29/01/2018, 21:21

Phân tích đoạn trích Cảnh ngày xuân – Văn mẫu lớp 9

Nội dung bài viết1 Phân tích đoạn trích Cảnh ngày xuân – Bài số 1 2 Phân tích đoạn trích Cảnh ngày xuân – Bài số 2 3 Phân tích đoạn trích Cảnh ngày xuân – Bài số 3 4 Phân tích đoạn trích Cảnh ngày xuân – Bài số 4 5 Phân tích đoạn trích Cảnh ngày xuân – Bài số 5 Phân ...

Nội dung bài viết1 Phân tích đoạn trích Cảnh ngày xuân – Bài số 1 2 Phân tích đoạn trích Cảnh ngày xuân – Bài số 2 3 Phân tích đoạn trích Cảnh ngày xuân – Bài số 3 4 Phân tích đoạn trích Cảnh ngày xuân – Bài số 4 5 Phân tích đoạn trích Cảnh ngày xuân – Bài số 5 Phân tích đoạn trích Cảnh ngày xuân – Bài số 1 Trang thơ của Nguyễn Du đang mở rộng trước mắt chúng ta. Có phải không, sau bức chân dung giai nhân là bức họa về cảnh sắc mùa xuân trong tiết Thanh minh và cảnh du xuân của trai tài gái sắc, của chị em Thúy Kiều? Đoạn thơ Cảnh ngày xuân gồm có 18 câu, từ câu 39 đến câu 56 của Truyện Kiều tiêu biểu cho bút pháp nghệ thuật tả cảnh và tả tình của thi hào Nguyễn Du. Một vẻ đẹp thanh xuân, một niềm vui xốn xao, náo nức cứ dâng lên, cứ lan tỏa, rồi lắng dịu mãi trong lòng ta khi đọc đoạn thơ này. Bốn câu thơ đầu mở ra một không gian nghệ thuật hữu sắc, hữu hương, hữu tình, nên thơ. Giữa bầu trời bao la mênh mông là những cánh én bay qua bay lại như "đưa thoi". Cánh én mùa xuân thân mật biết bao. Hai chữ "dưa thoi" rái gợi hình, gợi cảm. Cánh én như con thoi vút qua, vút lại, chao liệng; thời gian đang trôi nhanh, mùa xuân đang trôi nhanh. Câu thành ngữ – tục ngữ: "Thời gian thấm thoắt thoi đưa, nhưngựa chạy, như nước chảy qua cầu"đã nhập vào hồn thơ Tố Như tự bao giờ? Sau cánh én "đưa thoi" là ánh xuân, là "thiều quang" của mùa xuân khi "chín chục dã ngoài sáu mươi". Cách tính thời gian và miêu tả vẻ đẹp mùa xuân của các thi sĩ xưa nay thật là hay và ý vị. Nào là "xuân hướng lão"(ức Trai), nào cảnh mưa bụi, tiếng chim kêu trong Đường thi. Nào là cánh bướm rối rít bay trong thơ Trần Nhân Tông. Còn là "xuân hồng"(Xuân Diệu), "mùa xuân chín" (Y lần Mặc Tử) v.v… Với Nguyễn Du là mùa xuân đã bước sang tháng ba, "Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi". Hai chữ "thiều quang"gợi lên cái màu hồng của ánh xuân, cái ấm áp của khí xuân, cái mênh mông bao la của đất trời "Xuân giang, xuân thủy tiếp xuân thiên"(Nguyên tiêu – Hồ Chí Minh). Còn là sắc "xanh" mơn mởn, ngọt ngào của cỏ non trải dài, trải rộng như tấm thảm "tận chân trời". Là sắc "trắng" tinh khôi, thanh khiết của hoa lê nở lác đác, chỉ mới hé lộ, khoe sắc khoe hương "một vài bông hoa Cỏ non xanh tận chân trời, Cành lê trắng điểm một vài bông hoa. Vần cổ thi Trung Hoa được Tố Như vận dụng một cách sáng tạo: "Phương thảo liên thiên bích – Lê chi sổ điểm hoa". Hai chữ "trắng điểm" là nhãn tự, cách chấm phá điểm xuyết của thi pháp cổ gợi lên vẻ đẹp thanh xuân trinh trắng của thiên nhiên cỏ hoa; bút pháp nghệ thuật phối sắc tài tình: trên cái nền xanh của cỏ non là một vài bông lê "trắng điểm". Giữa diện và điểm, giữa nền xanh và sắc trắng của cảnh vật mùa xuân là những cánh én "đưa thoi", là màu hồng của ánh thiều quang, là "khát vọng mùa xuân" ngây ngất, say đắm lòng người: Nhìn hoa đang hé tưng bừng, Khao khát mùa xuân yên vui lại đến ". (Ca khúc Khát vọng mùa xuân – Mô-da) Cảnh mùa xuân là bức tranh xuân hoa lệ, là vần thơ tuyệt bút của Nguyễn Du để lại cho đời, điểm tô cho cuộc sống mỗi chúng ta. Phải chăng, thi sĩ Chế Lan Viên đã học tập Tố Như để viết nên vần thơ xuân đẹp này: Tháng giêng hai xanh mướt cỏ đồi, Tháng giêng hai vút trời bay cánh én… ? (ý nghĩ mùa xuân) Tám câu thơ tiếp theo tả cảnh trẩy hội mùa xuân: "Lễ là tảo mộ, hội là đạp thanh" trong tiết tháng ba. Điệp ngữ: "lễ là… hội là…"gợi lên những cảnh lễ hội dân gian cứ liên tiếp diễn ra đã bao đời nay: "Tháng giêng là tháng ăn chơi – Tháng hai cờ bạc, tháng ba hội hè"…(Ca dao). Cảnh trẩy hội đông vui, tưng bừng, náo nhiệt. Trên các nẻo đường "gần xa" những dòng người cuồn cuộn trẩy hội. Có biết bao "yến anh" trẩy hội trong niềm vui "nô nức", hồ hởi, giục giã. Có biết bao tài tử, giai nhân "dập dìu" vai sánh vai, chân nối chân nhịp bước. Dòng người trẩy hội tấp nập ngựa xe cuồn cuộn "nhưnước",áo quần đẹp đẽ, tươi thắm sắc màu, nghìn nghịt, đông vui trên các nẻo đường "như nêm". Các từ ngữ: "nô nức", "dập dìu", các ẩn dụ so sánh (như nước, như nêm) đã gợi tả lễ hội mùa xuân tưng bừng náo nhiệt đang diễn ra khắp mọi miền quê đất nước. Trẻ trung và xinh đẹp, sang trọng và phong lưu: Dập dìu tài tử giai nhân, Ngựa xe như nước, áo quẩn như nêm. Trong đám tài tử, giai nhân "gần xa" ấy, có 2 chị em Kiều. Câu thơ "Chị em sắm sửa bộ hành chơi xuân "mới đọc qua tưởng như chỉ là một thông báo. Nhưng sâu xa hơn, nó ẩn chứa bao nỗi niềm: chờ trông mong đợi, ngày lễ tảo mộ, ngày hội đạp thanh đến để du xuân trong những bộ quần áo đẹp đã chuẩn bị, đã "sắm sửa"… Có biết bao "bóng hồng" xuất hiện trong đám tài tử, giai nhân ấy? Ai đã từng đi hội chùa Hương, hội Lim, hội Yên Tử… mới cảm thấy cái đẹp, cái vui, cái tưng bừng, tươi trẻ trong hội đạp thanh mà Nguyễn Du đã nói đến. Thơ là nghệ thuật của ngôn từ. Các từ ghép: "yến/anh", "chị/em", "tài/tử", "giai/nhân" "ngựa/xe", "áo/quẩn" (danhtừ); "gần/xa", "nô/nức", "sắm/sửa", "dập/dìu" (tính từ, động từ) được thi hào sử dụng chọn lọc tinh tế, làm sống lại cái không khí lễ hội mùa xuân, một nét đẹp của nền văn hóa lâu đời của phương Đông, của Trung Hoa, của Việt Nam chúng ta, và nếp sống "phong lưu"của chị em Kiều. Ngổn ngang/gò đống kéo lên, Thoi vàng vó rắc/tro tiền giấy bay. Đời sống tâm linh, phong tục dân gian cổ truyền trong lễ tảo mộ được Nguyễn Du nói đến với nhiều cảm thông, san sẻ. Cõi âm và cõi dương, người đang sống và kẻ đã khuất, hiện tại và quá khứ đồng hiện trên những gò đống "ngổn ngang" trong lễ tảo mộ. Cái tâm thánh thiện, niềm tin phác thực dân gian đầy ắp nghĩa tình. Các tài tử, giai nhân, và 3 chị em Kiều không chỉ nguyện cầu cho những vong linh mà còn gửi gắm bao niềm tin, bao ao ước về tương lai hạnh phúc cho tuổi xuân khi mùa xuân về. Có thể sau hai trăm năm, ý nghĩ của mỗi chúng ta có ít nhiều đổi thay trước cảnh "Thoi vàng vó rắc, tro tiền giấy bay", nhưng giá trị nhân bản của vần thơ Nguyễn Du vẫn làm ta xúc động! Sáu câu thơ cuối đoạn ghi lại cảnh chị em Kiều đi tảo mộ đang dần bước trở về nhà. Mật trời đã "tà tà" gác núi. Ngày hội, ngày vui đã trôi