quan lại hầu cận dưới quyền.

Lúc mới lên ngôi Chúa, Trịnh Sâm là con người cứng rắn, thông minh, quyết đoán, sáng suốt, trí tuệ hơn người. Nhưng sau khi đã dẹp yên được các phe phái chống đối, lập lại kỉ cương cho triều đình thì dần dần sinh bụng kiêu căng, xa xỉ, phi tần thị nữ kén vào rất nhiều, mặc ý vui chơi thoả thích. Chúa Trịnh say mê Đặng Thị Huệ, đắm chìm trong cuộc sống xa hoa, ăn chơi hưởng lạc, phế con trưởng  lập con thứ, gây nên rất nhiều điều bạo ngược, dẫn đến cảnh nồi da xáo thịt. Các vương tử tranh giành quyền lực, chém giết lẫn nhau. Trịnh Sâm mất năm 1782, ở ngôi Chúa được 16 năm.

Thói ăn chơi ngông nghênh, xa xi của Trịnh Sâm và lũ quan lại hầu cận được tác giả miếu tả qua những chi tiết tiêu biếu như Trịnh Sâm cho xây dựng nhiều cung điện, đền đài ở các nơi để thoả mãn ý thích đi chơi, ngắm cảnh đẹp của mình. Việc xây dựng đình đài cứ làm liên tục trong nhiều năm, hao tốn không biết bao nhiêu là tiền của. Không mấy quan tâm đến lợi ích to lớn của quốc gia, dân tộc, ngược lại, Chúa Trịnh dành rất nhiều thời gian để hưởng lạc:

Mỗi tháng ba bổn lần, Vương ra cung Thụy Liên trên bờ Tây Hồ, binh lính dàn hầu vòng quanh bốn mặt hồ, các nội thần thì đều bịt khăn, mặc áo đàn bà, bày bách hoá chung quanh bờ hồ để bán.

Thuyền ngự đi đến đâu thì các quan hô tụng đại thần tuỳ ý ghé vào bờ mua bán các thứ như ở cửa hàng trong chợ. Cũng có lúc cho bọn nhạc công ngồi trên gác chuông chùa Trấn Quốc, hay dưới bóng cây bến đá nào đó, hoà vài khúc nhạc.

Trong đoạn văn này, tác giả đã phơi bày bản chất tham lam của Chúa Trịnh và bè lũ tay sai. Cậy quyền cậy thế, chúng trắng trợn ép buộc dân lành phải cung nộp cho phủ Chúa những thứ quý giá mà Chúa thích:

Buổi ẩy, bao nhiễu những loài trân cầm dị thú, cổ mộc quái thạch, chậu hoa cây cảnh ở chốn dân gian, Chúa đều sức thu lấy, không thiếu một thứ gì. Có khi lấy cả cây đa to, cành lá rườm rà, từ bên bắc chở qua sông đem về. Nó giống như một cây cổ thụ mọc trên đầu non hốc đá, rễ dài đến vài trượng phải một cơ binh mới khiêng nổi…

Tác giả vạch rõ lòng tham vô đáy của Chúa Trịnh bằng nghệ thuật kể chuyện và miêu tả. Các dẫn chứng đưa ra đều khách quan, không xen lời bình. Một vài sự kiện được miêu tả tỉ mỉ, gây ấn tượng rất sâu đậm đôi với người đọc.

Thái độ bất bình của tác giả thể hiện khá kín đáo trong những câu văn đầy ẩn ý:

Mỗi khi đêm thanh cảnh vắng, tiếng chim kêu vượn hót ran khắp bốn bề hoặc nửa đêm ồn ào như trận mưa sa gió táp, vờ tổ tan đàn, kẻ thức giả biết đó là triệu bất tường.

Cảnh được miêu tả là cảnh thực của những khu vườn lộng lẫy, đầy trân cầm, dị thú, cổ mộc, quái thạch, được bày vẽ, tô điểm cho giông thiên nhiên nơi bến bể, đầu non, nhưng âm thanh lại gợi cảm giác ghê rợn trước một cái gì đó tan tác, đau thương, chứ không phải trước cảnh đẹp yên bình, thơ mộng. Đó là triệu bất tường, tức là điềm gở, báo trước sự suy vong tất yếu của một triều đại chỉ lo ăn chơi hưởng lạc trên mồ hồi, nước mắt và cả xương máu của dân lành. Quả thực điều đó đà xảy ra sau khi Trịnh Sâm mất không lâu.

