04/06/2017, 23:47
Phân tích hình tượng người nông dân nghĩa sĩ qua bài "Văn tế nghĩa sĩ cẩn Giuộc" của Nguyễn Đình Chiểu.
Năm 1859, giặc Pháp đánh chiếm Gia Định. Mấy năm sau, Pháp đánh úp cần Giuộc, một thị trấn cách Gia Định 23km về phía tây nam. Ngày 16 - 12 - 1861, nghĩa quân tậpkích đồn giặc, hi sinh vài mươi người. Nguyễn Đình Chiểu làm bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc để truy điệu những nghĩa quân đã hi sinh. Qua ...
Năm 1859, giặc Pháp đánh chiếm Gia Định. Mấy năm sau, Pháp đánh úp cần Giuộc, một thị trấn cách Gia Định 23km về phía tây nam. Ngày 16 - 12 - 1861, nghĩa quân tậpkích đồn giặc, hi sinh vài mươi người. Nguyễn Đình Chiểu làm bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc để truy điệu những nghĩa quân đã hi sinh. Qua bài văn tế này, lần đầu tiên người nông dân Việt Nam đi vào văn học thành văn với tất cả vẻ đẹp và tầm vóc lịch sử có thực của mình.
Ta hãy phân tích hình tượng người nông dân nghĩa sĩ qua bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc của Nguyễn Đình Chiểu, một hình tượng người nông dân bình thường mà vĩ đại, vì nước hi sinh, rực rỡ nét sử thi, làm rung động tâm hồn người đọc mọi thế hệ.
Người nghĩa sĩ ấy xuất thân là người nông dân nghèo khó: mở đầu cuộc đời là cui cút, khép lại là nghèo khó:
Cui cút làm ăn;
Toan lo nghèo khó.
Gói vào trong đó là những làm ăn cần mẫn, những lo toan nhọc nhằn. Họ cũng rất chất phác, thật thà:
Chưa quen cung ngựa, đâu tới trường nhung;
Chỉ biết ruộng trâu, ở trong làng bộ.
Chỉ biết ruộng trâunghĩa là ngoài việc đồng áng ra, họ không còn biết gì cả. Ở trong làng bộ ngụ ý toàn bộ thế giới đối với họ thu lại chỉ trong làng xóm mà thôi. Câu kế tiếp liệt kê những công việc nặng nhọc phủ vây con người lam lũ bé nhỏ này:
Việc cuốc, việc cày, việc bừa, việc cấy, tay vốn quen làm;
Họ không biết chút gì về chiến trận: .
Tập khiên, tập súng, tập mác, tập cờ, mắt chưa từng ngó.
Tuy nhiên, khi giặc Pháp đánh chiếm quê hương Nam Bộ, người nông dân hiền lành, chân chất và hoàn toàn xa lạ với chiến trận binh đao đó bỗng chốc trở thành người nghĩa sĩ anh dũng đánh Tây. Đó là sự phi thường nhưng cũng bình thường vì theo một quá trình rất tự nhiên và rất thực.
Thực dân Pháp tiến công Nam Bộ đã hơn mươi tháng. Người dân mong chờ triều đình xuất binh đánh giặc, nhưng trông tin quan như trời hạn trông mưa. Lúc đầu nghe thấy kẻ thù hôi tanh, mùi tinh chiên vấy vá đã ba năm, nên họ ghét thói xâm lăng mọi rợ đó như nhà nông ghét cỏ, thấy cỏ ở ruộng lúa là phải nhổ sạch. Khi kẻ thù hiện hình cụ thể trước mất, toàn màu gay gắt, các lều trại của chúng che trắng lốp, những tàu thuyền của chúng nhả khói đen sì, lòng căm ghét chuyển sang căm thù, nên họ muốn tới ăn gan, muôn ra cắn cổ. Những động từ mạnh mẽ muốn ăn, muốn cắn diễn tả mức độ căm thù lên đến tột đỉnh:
Bữa thấy bòng bong che trắng lốp, muốn tới ăn gan;
Ngày xem ống khói chạy đen sì, muốn ra cắn cổ.
Bên cạnh sự căm thù của tình cảm là sự căm thù của lí trí. Giặc Pháp lộ nguyên hình là những kẻ mượn chiêu bài truyền đạo, khai hóa ở nước ta nhưng thực chất là xâm lược, là một lũ treo dê bán chó. Đất nước văn hiến của ta không phải là vùng đất vô chủ mà chúng giành giật, mặc tình chém rắn đuổi hươu. Cho nên nhân dân ta há để yên, thiên lí chói lòa đâu dung tha bọn xâm lược. Cả tình cảm lẫn lí trí đều nổi giận, và do ý thức trách nhiệm công dân, người nông dân đứng lên đánh giặc, ra sức, ra tay với khí thế hào hùng, đoạn kinh, bộ hổ:
Nào đợi ai đòi, ai bắt, phen này xin ra sức đoạn kinh;
Chẳng thèm trốn ngược, trốn xuôi, chuyến này dốc ra tay bộ hổ.