qua nhanh: Tà tà, bóng ngả về tây, Chị em thơ thẩn dan tay ra về. Hội tan sao chẳng buồn? Ngày tàn sao chẳng buồn? Nhịp thơ chậm rãi. Nhịp sống như ngừng trôi. Tâm tình thì "thơ thẩn", cử chỉ thì "dan tay", nhịp chân thì "bước dần". Một cái nhìn man mác, bâng khuâng: "lần xem"… đối với mọi cảnh vật. Tất cả đều nhỏ bé. Khe suối chi là "ngọn tiểu khê". Phong cảnh "thanh thanh". Dòng nước thì "nao nao" uốn quanh. Dịp cầu thì "nho nhỏ" bắc ngang ở cuối ghềnh. Cả một không gian êm đềm, vắng lặng. Tâm tình của chị em Kiều như dịu lại trong bóng tà dương. Như đang đợi chờ một cái gì sẽ đến, sẽ nhìn thấy? Cặp mắt cứ "lẩn xem "gần xa: Bước dần theo ngọn tiểu khê, Lần xem phong cảnh có bề thanh thanh. Các từ láy tượng hình: "thanh thanh", "nao nao", "nho nhỏ" gợi lên sự nhạt nhòa của cảnh vật và sự rung động của tâm hồn giai nhàn khi hội tan, ngày tàn. Nỗi niềm man mác bâng khuâng thấm sâu, lan tỏa trong tâm hồn của giai nhân đa tình, đa cảm. Cảnh vật và thời gian được miêu tả bằng bút pháp ước lệ tượng trưng nhưng rất sống động, gần gũi, thân quen đối với bất cứ người Việt Nam nào. Không còn xa lạ nữa, vì ngọn tiểu khê ấy, dịp cầu nho nhỏ ấy là màu sắc đồng quê, là cảnh quê hương đất nước mình. Tính dân tộc là một nét đẹp đậm đà trong thơ Nguyễn Du, nhất là những vần thơ tả cảnh ngụ tình tuyệt tác. Thi sĩ Xuân Diệu từng viết: "Hỡi xuân hồng, ta muôn cắn vào ngươi". Trong Thương nhớ mười hai, Vũ Bằng không nén nổi cảm xúc của mình mà phải thốt lên: "Mùa xuân của tôi… Cái mùa xuân thần thánh của tôi… Đẹp quá đi, mùa xuân ơi – mùa xuân của Hà Nội thân yêu, của Bắc Việt thương mến…". Và chúng ta muốn nói thêm: Đẹp quá đi mùa xuân của đất nước thân yêu! Vui quá đi, trẻ đẹp quá đi cảnh mùa xuân, cảnh trẩy hội xuân trong Truyện Kiều. Mùa xuân đem đến cho ta bao ước vọng, sắc xuân, tình xuân như nở hoa, ướp hương trong lòng ta. Hỡi những nàng Kiều gần xa có nghe thấy tiếng nhạc vàng của chàng Kim Trọng trong ngày xuân đẹp từ xa đang vọng tới?… Phân tích đoạn trích Cảnh ngày xuân – Bài số 2 Sau khi giới thiệu gia cảnh Vương viên ngoại và giới thiệu vẻ đẹp của chị em Thúy Kiều, Nguyễn Du miều tả khung Cảnh ngày xuân trong tiết Thanh minh, ba chị em Kiều rủ nhau đi dạo chơi xuân. Mùa xuân là mùa của hoa thơm cỏ lạ, mùa của lễ hội văn hóa dân gian, mùa xuân đã hơn một lần đi vào thơ ca của Nguyễn Trãi, Trần Nhân Tông, Hàn Mặc Tử… Đến với bức tranh mùa xuân xinh đẹp của Nguyễn Du trong Cảnh ngày xuân, mùa xuân của lễ hội góp thêm một hương sắc mới. Từ trên đồi cao, mùa xuân mở ra trước mắt chúng ta là một không gian bất tận trong ánh nắng ban mai ấm áp của đất trời. Lúc này đã vào tháng ba bầu trời chưa hẳn trong xanh như trời thu những cũng đủ in hình những cánh én rộn ràng bay lượn. Kết cấu đoạn thơ theo trình tự thời gian. Bốn câu đầu tả cảnh mùa xuân. Tám câu tiếp tả tiết Thanh minh. Sáu câu cuối là cảnh chị em Kiều du xuân trở về. Cảnh ngày xuân. Bức tranh thiên nhiên mùa xuân tươi đẹp được dệt nên bằng những hình ảnh tiêu biểu, từ ngữ chọn lọc và nghệ thuật miêu tả tinh tế của Nguyễn Du: Ngày xuân con én đưa thoi, Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi. Cỏ non xanh tận chân trời, Cành lê trắng điểm một vài bông hoa. Thời gian thấm thoắt tựa thoi đưa. Vừa mới giêng, hai, nay đã bước sang tháng ba. Trên không trung bao la, những cánh én vẫn rộn ràng bay liệng. Chỉ bằng hai câu: cỏ non xanh tận chân trời, Cành lê trắng điểm một vài bông hoa, Nguyễn Du đã thể hiện được thần thái của mùa xuân. Thảm cỏ non trải rộng tới chân trời là màu sắc chủ đạo làm nền cho bức tranh xuân. Trên cái nền xanh bát ngát ấy điểm xuyết một vài bông hoa lê trắng như tuyết. Sự hài hòa tuyệt diệu của màu sắc gợi lên vẻ đẹp mới mẻ, tinh khôi, căng đầy sức sống của mùa xuân. Tám câu thơ tiếp theo tả khung cảnh lễ hội: Thanh minh trong tiết tháng ba, Lễ là tảo mộ hội là đạp thanh. Gần xa nô nức yến anh, Chị em sắm sửa bộ hành chơi xuân. Dập dìu tài tử giai nhân, Ngựa xe như nước áo quần như nêm Ngổn ngang gò đống kéo lên, Thoi vàng vó rắc tro tiền giấy bay. Đầu tháng ba, bầu trời quang đãng khí trời mát mẻ vương chút hơi lạnh của cái rét Nàng Bân khiến cỏ cây, hoa lá tốt tươi. Theo phong tục có từ lâu đời, trong tiết Thanh minh, người ta đi tảo mộ, tức là di thăm viếng và sửa sang lại phần mộ của người thân để bày tỏ tưởng nhớ và lòng biết ơn. Không khí lễ hội rộn ràng, đông vui. Những ẩn dụ so sánh: nô nức yến anh, ngựa xe như nước, áo quần như nêm gợi lên hình ảnh từng đoàn người đi chơi xuân như chim én, chim oanh bay ríu rít. Lễ hội mùa xuân tấp nập, nhộn nhịp bởi nam thanh, nữ tú, tài tử, giai nhân từ mọi nơi không ngớt kéo về. fQuanh những ngôi mộ, người ta rắc vàng thoi, bạc giây, bày cỗ, thắp nến, đốt nhang khấn vái.., Khói bay nghi ngút, hương thơm tỏa ngát một vùng. Sự cách trở âm dương hầu như đã bị xóa nhòa. Người đã khuất và người còn sông giao hòa trong cõi tâm linh thiêng liêng, giữa khung cảnh thiên nhiên thơ mộng của mùa xuân. Sáu câu thơ cuối tả cảnh chị em Thúy Kiều du xuân trở về : Tà tà bóng ngả về tây, Chị em thơ thẩn đan tay ra về. Bước dần theo ngọn tiểu khê, Lần xem phong cảnh cỏ bề thanh thanh. Nao nao dòng nước uốn quanh, Dịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang. Khung cảnh vẫn mang nét thanh tú, êm đềm của chiều xuân: nắng nhạt, khe suối nước trong veo, một nhịp cầu nho nhỏ bắc ngang cuối ghềnh. Mọi chuyển động đều hết sức nhẹ nhàng: mặt trời từ từ ngả bóng về tầy bước chân người chầm chậm thơ thẩn, dòng nước róc rách uốn quanh.., Không gian đang tĩnh lặng dần. Sự nhộn nhịp, rộn ràng của lễ hội không còn nữa. Những từ láy tà tà, thơ thẩn, thanh thanh, nao nao không chỉ biểu đạt sắc thái của cảnh vật mà còn bộc lộ tâm trạng con người. Hai chữ nao nao đã nhuốm màu tầm trạng. Cảm xúc tươi vui mà khung cảnh lễ hội mùa xuân mang lại cho mỗi người vừa mới đây thôi, vậy mà dường như Kiều đã linh cảm về một điều, gì đó đáng buồn sắp xảy ra. Quả nhiên, dòng nước uốn quanh đã dẫn bước chân Kiều đến với nấm mồ hoang lạnh của Đạm Tiên và tiếp sau đó, nàng sẽ gặp chàng thư sinh Kim Trọng có Phong tư tài mạo tuyệt vời. Nhịp thơ chậm rãi như bước chân nhè nhẹ như nỗi lòng man mác lưu luyến của con người khi hội đã tan. Cảnh vẫn thanh vẫn nhẹ nhưng tất cả đều chuyển động từ từ. Mặt trời ngả bóng dần về tây bước chân của con người thì “ thơ thẩn”, dòng nước uốn lượn nhẹ nhàng. Nhưng