Thời Trịnh Sâm, bọn hoạn quan hầu cận trong phủ Chúa được sủng ái bởi chúng rất đắc lực trong việc giúp Chúa bày ra các trò ăn chơi hưởng lạc. Vì vậy nên chúng thường ỷ thế Chúa mà hoành hành, tác oai tác quái, “nhờ gió bẻ măng”, nhũng nhiễu, vơ vét của dân lành bằng nhiều thủ đoạn hèn hạ, độc ác. Thủ đoạn mà chúng thường sử dụng là hành động vừa ăn cướp, vừa la làng. Người dân bị hại tới hai lần, bằng không thì cũng phải tự tay huỷ bỏ tài sản của mình để tránh tai vạ. Đó là điều hêt sức vô lí, bất công. Bọn hoạn quan vừa vơ vét đế ních đầy túi tham, vừa được tiếng mẫn cán trong việc cung phụng Chúa:

Bọn hoạn quan cung giám lại thường nhờ gió bẻ măng, ra ngoài dọa dẫm Họ dò xem nhà nào có chậu hoa cây cảnh, chim tốt khướu hay, thì biên ngay hai chữ “phụng thủ” vào. Đêm đến, các cậu trèo qua tường thành lẻn ra, sai tay chân đem lính đến lấy phăng đi, rồi buộc cho tội đem giấu vật cung phụng để doạ lấy tiền. Hòn đá hoặc cây cối gì to lớn quá thì thậm chí phải phá nhà huỷ tường để khiêng ra. Các nhà giàu bị họ vu cho là giấu vật cung phụng, thường phải bỏ của ra kêu van chí chết, có khi phải đập bỏ núi non bộ, hoặc phá bỏ cây cảnh để tránh khỏi tai vạ.

Kết thúc đoạn văn miêu tả thủ đoạn nham hiểm, độc ác của bọn hoạn quan này, tác giả kể lại một sự việc đã từng xảy ra ngay tại gia đình mình: Đù tiếc đứt ruột nhưng chủ nhà phải sai đầy tớ chặt đi một cây lê và hai cây lựu quý trong vườn đề tránh tai hoạ:

Nhà ta ở phường Hà Khẩu, huyện Thọ Xương, trước nhà tiền đường có trồng một cây lê, cao vài mươi trượng lúc nở hoa, trắng xoá thơm lừng, trước nhà trung đường cũng trồng hai cây lựu trắng, lựu đỏ, lúc ra quá trông rất đẹp, bà cung nhân ta sai chặt đi cũng vì cớ ấy.

Kiểu dẫn dắt câu chuyện như thế đã làm gia tăng đáng kể sức thuyếi phục cho những chi tiết chân thực mà tác giả đã ghi chép ở trên, đồng thời cũng làm cho cách viết thêm phong phú và sinh động. Cảm xúc của tác giả cũng được gửi gắm một cách kín đáo qua đó.

Qua đoạn văn này, tác giả tố cáo bọn quan lại trong phủ Chúa Trịnh vừa tham vừa ác, làm trái với đạo trời và lòng người. Tất yếu, nhân dân sẽ vùng lên lật đổ chúng.

Câu chuyện được tác giả ghi chép rất tự nhiên. Những chi tiết, hiện tượng chân thực được miêu tả tỉ mỉ mà không nhàm chán, xen kẽ những lời binh ngắn gọn, sắc sảo càng làm tăng thêm sức hấp dẫn của tác phẩm.

Bằng thể loại tuỳ bút ghi chép tuỳ hứng những sự kiện mắt thấy tai nghe, Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh của Phạm Đình Hổ đã giúp chúng ta hiểu thêm về đời sông xa hoa vô độ của bọn vua chúa, quan lại phong kiến thời vua Lê chúa Trịnh suy tàn. Đồng thời bước đầu nhận biết được đặc tính cơ bản của thể loại văn tuỳ bút đời xưa và đánh giá được giá trị nghệ thuật của những dòng ghi chép đầy tính hiện thực của Phạm Đình Hổ.