Trong trận tập kích cần Giuộc này, họ là những người dũng sĩ công đồn. Họ không đợi tập rèn mười tám ban võ nghệ, cũng không chờ bày bố chín chục trận binh thư. Những người nông dân ấy cũng không được chuẩn bị quân trang, nào đợi mang bao tấu, bầu ngòi, chi nài sẩm dao tu, nón gõ. Vũ khí chi là ngọn tầm vông vạt nhọn, con cúi làm mồi lửa, lưỡi dao phay... vốn là những vật dụng sinh hoạt hằng ngày, nhưng khi trong tay người nghĩa sĩ, tất cả đều trở thành vũ khí vô địch: đốt xong nhà dạy đạo kia, chém rớt đầu quan hai nọ. Biện pháp đối lập (giặc thì đạn nhỏ, đạn to, tàu thiếc, tàu đồng, còn ta thì ngọn tầm vông, lưỡi dao phay) đã cực tả quyết tâm chiến đấu của người nông dân nghĩa sĩ, dù kẻ thù có sức mạnh quân sự hơn mình nhiều lần:
Chi nhọc quan quân gióng trống kì, trống giục, đạp rào lướt tới, coi giặc cũng như không;
Nào sợ thằng Tây bắn đạn nhở, đạn to, xô cửa xông vào, liều mình như chẳng có.
Kẻ đâm ngang, người chém ngược, làm cho mã tà, ma ní hồn kinh;
Bọn hè trước, lũ ó sau, trối kệ tàu sắt, tàu đồng súng nổ.
Nhiều động từ và giới từ tá những động tác liên tục chống đỡ, công thủ mọi hướng: đạp rào lướt tới, xô cửa xông vào, đâm ngang, chém ngược, hè trước, ó sau. Từng vế câu gối hạc đối nhau chan chát, quyết liệt. Hình ảnh những người nghĩa quân trong giờ phút căng thẳng cao độ của trận đánh được diễn tả cực kì sinh động, thể hiện lòng dũng cảm tuyệt vời, sự hi sinh cao quý đến độ thiêng liêng của người nghĩa sĩ.
Sự hi sinh của họ là một bi kịch, và tác giả vô cùng cảm khái:
Những lăm lòng nghĩa lâu dùng;
Đâu biết xác phàm vội bỏ.
Nhưng đây là một bi kịch cao cả thiêng liêng của những người nghĩa sĩ da ngựa bọc thây, những anh hùng vô danh nào đợi gươm hùm treo mộ. Cái chết của nghĩa quân gieo khắp không gian một vẻ u sầu, nơi người người một nỗi tiếc thương đau xót. Biện pháp ẩn dụ cỏ cây mấy dặm sầu giăng và hình ảnh tả thực già trẻ hai hàng lụy nhỏ đã nói lên tình cảm bi thương đó.
Càng thương cảm hơn khi ta hiểu được động cơ hi sinh vô cùng cao quý của nghĩa quân. Vì nghĩ tới tấc đất ngọn rau của quê hương, bát cam manh áo của nhân dân, không chịu làm nô lệ, nên họ quyết tâm đánh giặc, dù phải hi sinh:
Thà thác mà đặng câu địch khái; về theo tổ phụ cũng vinh.
Cùng cần phân tích rõ trách nhiệm về cái chết của nghĩa quân. Dĩ nhiên là do giặc xâm lược, mắc mớ chi ông cha nó, nhưng cũng vì triều đình hèn nhát, do bọn người theo quân tả đạo, ở tính mã tà... Người nghĩa sĩ hi sinh thì mối hờn được trả, tấm lòng son sáng mãi như ánh trăng rằm và phận bạc của họ cũng sẽ phôi pha, trôi theo dòng nước đổ. Nhà thơ còn nghĩ đến số phận của quê hương Nam Bộ mà nhỏ lệ đau thương.
Binh tướng nó hãy đóng sông Bến Nghé, ai làm nên bốn phía mây đen;
Ông cha ta còn ở đất Đồng Nai, ai cứu đặng một phường con đỏ.
Tiếng khóc tiếc thương người nghĩa sĩ có bi thương nhưng không bi lạy. Đây là nước mắt anh hùng như đang long lanh hình ảnh những con người nghìn năm tiết rỡ. Và sống đánh giặc, thác cũng đánh giặc nên hồn thiêng của người nghĩa sĩ sẽ theo giúp cơ binh để đánh đuổi giặc thù ra khỏi cõi bờ. Lời khấn nguyện như thôi thúc những người đang sống hãy tiếp tục đứng lên chiến đấu diệt thù.