không còn cái không khí rộn ràng của lễ hội nữa. Cái “ nao nao” của dòng nước hay chính cái bâng khuâng xao xuyến của dòng người. Rõ ràng cảnh mùa xuân vào lúc xế chiều đã nhuốm màu tâm trạng. Đại thi hào hình như đang dự báo linh cảm một điều sắp xảy ra rồi sẽ xảy ra. Chỉ ít phút nữa thôi Kiều sẽ gặp mộ Đạm Tiên, sẽ gặp chàng thư sinh hào hoa Kim Trọng. Bằng tài năng quan sát tinh tế, bằng sự nhạy cảm của một tâm hồn thơ, cách sử dụng từ ngữ hình ảnh sinh động, Nguyễn Du đã hết lòng tâm huyết vẽ nên bức tranh về mùa xuân thật đẹp, có hồn và độc đáo. Chính tình yêu thiên nhiên đất nước con người đã tạo nên nguồn cảm hứng để ông say sưa với đời, lưu giữ trong kho tàng thi ca Việt Nam một bức tranh mùa xuân thật đặc biệt. Qua đoạn trích Cảnh ngày xuân, ta thấy được nghệ thuật miêu tả điêu luyện của Nguyễn Du. Nhà thơ đã kết hợp khéo léo giữa kể và tả, sử dụng từ ngữ giàu chất tạo hình đế miêu tả Cảnh ngày xuân. Bút pháp tả cảnh ngụ tình tinh tế của nhà thơ cũng phản ánh được phần nào tâm trạng của nhân vật mà ông yêu quý. Phân tích đoạn trích Cảnh ngày xuân – Bài số 3 Trong đoạn trích “Cảnh ngày xuân”, đại thi hào Nguyễn Du đã vẽ ra một khung cảnh ngày xuân vô cùng tươi đẹp, rực rỡ, tràn đầy sức sống. Bức tranh không chỉ được tô điểm bởi màu sắc, âm thanh mà còn chấm phá những nét đặc biệt khi xen lồng được tình cảm, cảm xúc tha thiết, dạt dào của nhân vật trữ tình.Điều đó làm cho bức tranh ngày xuân của Nguyễn Du mới lạ mà vô cùng độc đáo, tinh tế. Mở đầu bài thơ, nhà thơ đã vẽ ra một khung cảnh ngày xuân rợn ngợp bởi những hình ảnh đầy màu sắc: “ Ngày xuân con én đưa thoi Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi” Hai câu thơ đầu tiên của đoạn trích vừa nói đến thời gian, vừa gợi mở được không gian đặc trưng của những ngày xuân. Trước hết, dấu hiệu đầu tiên của ngày xuân chính là hình ảnh cánh én hình ảnh mà chỉ cần nhìn thấy thôi là người ta lập tức liên tưởng đến ngày xuân. Tuy nhiên, nếu hình ảnh chim én ở đây được được sử dụng với mục đích nhận diện mùa xuân, gợi tả mùa xuân thì hình ảnh “con thoi” lại được dùng để nhấn mạnh đến sự thấm thoát trôi mau của thời gian. Ngày xuân thấm thoắt trôi qua như những con thoi đưa lượn trên khung dệt vải, tiết trời đã bước sang tháng thứ ba- tháng cuối cùng của mùa xuân. Trong ngày xuân tươi đẹp, rộn ràng, những cánh én vẫn chao lượn giữa bầu trời trong, cao. Ở đây, Nguyễn Du nói đến sự chảy trôi của thời gian- quy luật tuần hoàn của đất trời, vũ trụ.Đồng thời cũng bộc lộ kín đáo sự luyến tiếc với sự hữu hạn của thời gian. “Cỏ non xanh tận chân trời Cành lê trắng điểm một vài bông hoa” Trong hai câu thơ tiếp theo,Nguyễn Du đã vẽ ra vẻ đẹp tươi non, tràn đầy sức sống của cảnh vật. Không gian được gợi ra vô cùng khoáng đạt, nhẹ nhàng mà thanh khiết. Câu thơ gợi cho ta liên tưởng đến một màu xanh non rợn ngợp, kéo dài bất tận đến phía cuối của đường chân trời.Màu xanh là màu của sự sống, sinh sôi. Hình ảnh “ cỏ non” mang lại cho người đọc cảm giác nhựa sống đang tràn trề, bao phủ toàn bộ không gian. Trên cái nền xanh bất tận của cỏ non được điểm xuyết bởi sắc trắng của những bông hoa lê. Sự tinh khôi của những cánh hoa lê càng làm cho bức tranh mùa xuân thêm rực sáng, tươi đẹp. Sự kết hợp giữa sắc xanh của cỏ non với sắc trắng của hoa lê hài hòa đến độ tuyệt diệu, gợi ra nét đẹp riêng của ngày xuân: mới mẻ, tinh khôi và giàu sức sống. Trong tám câu thơ tiếp theo,Nguyễn Du đã tái hiện sống động cảnh lễ hội trong tiết thanh minh: “Thanh minh trong tiết tháng ba Lễ là tảo mộ, hội là đạp thanh” Cấu trúc trần thuật kết hợp với nghệ thuật liệt kê và tiểu đối cho ta biết về hai hình thức sinh hoạt văn hóa: nghi lễ và hội hè trong tết thanh minh mùng ba tháng ba ngày trước. “Lễ tảo mộ” là sửa sang, quét dọn,hương khói cho phần mộ của những người thân đã mất- một nghi thức thành kính, trang nghiêm mang tính truyền thống. “Hội đạp thanh” là cuộc vui chơi,du xuân trên thảm cỏ xanh nơi đồng quê. Sau đó,không khí lễ hội được Nguyễn Du miêu tả sống động: “Gần xa nô nức yến anh Chị em sắm sửa bộ hành chơi xuân” Cảnh lễ hội, không khí náo nhiệt, vui tươi được khắc họa qua hệ thống các động từ như: “nô nức”, “sắm sửa” Tính từ “gần xa” gợi ra cảnh con người tham gia lễ hội. Mọi người ở khắp mọi nơi kéo về hội xuân với tâm trạng hồ hởi, náo nức. “Dập dìu tài tử giai nhân Ngựa xe như nước áo quần như nêm Ngổn ngang gò đống kéo lên Thoi vàng vó rắc tro tiền giấy bay” Dự lễ hội còn có chị em, tài tử giai nhân. Hình ảnh “ yến anh” với các phương tiện “ ngựa xe như nước”, trang phục “ áo quần như nêm”, mọi người nườm nượp kéo về hội xuân như chim én, chim oanh, chủ yếu là những người đang ở độ tuổi xuân non. Quanh những ngôi mộ của người thân,mọi người rắc thoi vàng, giấy bạc, thắp hương khấn bái. Dường như cách trở âm- dương đã bị xóa nhòa, bởi người sống vẫn giành cho người đã mất những tình cảm tha thiết, dạt dào. Sáu câu thơ cuối là cảnh chị em Thúy Kiều du xuân trở về: “Tà tà bóng ngả về tây Chị em thơ thẩn đan tay ra về …………. Nhịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc qua” Cảnh sắc vẫn mang cái nét thanh dịu của mùa xuân. Nắng dịu, khe nước nhỏ, nhịp cầu nho nhỏ bắc ngang..không gian như được thi nhỏ lại, mọi chuyển động đều nhẹ nhàng, chậm dãi. Mặt trời ngả về tây, bước chân người thơ thẩn, dòng nước uốn quanh. Không khí nhộn nhịp của lễ hội không còn nữa, tất cả như đang nhạt dần, lắng dần xuống. Với tâm hồn đầy nhạy cảm, tình yêu đối với sự sống của thiên nhiên, đất trời, cùng tài năng thể hiện tinh tế bậc thầy,Nguyễn Du đã vẽ ra một cách sinh động nhất, chân thực nhất khung cảnh ngày xuân trong đoạn trích “Cảnh ngày xuân” của Truyện Kiều. Phân tích đoạn trích Cảnh ngày xuân – Bài số 4 Nguyễn Du là một đại thi hào của dân tộc, một danh nhân văn hóa thế giới, tên tuổi của ông gắn liền với tác phẩm ” Truyện Kiều” – kiệt tác số một của văn học trung đại Việt Nam. ”Truyện Kiều” là một bài ca lớn về giá trị nhân đạo, một bản cáo trạng nghiêm khắc về cái ác, cái phản nhân bản, một tập đạo thành của nghệ thuật văn chương. Chỉ xét về bút pháp tả và gợi Nguyễn Du đã đạt đến đỉnh cao chói lọi. Điều nay được thể hiện qua đoạn trích ” cảnh ngày xuân” nằm ở phần I, ”gặp gỡ và đính ước” của Thúy Kiều. Có thể nói đây là một đoạn trích thành công nhất trong nghệ thuật tả cảnh thiên nhiên của Nguyễn Du. Bốn câu thơ đầu gợi lên khung