Phân tích đoạn trích Chuyện cũ trong phủ Chúa Trịnh của Phạm Đình Hổ – Bài làm 3

Phạm Đình Hổ là người người làng Đan Loan, huyện Đường An, tỉnh Hải Dương (nay là xã Nhân Quyền, huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương). Ông là một con người có tài, từng làm quan dưới thời vua Minh Mạng. Phạm Đình Hổ đã có rất nhiều những công trình biên soạn, khảo cứu có giá trị thuộc đủ các lĩnh vực: văn học, triết học, lịch sử, địa lí…Trong số những tác phẩm của ông, tiêu biểu nhất có thể kể đến đó chính là “Vũ Trung tùy bút”, trong đó có đoạn trích Chuyện cũ trong phủ Chúa Trịnh.

Vũ Trung tùy bút hay còn được hiểu với nghĩa nôm na là tùy bút biết trong những ngày mưa, đây là một tác phẩm đặc sắc của Phạm Đình Hổ, viết vào đầu đời Nguyễn, tức đầu thế kỉ XIX. Tác phẩm gồm có 88 mẩu chuyện nhỏ, viết theo thể tùy bút, trong những mẩu chuyện đó, Phạm Đình Hổ đã bàn về những điều mắt thấy tai nghe, những lễ nghi, phong tục tập quán…ghi chép những việc xảy ra trong xã hội lúc đó.

Tất cả những nội dung đó được tác giả trình bày một cách giản dị, sinh động và hấp dẫn. Bởi vậy mà những tác phẩm của Phạm Đình Hổ chẳng những có giá văn chương đặc sắc mà còn cung cấp những tài liệu quý về sử học, địa lí, xã hội học.

Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh là bài tùy bút mà tác giả Phạm Đình Hổ viết về những điều mà nhà văn chứng kiến trong phủ chúa, đó là những điều mắt thấy tai nghe nên bài tùy bút không chỉ đặc sắc, sinh động mà còn mang tính xác thực, tính tố cáo cao. Mở đầu của bài tùy bút, tác giả Phạm Đình Hổ đã ghi chép lại chính xác thời gian của những sự kiện trong bài tùy bút, đó chính là khoảng năm Giáp Ngọ, Ất Mùi (1774-1775).

Trong khoảng thời gian này, trong nước tuy yên bình, nhân dân yên ổn làm ăn nhưng chúa Trịnh Sâm sau khi lên ngôi thì lâm vào cảnh ăn chơi xa đọa, ham những thú vui lạc thú, không lo việc trị nước mà dung quyền lực để bắt nhân dân xây dựng cho mình những đền đài, phục vụ cho mục đích ăn chơi, hưởng lạc đồi trụy “ THịnh Vương (Trịnh Sâm) thích chơi đèn đuốc, thường ngự ở các li cung trên Tây Hồ, núi Tử Trầm, núi Dũng Thúy. Việc xây dựng đình đài cứ liên mien. Mỗi tháng ba bốn lần, Vương ra cung Thụy Liên trên Tây Hồ, binh lính dàn hầu vòng quanh bốn mặt hồ, các nội thần đều bịt kín khan, mặc áo đàn bà, bày bách hóa chung quanh hồ để bán”.

Vậy là ta có thể thấy việc ăn chơi hưởng lạc của chúa Trịnh Sâm không chỉ hoang phí, tốn kém, tiêu hao ngân sách triều đình mà còn làm cho cuộc sống của người dân thêm phần lầm than, đau khổ vì đủ thứ sưu cao, thuế nặng. Không những vậy, những người nông dân còn bị bắt đi lính khổ sai, xây dựng lên những công trình nguy nga tráng lệ, vô cùng tốn kém để phục vụ cho thú vui của chúa.

Trong triều đại của chúa Trịnh Sâm, sự thối nát tiêu cực bộc lộ ra từ người đứng đầu là vua Trịnh Sâm đến những người hiền thần được xem là trụ cột của quốc gia.Trước sự ăn chơi xa hoa thì những người hiền thần này không những không can ngăn chúa mà còn hùa theo những trò tiêu khiển của chúa một cách quái đản, họ mặc trang phục của nữ giới và bày bán những thú đồ hang bên bờ hồ. Qua cách miêu tả của tác giả Phạm Đình Hổ ta thấy được sự lố lăng kệch cỡm của những con người tự xưng là bậc phụ mẫu của nhân dân.