Tóm lại, qua bài văn tế này, người nông dân trở thành những người anh hùng chân đất làm nên lịch sử. Một mặt họ vẫn lam lũ bé nhỏ, cui cút làm ăn, nhưng mặt khác, họ rất anh hùng. Anh hùng vì họ dám đánh giặc, dù chỉ với ngọn tầm vông, lưỡi dao phay, manh áo vải. Họ càng anh hùng nếu so với thái độ sợ giặc, hàng giặc của triều đình. Quả thật người nông dân nghĩa sĩ đã gánh nặng lịch sử "một thời khổ nhục nhưng vĩ đại".
Người nghĩa sĩ ấy xuất thân là người nông dân nghèo khó: mở đầu cuộc đời là cui cút, khép lại là nghèo khó:
Cui cút làm ăn;
Toan lo nghèo khó.
Gói vào trong đó là những làm ăn cần mẫn, những lo toan nhọc nhằn. Họ cũng rất chất phác, thật thà:
Chưa quen cung ngựa, đâu tới trường nhung;
Chỉ biết ruộng trâu, ở trong làng bộ.
Chỉ biết ruộng trâunghĩa là ngoài việc đồng áng ra, họ không còn biết gì cả. Ở trong làng bộ ngụ ý toàn bộ thế giới đối với họ thu lại chỉ trong làng xóm mà thôi. Câu kế tiếp liệt kê những công việc nặng nhọc phủ vây con người lam lũ bé nhỏ này:
Việc cuốc, việc cày, việc bừa, việc cấy, tay vốn quen làm;
Họ không biết chút gì về chiến trận: .
Tập khiên, tập súng, tập mác, tập cờ, mắt chưa từng ngó.
Tuy nhiên, khi giặc Pháp đánh chiếm quê hương Nam Bộ, người nông dân hiền lành, chân chất và hoàn toàn xa lạ với chiến trận binh đao đó bỗng chốc trở thành người nghĩa sĩ anh dũng đánh Tây. Đó là sự phi thường nhưng cũng bình thường vì theo một quá trình rất tự nhiên và rất thực.
Thực dân Pháp tiến công Nam Bộ đã hơn mươi tháng. Người dân mong chờ triều đình xuất binh đánh giặc, nhưng trông tin quan như trời hạn trông mưa. Lúc đầu nghe thấy kẻ thù hôi tanh, mùi tinh chiên vấy vá đã ba năm, nên họ ghét thói xâm lăng mọi rợ đó như nhà nông ghét cỏ, thấy cỏ ở ruộng lúa là phải nhổ sạch. Khi kẻ thù hiện hình cụ thể trước mất, toàn màu gay gắt, các lều trại của chúng che trắng lốp, những tàu thuyền của chúng nhả khói đen sì, lòng căm ghét chuyển sang căm thù, nên họ muốn tới ăn gan, muôn ra cắn cổ. Những động từ mạnh mẽ muốn ăn, muốn cắn diễn tả mức độ căm thù lên đến tột đỉnh:
Bữa thấy bòng bong che trắng lốp, muốn tới ăn gan;
Ngày xem ống khói chạy đen sì, muốn ra cắn cổ.
Bên cạnh sự căm thù của tình cảm là sự căm thù của lí trí. Giặc Pháp lộ nguyên hình là những kẻ mượn chiêu bài truyền đạo, khai hóa ở nước ta nhưng thực chất là xâm lược, là một lũ treo dê bán chó. Đất nước văn hiến của ta không phải là vùng đất vô chủ mà chúng giành giật, mặc tình chém rắn đuổi hươu. Cho nên nhân dân ta há để yên, thiên lí chói lòa đâu dung tha bọn xâm lược. Cả tình cảm lẫn lí trí đều nổi giận, và do ý thức trách nhiệm công dân, người nông dân đứng lên đánh giặc, ra sức, ra tay với khí thế hào hùng, đoạn kinh, bộ hổ:
Chẳng thèm trốn ngược, trốn xuôi, chuyến này dốc ra tay bộ hổ.