cảnh mùa xuân với vẻ đẹp riêng: hữu tình, hữu sắc, hữu hương, lên thơ. ” Ngày xuân con én đưa thoi, Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi” Bằng bút pháp chấm phá kết hợp với gợi tả, hai câu thơ đầu vừa gọi không gian, vừa gợi thời gian. Nhưng không gian ấy không tĩnh mà rất sống động bởi hình ảnh ” con én đưa thoi”. Trước hết đây là một hình ảnh tả thực, trong tháng cuối cùng của mùa xuân, những cánh én vẫn rộn ràng chao đi chao lại giữa bầu trời trong sóng. Nhưng đồng thời nó còn là hình ảnh ẩn dụ, ngụ ý. Chỉ thời gian đang trôi nhanh, mùa xuân đang trôi nhanh. Mùa xuân có chín mươi ngày, mới đó thôi mà giờ đã sang tháng ba, gợi sự nuối tiếc trong lòng người. Sau đó hình ảnh ” con én đưa thoi” là thiều quang, thiều quang gợi lên cái mùa hồng của ánh xuân, cái ấm áp của khí xuân, cái mênh mông bao la của đất trời. Đặc biệt bức họa tuyệt đẹp của mùa xuân là ở hai câu thơ: “Cỏ non xanh tận chân trời, Cành lê trắng điểm một vài bông hoa “ Ở đây Nguyễn Du đã vận dụng một cách sáng tạo câu thơ cổ của trung quốc ” cỏ thơm liền với trời xanh – trên cành lê có mấy bông hoa”, thay vì dùng từ cỏ thơm Nguyễn Du đã dùng từ ” cỏ non” để tô đậm màu sắc – màu xanh của cỏ non trải rộng đến tận chân trời. Đó là gam màu nền của bức tranh xuân, trên thảm cỏ xanh ấy, điểm xuyến một vài bông hoa lê trắng. Từ ” trắng” được đảo lên trước gây ấn tượng mạnh, tuy chỉ là một vài chấm trắng nhỏ nhưng lại là điểm nhấn nổi bật tỏa sáng trên toàn cảnh. Như vậy, màu sắc có sức hài hòa đến tuyệt mĩ. Tất cả đều gợi lên vẻ đẹp riêng của mùa xuân: mới mẻ, tinh khôi, giàu sức sống, khoáng đạt trong trẻo nhẹ nhàng, thanh khiết. Chữ ” điểm” làm cho bức tranh xuân thêm sống động, có hồn chứ không tĩnh tại. Cảnh ngày xuân là bức tranh hoa lệ mà Nguyễn Du để lại cho đời, to điểm cho cuộc sống mỗi chúng ta, đồng thời nó cũng tương hợp với tâm trạng náo nức chung của chị em Thúy Kiều khi đi du xuân. Tám câu thơ tiếp theo, tác giả gợi khung cảnh mùa xuân trong tiết thanh minh. Trong ngày thanh minh có hai hoạt động diễn ra cùng một lúc: lễ tảo mộ – đi viếng mộ sửa sang quét tước phần mộ của người thân, hội đạp thanh – dẫm lên cỏ non ở trốn đồng quê: “Thanh minh trong tiết tháng ba, Lễ là tảo mộ hội là đạp thanh” Cảnh chảy hội mùa xuân diễn ta tưng bừng náo nhiệt, trên các lẻo đường gần xa, những dòng người cuồn cuộn chảy hội. Có biết bao yến anh chảy hội trong niềm vui nô nức, bao tài tử, giai nhân dập dìu vai sánh sai nhịp bước. “Gần xa nô nức yến anh, Chị em sắm sửa bộ hành chơi xuân. Dập dìu tài tử giai nhân, Ngựa xe như nước áo quần như nêm” Nguyễn Du tài tình khắc họa khung cảnh lễ hội mùa xuân bằng bút pháp miêu tả giàu chất tạo hình, một loạt các từ láy, từ ghép và danh từ, động từ, tính từ xuất hiện. Các danh từ: ” chị em, yến anh tài tử gia nhân” diễn tả sự đông vui, nhiều người đến dự hội. Các động từ ”sắm sửa, dập dìu” gợi tả sự rộn ràng náo nhiệt của ngày hội. Các tính từ “gần, xa, nô nức” làm rõ hơn tâm trạng của người đi dự hội. Bên cạnh đó tác giả còn sử dụng cách nói ẩn dụ ” yến anh”, hoán dụ ” ngựa xe, áo quần”. Tất cả đều làm sống dậy không khí lễ hội mùa xuân tưng bừng náo nhiệt diễn ra trên mọi miền đất nước. trẻ trung và xinh đẹp, trang trọng và phong lưu. Ai đã từng đi hội Chùa Hương, hội Lim, hội Yên Tử… mới thấy hết được cái hay, cái đẹp, cái vui, cái tưng bừng tươi trẻ trong hội đạp thanh mà Nguyễn Du từng nói tới. Đồng thời qua cuộc du xuân của chị em Thúy Kiều tác giả khắc họa một nét đẹp truyền thống văn hóa lễ hội xa xưa: Tết thanh minh người ta sắm sửa lễ vật để đi tảo mộ, sắm sửa quần áo mới vui hội đạp thanh mọi người rắc những con thoi vàng vó, đốt giấy tiền vàng để tưởng nhớ người đã khuất. “Ngổn ngang gò đống kéo lên, Thoi vàng vó rắc tro tiền giấy bay” Cuộc vui nào rồi cũng đến hồi kết thúc, sáu câu thơ cuối bài là cảnh chị em Thúy Kiều du xuân trở về, cảnh đẹp nhưng thoáng buồn vì nhuốm màu tâm trạng của con người. “Tà tà bóng ngả về tây, Chị em thơ thẩn đan tay ra về. Bước dần theo ngọn tiểu khê, Lần xem phong cảnh cỏ bề thanh thanh. Nao nao dòng nước uốn quanh, Dịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang” Cảnh vẫn mang cái thanh diu của mùa xuân. Ánh nắng nhạt, khe nước nhỏ một dịp cầu nhỏ nhỏ bắt ngang, ta thấy mọi chuyển động đều nhẹ nhàng, mặt trời từ từ ngả bóng về Tây, bước chân người thơ thẩn, tuy nhiên cái không khí rộn ràng, náo nhiệt của lễ hội không còn nữa tất cả đang nhạt dần, lặng dần. Cảnh mua xuân trong sáu câu thơ cuối và bốn câu thơ đầu bên cạnh những nét giống nhau còn có nét khác biệt bởi không gian và thời gian đã thay đổi nhưng điều quan trọng hơn cả là cảnh đã được nhìn qua tâm trạng của con người. Ngày tàn sao chẳng buồn, hội tàn sao chẳng buồn? một loạt từ láy tà tà, thơ thẩn thanh thanh, nao nao trong câu thơ “Nao nao dòng nước uốn quanh” cho thấy cảnh đã được nhân hóa một cách tự nhiên, cảnh nhuốm màu tâm trạng con người. Có thể nói sáu câu thơ cuối bài thơ là bức họa chiều xuân đẹp được nhìn qua tâm trạng con người, Nguyễn Du đã viết: ”tình trong cảnh ấy, cảnh trong tình này” Nói tóm lại bằng những từ ngữ, bút pháp miêu tả giàu chất tạo hình qua đoạn trích ”cảnh ngày xuân” Nguyễn Du đã gợi lên tư tưởng của người đọc một bức tranh thiên nhiên, cảnh lễ hội xuân tươi đẹp và tràn đầy sức sống cũng là một đoạn thơ miêu tả cảnh thiên nhiên thành công nhất của ông. Ông không những là một nhà thơ lỗi lạc của dân tộc mà còn là một nhà họa sĩ ngôn từ tài tình. Qua đây chúng ta hãy biết cách yêu quý thiên nhiên và giữ gìn phát huy những nét đẹp truyền thống của dân tộc ”Uống nước nhớ nguồn” Phân tích đoạn trích Cảnh ngày xuân – Bài số 5 Tuyệt tác “Truyện Kiều” của Nguyễn Du không chỉ mang những giá trị xã hội sâu sắc mà còn làm say lòng người đọc ở những đoạn thơ tả cảnh tuyệt bút. Một trong số đó là đoạn trích “Cảnh ngày xuân” (trích Truyện Kiều, sách Ngữ văn 9, tập một – NXB Giáo dục, 2008). Đoạn trích nằm ở phần đầu của tác phẩm. Vào ngày Tết Thanh minh, chị em Thúy Kiều đi tảo mộ. Thiên nhiên và con người ngày xuân hiện lên tươi tắn, xinh đẹp đông vui nhộn nhịp dưới đôi mắt “xanh non biếc rờn” của những chàng trai, cô gái tuổi đôi tám. Bốn câu thơ đầu gợi lên khung cảnh mùa xuân tươi đẹp, trong sáng: “Ngày xuân con én đưa thoi, Thiều quan chín chục đã ngoài sáu mươi. Cỏ non xanh tận chân trời, Cành lê trắng điểm một vài bông