Điều mà chúa Trịnh Sâm làm được cho dân không phải cuộc sống ấm no, cuộc sống thái bình mà là những đau khổ, lầm than không sao kể xiết. Cuộc du ngoạn của chúa cũng thật lố lăng đến mức nực cười, thuyền ngự đến đâu thì quan hỗ tụng đại thần lại có thể tùy ý ghé vào mua bán các thứu như cửa hang trong chợ. Đỉnh điểm của những trò lố lăng, kệch cỡm đó chính là những nơi thiêng liêng như chùa Trấn Quốc cũng bị mang ra làm thú vui tiêu khiển cho bọn vua chúa vô năng “ Cũng có lúc cho bọn nhạc công ngồi trên gác chuông chùa Trấn Quốc, hay duwois bóng cây bến đá nào đó, hòa vài khúc nhạc”.

Chúa Trịnh Sâm khi mới lên ngôi vốn là một con người có trí tuệ, thông minh quyết đoán nhưng sau khi giành được vương vị thì bỗng thành ra đổ đốn, ăn chơi hưởng lạc và trở thành một vị chúa điển hình cho những thói hưởng lạc kệch cớm, xa hoa bậc nhất lịch sử triều đại phong kiến Việt Nam. Sauk hi dẹp được các bè phái đối lập, Trịnh Sâm kiêu căng sa đọa vào những thú vui xa xỉ. Chúa Trịnh Sâm xay mê Đặng Thị Huệ, phế con trưởng lập con thứ gây nên bao nhiêu cảnh bạo ngược.

Không chỉ đắm chìm trong tửu sắc, cuộc sống xa hoa trụy lạc mà chúa Trịnh Sâm cũng say mê những trân cầm dị thú ttrong dân gian, để có được những thứ mình thích, chúa đã dung quyền lực để thu về hết, không cần quan tâm đó là của ai và giành lấy bằng cách cướp đoạt trắng trợn.

Từ những thứ nhỏ gọn như cổ mộc quái thạch đến những thứ to lớn, rườm rà chúa đều sai người lấy về bằng hết: “ bao nhiêu những loài trân cẩm dị thú, cổ mộc quái thạch, chậy hao cây cảnh ở chốn dân gian, Chúa đều sức thu lấy, không thiếu một thứ gì. Có khi lấy cả cây đa to, cành lá rườm rà, từ bên bắc chở qua sông đem về…”

Đối ngược với cuộc sống lầm than chốn dân gian, nơi phủ chúa lại vô cùng xa hoa tráng lệ, trong phủ được trưng bày đủ những thứ quý giá, đẹp đẽ trong dân gian “Trong phủ, tùy chỗ điểm xuyết bày vẽ ra hình núi non bộ trông như bến bể đầu non”. Không chỉ viết về cuộc sống của chúa Trịnh Sâm mà tác giả Phạm Đình Hổ còn nói đến cuộc sống đầy bất an của dân chúng khi thói trộm cướp, cường quyền hoành hành khắp nơi.

Bọn quan lại cậy quyền mà dò xét những thứu quý giá trong dân gian, một khi đã lọt vào mắt xanh của chúng thì chúng sẽ bày ra việc “phụng thủ” ý chỉ của chúa để thu gom cho bằng hết, cuộc sống của người dân luôn trong tình trạng nơm nớp lo sợ, cảnh giác khi về khuya “Mỗi khi đêm thanh cảnh vắng, tiếng chim vượn hót ran khắp bốn bề, hoặc nửa đêm ồm ào trận mưa sa gió táp, kẻ thức giả biết đó là triệu bất thường. Bọn hoạn quan cung giám lại thường nhờ gió bẻ măng, mang ra ngoài dọa dẫm…”.