Trong trận tập kích cần Giuộc này, họ là những người dũng sĩ công đồn. Họ không đợi tập rèn mười tám ban võ nghệ, cũng không chờ bày bố chín chục trận binh thư. Những người nông dân ấy cũng không được chuẩn bị quân trang, nào đợi mang bao tấu, bầu ngòi, chi nài sẩm dao tu, nón gõ. Vũ khí chi là ngọn tầm vông vạt nhọn, con cúi làm mồi lửa, lưỡi dao phay... vốn là những vật dụng sinh hoạt hằng ngày, nhưng khi trong tay người nghĩa sĩ, tất cả đều trở thành vũ khí vô địch: đốt xong nhà dạy đạo kia, chém rớt đầu quan hai nọ. Biện pháp đối lập (giặc thì đạn nhỏ, đạn to, tàu thiếc, tàu đồng, còn ta thì ngọn tầm vông, lưỡi dao phay) đã cực tả quyết tâm chiến đấu của người nông dân nghĩa sĩ, dù kẻ thù có sức mạnh quân sự hơn mình nhiều lần:
Chi nhọc quan quân gióng trống kì, trống giục, đạp rào lướt tới, coi giặc cũng như không;
Nào sợ thằng Tây bắn đạn nhở, đạn to, xô cửa xông vào, liều mình như chẳng có.
Kẻ đâm ngang, người chém ngược, làm cho mã tà, ma ní hồn kinh;
Bọn hè trước, lũ ó sau, trối kệ tàu sắt, tàu đồng súng nổ.
Nhiều động từ và giới từ tá những động tác liên tục chống đỡ, công thủ mọi hướng: đạp rào lướt tới, xô cửa xông vào, đâm ngang, chém ngược, hè trước, ó sau. Từng vế câu gối hạc đối nhau chan chát, quyết liệt. Hình ảnh những người nghĩa quân trong giờ phút căng thẳng cao độ của trận đánh được diễn tả cực kì sinh động, thể hiện lòng dũng cảm tuyệt vời, sự hi sinh cao quý đến độ thiêng liêng của người nghĩa sĩ.
Sự hi sinh của họ là một bi kịch, và tác giả vô cùng cảm khái:
Những lăm lòng nghĩa lâu dùng;
Đâu biết xác phàm vội bỏ.
Nhưng đây là một bi kịch cao cả thiêng liêng của những người nghĩa sĩ da ngựa bọc thây, những anh hùng vô danh nào đợi gươm hùm treo mộ. Cái chết của nghĩa quân gieo khắp không gian một vẻ u sầu, nơi người người một nỗi tiếc thương đau xót. Biện pháp ẩn dụ cỏ cây mấy dặm sầu giăng và hình ảnh tả thực già trẻ hai hàng lụy nhỏ đã nói lên tình cảm bi thương đó.
Càng thương cảm hơn khi ta hiểu được động cơ hi sinh vô cùng cao quý của nghĩa quân. Vì nghĩ tới tấc đất ngọn rau của quê hương, bát cam manh áo của nhân dân, không chịu làm nô lệ, nên họ quyết tâm đánh giặc, dù phải hi sinh:
Thà thác mà đặng câu địch khái; về theo tổ phụ cũng vinh.
Cùng cần phân tích rõ trách nhiệm về cái chết của nghĩa quân. Dĩ nhiên là do giặc xâm lược, mắc mớ chi ông cha nó, nhưng cũng vì triều đình hèn nhát, do bọn người theo quân tả đạo, ở tính mã tà... Người nghĩa sĩ hi sinh thì mối hờn được trả, tấm lòng son sáng mãi như ánh trăng rằm và phận bạc của họ cũng sẽ phôi pha, trôi theo dòng nước đổ. Nhà thơ còn nghĩ đến số phận của quê hương Nam Bộ mà nhỏ lệ đau thương.
Binh tướng nó hãy đóng sông Bến Nghé, ai làm nên bốn phía mây đen;
Ông cha ta còn ở đất Đồng Nai, ai cứu đặng một phường con đỏ.
Tiếng khóc tiếc thương người nghĩa sĩ có bi thương nhưng không bi lạy. Đây là nước mắt anh hùng như đang long lanh hình ảnh những con người nghìn năm tiết rỡ. Và sống đánh giặc, thác cũng đánh giặc nên hồn thiêng của người nghĩa sĩ sẽ theo giúp cơ binh để đánh đuổi giặc thù ra khỏi cõi bờ. Lời khấn nguyện như thôi thúc những người đang sống hãy tiếp tục đứng lên chiến đấu diệt thù.
Tóm lại, qua bài văn tế này, người nông dân trở thành những người anh hùng chân đất làm nên lịch sử. Một mặt họ vẫn lam lũ bé nhỏ, cui cút làm ăn, nhưng mặt khác, họ rất anh hùng. Anh hùng vì họ dám đánh giặc, dù chỉ với ngọn tầm vông, lưỡi dao phay, manh áo vải. Họ càng anh hùng nếu so với thái độ sợ giặc, hàng giặc của triều đình. Quả thật người nông dân nghĩa sĩ đã gánh nặng lịch sử "một thời khổ nhục nhưng vĩ đại".