hoa”… Không gian mùa xuân được gợi nên bởi những hình ảnh những cánh én đang bay lượn rập rờn như thoi đưa. Sự mạnh mẽ, khỏe khắn của những nhịp cánh bay cho thấy rằng mùa xuân đang độ viên mãn tròn đầy nhất. Quả có vậy: “Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi” có nghĩa là những ngày xuân tươi đẹp đã qua đi được sáu chục ngày rồi, như vậy bây giờ đang là thời điểm tháng ba. Nền cảnh của bức tranh thiên nhiên được hoạ nên bởi màu xanh non, tươi mát của thảm cỏ trải ra bao la: “Cỏ non xanh tận chân trời”, sắc cỏ tháng ba là sắc xanh non, tơ nõn mềm mượt êm ái. Huống chi cái sắc ấy trải ra “tận chân trời” khiến ta như thấy cả một biển cỏ đang trải ra rập rờn, đẹp mắt. Có lẽ chính hình ảnh gợi cảm ấy đã gợi ý cho Hàn Mặc Tử hơn một thế kỉ sau viết nên câu thơ tuyệt bút này: “Sóng cỏ xanh tươi gợn tới trời”. Trên nền xanh tươi, trong trẻo ấy điểm xuyết sắc trắng tinh khôi của vài bông hoa lê. Chỉ là “vài bông” bởi những bông hoa lê đang thì chúm chím chưa muốn nở hết. Hoa như xuân thì người thiếu nữ còn đang e ấp trong ngày xuân. Chữ điểm có tác dụng gợi vẻ sinh động, hài hoà. ở đây, tác giả sử dụng bút pháp hội hoạ phương Đông, đó là bút pháp chấm phá. Hai câu thơ tả thiên nhiên ngày xuân của Nguyễn Du có thể khiến ai đó liên tưởng đến hai câu thơ cổ của Trung Quốc: hương thơm của cỏ non, màu xanh mướt của cỏ tiếp nối với màu xanh ngọc của trời, cành lê có điểm một vài bông hoa. Nhưng cảnh trong hai câu thơ này đẹp mà tĩnh tại. Trong khi đó gam màu nền cho bức tranh mùa xuân trong hai câu thơ của Nguyễn Du là thảm cỏ non trải rộng tới tận chân trời. Trên cái màu xanh cùa cỏ non ấy điểm xuyết một vài bông lê trắng (câu thơ cổ Trung Quốc không nói tới màu sắc của hoa lê). Sắc trắng của hoa lê hoà hợp cùng màu xanh non mỡ màng của cỏ chính là nét riêng trong hai câu thơ của Nguyễn Du. Nói gợi được nhiều hơn về xuân: vừa mới mẻ, tinh khôi, giàu sức sống lại vừa khoáng đạt, trong trẻo, nhẹ nhàng và thanh khiết. Thiên nhiên trong sáng, tươi tắn và đầy sức sống, con người cũng rộn ràng, nhộn nhịp để góp phần vào những chuyển biến kì diệu của đất trời. Sáu câu thơ tiếp của bài thơ tái hiện phong tục tảo mộ (viếng mộ, sửa sang phần mộ của người thân) và du xuân (hội đạp thanh) trong tiết Thanh minh. Không khí rộn ràng của lễ hội mùa xuân được gợi lên bởi hàng loạt các từ ghép tính từ, danh từ, động từ: yến anh, chị em, tài tử, giai nhân, sắm sửa, dập dìu, gần xa, nô nức. Chúng được đặt cạnh nhau dồn dập gợi nên không khí đông đúc, vui tươi sôi nổi. Đó không chỉ là không khí lễ hội mà còn mang đậm màu sắc tươi tắn, trẻ trung của tuổi trẻ: “Gần xa nô nức yến anh Chị em sắm sửa bộ hành chơi xuân Dập dìu tài tử giai nhân Ngựa xe như nước áo quần như nêm”. Nhưng hội họp rồi hội phải tan. Sau những giây phút sôi nổi, chị em Thúy Kiều phải rời buổi du xuân trở về: “Tà tà bóng ngả về tây, Chị em thơ thẩn dan tay ra về. Bước lần theo ngọn tiểu khê, Lần xem phong cảnh có bề thanh thanh. Nao nao dòng nước uốn quanh, Dịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang” … Bên cạnh vẻ thanh thoát, dịu nhẹ của mùa xuân như ở những câu thơ trước, khung cảnh mùa xuân đến đây đã mang một sắc thái khác với bức tranh lễ hội rộn ràng, nhộn nhịp. Cảnh vật toát lên vẻ vương vấn khi cuộc du xuân đã hết. Các từ láy tà tà, thơ thẩn, thanh thanh, nao nao, nho nhỏ vừa gợi tả sắc thái cảnh vật vừa gợi ra tâm trạng con người. Dường như có cái gì đó đang mơ hồ xâm lấn, cảnh vật đã nhuốm sắc thái vương vấn, man mác của tâm trạng con người, ở đây, Nguyễn Du đã sử dụng bút pháp tả cảnh ngụ tình để mượn cảnh vật mà diễn tả những rung động tinh tế trong tâm hồn những người , thiếu nữ. Những từ láy được sử dụng trong đoạn thơ đểu là những từ láy có tính giảm nhẹ. “Tà tà” diễn tả bóng chiều đang từ từ nghiêng xuống; “thơ thẩn” lại diễn tả tâm trạng bâng khuâng dịu nhẹ không rõ nguyên nhân (nó gần với nỗi buồn “tôi buồn không hiểu vì sao tôi buồn” của Xuân Diệu sau này) “thanh thanh” vừa có ý nghĩa là sắc xanh nhẹ nhàng vừa có ý nghĩa là thanh thoát, thanh mảnh; từ “nao nao” trong câu thơ diễn tả thế chảy của dòng nước nhưng đồng thời diễn tả tâm trạng nao nao buồn và từ “nho nhỏ” gợi dáng nhỏ xinh xắn, vừa vặn với cảnh với tình. Khung cảnh thiên nhiên cũng theo đó mà nhỏ đi để phù hợp với tâm trạng con người: “ngọn tiểu khê” – dòng suối nhỏ, phong-cảnh thanh thoát, dịp cầu “nho nhỏ” lại nằm ở “cuối ghềnh” ở phía xa xa,… Cảnh và người như có sự tương liên để giao hòa trong bầu không khí bâng khuâng, lưu luyến, khe khẽ sầu lay. Có thể mớ hồ cảm nhận được cảnh vật đang tạo ra dự cảm về những sự việc sắp xảy ra. Đoạn trích Cảnh ngày xuân có bố cục cân đối, hợp lí. Mặc dù không thật rõ ràng nhưng cũng có thể nói đến kết cấu ba phần: mở đầu, diễn biến và kết thúc. Nguyễn Du đã cho thấy một nghệ thuật miêu tả thiên nhiên điêu luyện, sắc sảo. Trong đoạn trích, mặc dù chủ yếu là miêu tả cảnh ngày xuân nhưng vẫn thấy sự kết hợp với biểu cảm và tự sự (diễn biến cuộc tảo mộ, du xuân của chị em Thúy Kiều, dự báo sự việc sắp xảy ra). “Cảnh ngày xuân” là một trong những đoạn thơ tả cảnh hay nhất trong “Truyện Kiều” của Nguyễn Du. Đọc đoạn trích, người đọc không chỉ trầm trồ về bức tranh thiên nhiên trong sáng vô ngần mà còn cảm nhận được vẻ đẹp trong một lễ hội truyền thống đầy ý nghĩa của cha ông: tiết Thanh minh. Và qua đây, Nguyễn Du cũng thể hiện nét tài hoa trong việc dựng lên một bức tranh tả cảnh ngụ tình tinh tế,… Với những điều đó, “Cảnh ngày xuân” sẽ luôn sống lại trong lòng người yêu thơ vào mỗi dịp đầu năm khi chúa xuân về với đất trời. Nguyễn Tuyến tổng hợp Phân tích đoạn trích Cảnh ngày xuân – Văn mẫu lớp 9Đánh giá bài viết Từ khóa tìm kiếmhinh nh con én dưa thoi trong đoan thơ bài cảnh ngày xuân có thể hiểu như thế nàophân tích tám câu cuối cảnh ngày xuânphân tích đoạn trích cảnh nvàyý nghĩa thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi Có thể bạn quan tâm?Bình luận về thói ăn chơi đua đòi – Văn mẫu lớp 9Thuyết minh về danh lam thắng cảnh Chùa Một Cột – Văn mẫu lớp 9Thuyết minh về quê em – Văn mẫu lớp 9Nhân ngày 20 tháng 11 kể cho các bạn nghe về một kỉ niệm đáng nhớ giữa em với thầy (cô) giáo cũ – Văn mẫu lớp 9Phân tích truyện ngắn Bến quê – Văn mẫu lớp 9Phân tích truyện ngắn Lặng lẽ Sa Pa – Văn mẫu lớp 9Soạn văn bài: Thuốc (Lỗ Tấn)Thuyết minh về di tích lịch sử Dinh Độc lập – Văn mẫu lớp 9