Tác giả còn nói về hoàn cảnh trớ trêu, hài hước của chính mình, nhà tác giả có cây lê đẹp và thơm, cây lựu trắng đỏ đẹp mắt cũng bị những người cung nhân sai chặt đi “Nhà ta ở phường Hà Khẩu, huyện Thọ Xương, trước nhà tiền đường có trồng một cây lê….hai cây lựu trắng đỏ…bà cung nhân ta sai chặt đi cũng vì cớ đó”

Phân tích đoạn trích Chuyện cũ trong phủ Chúa Trịnh của Phạm Đình Hổ – Bài làm 4

Tác phẩm Vũ trung tùy bút (tuỳ bút viết trong những ngày mưa) của danh sĩ Phạm Đình Hổ là tập bút kí sinh động về xã hội Việt Nam thời Lê – Trịnh, vào những năm cuối thế kỉ XVIII. Mặc dù được viết theo thể tuỳ bút khá tự do, nhưng những điều được ghi lại trong đó đã chứa đựng một giá trị hiện thực rất sắc sảo, đồng thời bộc lộ rõ cái nhìn phê phán của tác giả với thói xa hoa vô độ của vua chúa phong kiến. Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnhlà một trong những câu chuyện được kể lại trung thực giúp ta hiểu về bộ mặt thật xấu xa của tập đoàn chúa Trịnh được che đậy trong lớp vỏ vàng son hào nhoáng.

Phạm Đình Hổ (1768 – 1839) là người nổi tiếng với biệt danh Chiêu Hổ, là người am hiểu văn hoá nếp sống của Thăng Long – Kẻ Chợ. Vốn dòng dõi quan lại đời Lê nên ông có điều kiện hiểu rõ những kẻ thuộc giới quý tộc kinh kì. Những điều nhà văn ghi lại tưởng như là sự ghi nhận về thời vô sự – bốn phương yên hưởng thái bình. Mỉa mai thay, thực trạng lại là một bức tranh với sắc chói chang của mũ mão cân đai rỡ ràng đối lập với thực tại tinh thần tối sầm những cảm giác bất an trong đời sống dân lành. Thực trạng ấy từng được mô tả trong Thượng kinh kí sựcủa Hải Thượng Lãn Ông, Tang thương ngẫu lục của danh sĩ Nguyễn Án. Nhưng câu chuyện của Chiêu Hổ vẫn có sức hấp dẫn riêng.

Thời gian, khung cảnh câu chuyện được thuật lại tỉ mỉ. Trong bối cảnh trong nước vô sự, việc an hưởng thái bình, du ngoạn cảnh đẹp của một ông chúa có lẽ chẳng có gì đáng nói. Việc ăn chơi của Chúa đáng nói ở chỗ “đình đài được làm liên tục”. Hãy so sánh với những gì trong phủ Chúa được Hải Thượng Lãn Ông mô tả : “ nơi nào cũng lâu đài, đình các, rèm châu cửa ngọc, áng nước mây loà, suốt cõi toàn hoa, hoa cỏ kì lạ, gió thoảng hương trời, thú đẹp chim quý, nhảy nhót bay hót, giữa đất bằng nhô lên một ngọn núi cao, cây to bóng mát, nhịp cầu sơn vẽ bắc qua lạch nước quanh co, lại có lan can làm toàn bằng đá màu…”. Ngoài cung cũng là cả một sự xa xỉ cầu kì như vậy. Chúa thưởng ngoạn cảnh đẹp kéo theo cả một đội quân tiền hô hậu ủng với binh lính, nội thần, các quan hỗ tụng đại thần… Quang cảnh phô bày qua sự mô tả của tác giả khiến người đọc hình dung một sự sắp đặt nhằm làm đẹp lòng Chúa của đám nịnh thần mặt trắng, đồng thời hiện rõ tính chất phồn vinh giả tạo của cuộc sống kinh kì. Thức ngon sẵn bày, đàn hay sáo ngọt. Chỉ cần vài cảnh đã cho thấy sự xa hoa tráng lệ xứng đáng với tiếng tăm Thịnh Vương – quyền hành dưới mà trên cả hoàng đế. Đàng sau những vẻ phô trương hào nhoáng đó là sự lố bịch hiện hình : bọn nội thần mặc quần áo đàn bà đứng bán hàng, cảnh đi chợ của các quan như trò chơi trẻ con cho thấy sự phồn vinh giả tạo. Nhằm thoả mãn nhu cầu ích kỉ của mình, “bao nhiêu những loài trân cầm dị thú, cổ mộc, quái thạch và chậu hoa cây cảnh ở chốn dân gian, Chúa đều sức thu lấy, không thiếu một thứ gì”. Quyền lực, xa xỉ, ngang ngược, hống hách là những gì chúng ta có thể hình dung về ông Chúa nổi tiếng ăn chơi này. Tác giả đã bình bằng một điềm báo : “Mỗi khi đêm thanh cảnh vắng, tiếng chim kêu vượn hót ran khắp bốn bề, hoặc nửa đêm ồn ào như trận mưa sa gió táp, vỡ tổ tan đàn, kẻ thức giả biết đó là triệu bất tường”. Câu văn miêu tả vẽ ra viễn cảnh u ám, đầy âm khí, như kết đọng nỗi oán hờn của dân gian, chứa đựng ý nghĩa cảnh báo sự sụp đổ không thể tránh khỏi của một vương triều quái thai mục ruỗng.