Phân tích đoạn trích Cảnh ngày xuân – Bài số 1

Trang thơ của Nguyễn Du đang mở rộng trước mắt chúng ta. Có phải không, sau bức chân dung giai nhân là bức họa về cảnh sắc mùa xuân trong tiết Thanh minh và cảnh du xuân của trai tài gái sắc, của chị em Thúy Kiều? Đoạn thơ Cảnh ngày xuân gồm có 18 câu, từ câu 39 đến câu 56 của Truyện Kiều tiêu biểu cho bút pháp nghệ thuật tả cảnh và tả tình của thi hào Nguyễn Du. Một vẻ đẹp thanh xuân, một niềm vui xốn xao, náo nức cứ dâng lên, cứ lan tỏa, rồi lắng dịu mãi trong lòng ta khi đọc đoạn thơ này.

Bốn câu thơ đầu mở ra một không gian nghệ thuật hữu sắc, hữu hương, hữu tình, nên thơ. Giữa bầu trời bao la mênh mông là những cánh én bay qua bay lại như "đưa thoi". Cánh én mùa xuân thân mật biết bao. Hai chữ "dưa thoi" rái gợi hình, gợi cảm. Cánh én như con thoi vút qua, vút lại, chao liệng; thời gian đang trôi nhanh, mùa xuân đang trôi nhanh. Câu thành ngữ – tục ngữ: "Thời gian thấm thoắt thoi đưa, nhưngựa chạy, như nước chảy qua cầu"đã nhập vào hồn thơ Tố Như tự bao giờ?

Sau cánh én "đưa thoi" là ánh xuân, là "thiều quang" của mùa xuân khi "chín chục dã ngoài sáu mươi". Cách tính thời gian và miêu tả vẻ đẹp mùa xuân của các thi sĩ xưa nay thật là hay và ý vị. Nào là "xuân hướng lão"(ức Trai), nào cảnh mưa bụi, tiếng chim kêu trong Đường thi. Nào là cánh bướm rối rít bay trong thơ Trần Nhân Tông. Còn là "xuân hồng"(Xuân Diệu), "mùa xuân chín" (Y lần Mặc Tử) v.v… Với Nguyễn Du là mùa xuân đã bước sang tháng ba, "Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi". Hai chữ "thiều quang"gợi lên cái màu hồng của ánh xuân, cái ấm áp của khí xuân, cái mênh mông bao la của đất trời "Xuân giang, xuân thủy tiếp xuân thiên"(Nguyên tiêu – Hồ Chí Minh).

Còn là sắc "xanh" mơn mởn, ngọt ngào của cỏ non trải dài, trải rộng như tấm thảm "tận chân trời". Là sắc "trắng" tinh khôi, thanh khiết của hoa lê nở lác đác, chỉ mới hé lộ, khoe sắc khoe hương "một vài bông hoa

Cỏ non xanh tận chân trời,

Cành lê trắng điểm một vài bông hoa.

Vần cổ thi Trung Hoa được Tố Như vận dụng một cách sáng tạo: "Phương thảo liên thiên bích – Lê chi sổ điểm hoa". Hai chữ "trắng điểm" là nhãn tự, cách chấm phá điểm xuyết của thi pháp cổ gợi lên vẻ đẹp thanh xuân trinh trắng của thiên nhiên cỏ hoa; bút pháp nghệ thuật phối sắc tài tình: trên cái nền xanh của cỏ non là một vài bông lê "trắng điểm". Giữa diện và điểm, giữa nền xanh và sắc trắng của cảnh vật mùa xuân là những cánh én "đưa thoi", là màu hồng của ánh thiều quang, là "khát vọng mùa xuân" ngây ngất, say đắm lòng người:

Nhìn hoa đang hé tưng bừng,

Khao khát mùa xuân yên vui lại đến ".

(Ca khúc Khát vọng mùa xuân – Mô-da)

Cảnh mùa xuân là bức tranh xuân hoa lệ, là vần thơ tuyệt bút của Nguyễn Du để lại cho đời, điểm tô cho cuộc sống mỗi chúng ta. Phải chăng, thi sĩ Chế Lan Viên đã học tập Tố Như để viết nên vần thơ xuân đẹp này:

Tháng giêng hai xanh mướt cỏ đồi,

Tháng giêng hai vút trời bay cánh én… ?

(ý nghĩ mùa xuân)

Tám câu thơ tiếp theo tả cảnh trẩy hội mùa xuân: "Lễ là tảo mộ, hội là đạp thanh" trong tiết tháng ba. Điệp ngữ: "lễ là… hội là…"gợi lên những cảnh lễ hội dân gian cứ liên tiếp diễn ra đã bao đời nay: "Tháng giêng là tháng ăn chơi – Tháng hai cờ bạc, tháng ba hội hè"…(Ca dao). Cảnh trẩy hội đông vui, tưng bừng, náo nhiệt. Trên các nẻo đường "gần xa" những dòng người cuồn cuộn trẩy hội. Có biết bao "yến anh" trẩy hội trong niềm vui "nô nức", hồ hởi, giục giã. Có biết bao tài tử, giai nhân "dập dìu" vai sánh vai, chân nối chân nhịp bước. Dòng người trẩy hội tấp nập ngựa xe cuồn cuộn "nhưnước",áo quần đẹp đẽ, tươi thắm sắc màu, nghìn nghịt, đông vui trên các nẻo đường "như nêm". Các từ ngữ: "nô nức", "dập dìu", các ẩn dụ so sánh (như nước, như nêm) đã gợi tả lễ hội mùa xuân tưng bừng náo nhiệt đang diễn ra khắp mọi miền quê đất nước. Trẻ trung và xinh đẹp, sang trọng và phong lưu:

Dập dìu tài tử giai nhân,

Ngựa xe như nước, áo quẩn như nêm.

Trong đám tài tử, giai nhân "gần xa" ấy, có 2 chị em Kiều. Câu thơ "Chị em sắm sửa bộ hành chơi xuân "mới đọc qua tưởng như chỉ là một thông báo. Nhưng sâu xa hơn, nó ẩn chứa bao nỗi niềm: chờ trông mong đợi, ngày lễ tảo mộ, ngày hội đạp thanh đến để du xuân trong những bộ quần áo đẹp đã chuẩn bị, đã "sắm sửa"… Có biết bao "bóng hồng" xuất hiện trong đám tài tử, giai nhân ấy? Ai đã từng đi hội chùa Hương, hội Lim, hội Yên Tử… mới cảm thấy cái đẹp, cái vui, cái tưng bừng, tươi trẻ trong hội đạp thanh mà Nguyễn Du đã nói đến.

Thơ là nghệ thuật của ngôn từ. Các từ ghép: "yến/anh", "chị/em", "tài/tử", "giai/nhân" "ngựa/xe", "áo/quẩn" (danhtừ); "gần/xa", "nô/nức", "sắm/sửa", "dập/dìu" (tính từ, động từ) được thi hào sử dụng chọn lọc tinh tế, làm sống lại cái không khí lễ hội mùa xuân, một nét đẹp của nền văn hóa lâu đời của phương Đông, của Trung Hoa, của Việt Nam chúng ta, và nếp sống "phong lưu"của chị em Kiều.

Ngổn ngang/gò đống kéo lên,

Thoi vàng vó rắc/tro tiền giấy bay.

Đời sống tâm linh, phong tục dân gian cổ truyền trong lễ tảo mộ được Nguyễn Du nói đến với nhiều cảm thông, san sẻ. Cõi âm và cõi dương, người đang sống và kẻ đã khuất, hiện tại và quá khứ đồng hiện trên những gò đống "ngổn ngang" trong lễ tảo mộ. Cái tâm thánh thiện, niềm tin phác thực dân gian đầy ắp nghĩa tình. Các tài tử, giai nhân, và 3 chị em Kiều không chỉ nguyện cầu cho những vong linh mà còn gửi gắm bao niềm tin, bao ao ước về tương lai hạnh phúc cho tuổi xuân khi mùa xuân về. Có thể sau hai trăm năm, ý nghĩ của mỗi chúng ta có ít nhiều đổi thay trước cảnh "Thoi vàng vó rắc, tro tiền giấy bay", nhưng giá trị nhân bản của vần thơ Nguyễn Du vẫn làm ta xúc động!

Sáu câu thơ cuối đoạn ghi lại cảnh chị em Kiều đi tảo mộ đang dần bước trở về nhà. Mật trời đã "tà tà" gác núi. Ngày hội, ngày vui đã trôi qua nhanh:

Tà tà, bóng ngả về tây,

Chị em thơ thẩn dan tay ra về.

Hội tan sao chẳng buồn? Ngày tàn sao chẳng buồn? Nhịp thơ chậm rãi. Nhịp sống như ngừng trôi. Tâm tình thì "thơ thẩn", cử chỉ thì "dan tay", nhịp chân thì "bước dần". Một cái nhìn man mác, bâng khuâng: "lần xem"… đối với mọi cảnh vật. Tất cả đều nhỏ bé. Khe suối chi là "ngọn tiểu khê". Phong cảnh "thanh thanh". Dòng nước thì "nao nao" uốn quanh. Dịp cầu thì "nho nhỏ" bắc ngang ở cuối ghềnh. Cả một không gian êm đềm, vắng lặng. Tâm tình của chị em Kiều như dịu lại trong bóng tà dương. Như đang đợi chờ một cái gì sẽ đến, sẽ nhìn thấy? Cặp mắt cứ "lẩn xem "gần xa:

Bước dần theo ngọn tiểu khê,

Lần xem phong cảnh có bề thanh thanh.