“Thượng bất chính, hạ tắc loạn” (Trên không nghiêm, dưới sinh loạn) ! Quả thật, những gì Phạm Đình Hổ diễn tả tiếp nối về hành động của bọn tay chân nhà Chúa đục nước béo cò, “nhờ gió bẻ măng, ra ngoài dọa dẫm”. Nhà dột từ nóc, bởi thế người đọc không nghi ngờ gì về bản chất thối nát của vương triều Lê – Trịnh. Tất yếu, những hành vi của chúng gây tác hại cho dân lành lương thiện như thế nào : bị vu oan, hãm hại cửa nát nhà tan. Không phải là cách nói ví von mà Phạm Đình Hổ còn kể lại câu chuyện sinh động : “Hòn đá hoặc cây cối gì to lớn quá thì thậm chí phải phá nhà hủy tường để khiêng ra”. Người giàu có của bỗng thành miếng mồi ngon cho bầy diều quạ hung dữ mượn danh Chúa đục khoét, hành hạ. Không những thế, người kể chuyện còn đưa ra bằng chứng ngay trong gia đình mình như xác minh tính chân thực của câu chuyện kể : “Nhà ta ở phường Hà Khẩu, huyện Thọ Xương, trước nhà tiền đường có trồng một cây lê, cao vài mươi trượng, lúc nở hoa trắng xoá thơm lừng ; trước nhà trung đường, cũng trồng hai cây lựu trắng, lựu đỏ, lúc ra quả trông rất đẹp, bà cung nhân ta đều sai chặt đi cũng vì cớ ấy” . Bản thân gia đình tác giả thuộc hàng quý tộc chốn cung đình, vậy mà còn trở thành nạn nhân của Chúa Trịnh. Ta chứng kiến cái đẹp bị hủy hoại bởi lẽ không cái đẹp nào có thể được phát triển tự nhiên dưới ách bạo quyền. Câu chuyện kết thúc ở đó, nhưng giá trị tố cáo đã thật đầy đủ, không cần nói thêm, viết thêm.

Một chuyện cũ viết lại qua lời kể chuyện, miêu tả sinh động của Phạm Đình Hổ đã giúp ta hình dung tất cả sự thối nát tàn bạo của triều đình vua Lê – chúa Trịnh và hiểu rõ nguyên nhân sụp đổ của nó. Khi những kẻ cầm quyền chỉ biết vun vén bản thân, bỏ mặc nhân dân, chắc chắn sẽ mất lòng dân, lời ta thán của dân chúng sẽ biến thành sức mạnh khởi nghĩa lật nhào chế độ. Có lẽ, đó còn là lời nhắc nhở, cảnh tỉnh của Chiêu Hổ cho triều đại nhà Nguyễn đương thời. Ông đã vạch đúng bản chất chung của giai cấp phong kiến, qua những trang tùy bút đặc sắc .

Vũ trung tùy bút là tập kí họa về thời đại qua tài hoa của cây bút Phạm Đình Hổ. Dù thời ấy đã qua, nhưng những câu chuyện trong đó vẫn còn giá trị tư liệu, giá trị lịch sử và văn chương. Người đọc có thể nhận thấy sức mạnh hủy diệt của thế lực đồng tiền khi song hành với quyền lực và bả phù hoa làm hủy hoại nhân tính con người đến mức nào !

Như vậy, Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh phản ánh sâu sắc đời sống xa hoa của vua chúa và những việc nhũng nhiễu của bọn quan lại thời Lê- Trịnh bằng một lối văn ghi chép sự việc cụ thể, chân thực, sinh động.

Từ khóa tìm kiếm

0