Các từ láy tượng hình: "thanh thanh", "nao nao", "nho nhỏ" gợi lên sự nhạt nhòa của cảnh vật và sự rung động của tâm hồn giai nhàn khi hội tan, ngày tàn. Nỗi niềm man mác bâng khuâng thấm sâu, lan tỏa trong tâm hồn của giai nhân đa tình, đa cảm.

Cảnh vật và thời gian được miêu tả bằng bút pháp ước lệ tượng trưng nhưng rất sống động, gần gũi, thân quen đối với bất cứ người Việt Nam nào. Không còn xa lạ nữa, vì ngọn tiểu khê ấy, dịp cầu nho nhỏ ấy là màu sắc đồng quê, là cảnh quê hương đất nước mình. Tính dân tộc là một nét đẹp đậm đà trong thơ Nguyễn Du, nhất là những vần thơ tả cảnh ngụ tình tuyệt tác.

Thi sĩ Xuân Diệu từng viết: "Hỡi xuân hồng, ta muôn cắn vào ngươi". Trong Thương nhớ mười hai, Vũ Bằng không nén nổi cảm xúc của mình mà phải thốt lên: "Mùa xuân của tôi… Cái mùa xuân thần thánh của tôi… Đẹp quá đi, mùa xuân ơi – mùa xuân của Hà Nội thân yêu, của Bắc Việt thương mến…". Và chúng ta muốn nói thêm: Đẹp quá đi mùa xuân của đất nước thân yêu! Vui quá đi, trẻ đẹp quá đi cảnh mùa xuân, cảnh trẩy hội xuân trong Truyện Kiều. Mùa xuân đem đến cho ta bao ước vọng, sắc xuân, tình xuân như nở hoa, ướp hương trong lòng ta.

Hỡi những nàng Kiều gần xa có nghe thấy tiếng nhạc vàng của chàng Kim Trọng trong ngày xuân đẹp từ xa đang vọng tới?…

Phân tích đoạn trích Cảnh ngày xuân – Bài số 2

Sau khi giới thiệu gia cảnh Vương viên ngoại và giới thiệu vẻ đẹp của chị em Thúy Kiều, Nguyễn Du miều tả khung Cảnh ngày xuân trong tiết Thanh minh, ba chị em Kiều rủ nhau đi dạo chơi xuân.

Mùa xuân là mùa của hoa thơm cỏ lạ, mùa của lễ hội văn hóa dân gian, mùa xuân đã hơn một lần đi vào thơ ca của Nguyễn Trãi, Trần Nhân Tông, Hàn Mặc Tử… Đến với bức tranh mùa xuân xinh đẹp của Nguyễn Du trong Cảnh ngày xuân, mùa xuân của lễ hội góp thêm một hương sắc mới.

Từ trên đồi cao, mùa xuân mở ra trước mắt chúng ta là một không gian bất tận trong ánh nắng ban mai ấm áp của đất trời. Lúc này đã vào tháng ba bầu trời chưa hẳn trong xanh như trời thu những cũng đủ in hình những cánh én rộn ràng bay lượn.

Kết cấu đoạn thơ theo trình tự thời gian. Bốn câu đầu tả cảnh mùa xuân. Tám câu tiếp tả tiết Thanh minh. Sáu câu cuối là cảnh chị em Kiều du xuân trở về. Cảnh ngày xuân. Bức tranh thiên nhiên mùa xuân tươi đẹp được dệt nên bằng những hình ảnh tiêu biểu, từ ngữ chọn lọc và nghệ thuật miêu tả tinh tế của Nguyễn Du:

Ngày xuân con én đưa thoi,
Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi.
Cỏ non xanh tận chân trời,
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa.

Thời gian thấm thoắt tựa thoi đưa. Vừa mới giêng, hai, nay đã bước sang tháng ba. Trên không trung bao la, những cánh én vẫn rộn ràng bay liệng.

Chỉ bằng hai câu: cỏ non xanh tận chân trời, Cành lê trắng điểm một vài bông hoa, Nguyễn Du đã thể hiện được thần thái của mùa xuân. Thảm cỏ non trải rộng tới chân trời là màu sắc chủ đạo làm nền cho bức tranh xuân. Trên cái nền xanh bát ngát ấy điểm xuyết một vài bông hoa lê trắng như tuyết. Sự hài hòa tuyệt diệu của màu sắc gợi lên vẻ đẹp mới mẻ, tinh khôi, căng đầy sức sống của mùa xuân. Tám câu thơ tiếp theo tả khung cảnh lễ hội:

Thanh minh trong tiết tháng ba,

Lễ là tảo mộ hội là đạp thanh.

Gần xa nô nức yến anh,

Chị em sắm sửa bộ hành chơi xuân.

Dập dìu tài tử giai nhân,

Ngựa xe như nước áo quần như nêm

Ngổn ngang gò đống kéo lên,

Thoi vàng vó rắc tro tiền giấy bay.

Đầu tháng ba, bầu trời quang đãng khí trời mát mẻ vương chút hơi lạnh của cái rét Nàng Bân khiến cỏ cây, hoa lá tốt tươi. Theo phong tục có từ lâu đời, trong tiết Thanh minh, người ta đi tảo mộ, tức là di thăm viếng và sửa sang lại phần mộ của người thân để bày tỏ tưởng nhớ và lòng biết ơn.

Không khí lễ hội rộn ràng, đông vui. Những ẩn dụ so sánh: nô nức yến anh, ngựa xe như nước, áo quần như nêm gợi lên hình ảnh từng đoàn người đi chơi xuân như chim én, chim oanh bay ríu rít. Lễ hội mùa xuân tấp nập, nhộn nhịp bởi nam thanh, nữ tú, tài tử, giai nhân từ mọi nơi không ngớt kéo về.

fQuanh những ngôi mộ, người ta rắc vàng thoi, bạc giây, bày cỗ, thắp nến, đốt nhang khấn vái.., Khói bay nghi ngút, hương thơm tỏa ngát một vùng. Sự cách trở âm dương hầu như đã bị xóa nhòa. Người đã khuất và người còn sông giao hòa trong cõi tâm linh thiêng liêng, giữa khung cảnh thiên nhiên thơ mộng của mùa xuân.

Sáu câu thơ cuối tả cảnh chị em Thúy Kiều du xuân trở về :

Tà tà bóng ngả về tây,

Chị em thơ thẩn đan tay ra về.

Bước dần theo ngọn tiểu khê,

Lần xem phong cảnh cỏ bề thanh thanh.

Nao nao dòng nước uốn quanh,

Dịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang.

Khung cảnh vẫn mang nét thanh tú, êm đềm của chiều xuân: nắng nhạt, khe suối nước trong veo, một nhịp cầu nho nhỏ bắc ngang cuối ghềnh. Mọi chuyển động đều hết sức nhẹ nhàng: mặt trời từ từ ngả bóng về tầy bước chân người chầm chậm thơ thẩn, dòng nước róc rách uốn quanh.., Không gian đang tĩnh lặng dần. Sự nhộn nhịp, rộn ràng của lễ hội không còn nữa. Những từ láy tà tà, thơ thẩn, thanh thanh, nao nao không chỉ biểu đạt sắc thái của cảnh vật mà còn bộc lộ tâm trạng con người. Hai chữ nao nao đã nhuốm màu tầm trạng. Cảm xúc tươi vui mà khung cảnh lễ hội mùa xuân mang lại cho mỗi người vừa mới đây thôi, vậy mà dường như Kiều đã linh cảm về một điều, gì đó đáng buồn sắp xảy ra. Quả nhiên, dòng nước uốn quanh đã dẫn bước chân Kiều đến với nấm mồ hoang lạnh của Đạm Tiên và tiếp sau đó, nàng sẽ gặp chàng thư sinh Kim Trọng có Phong tư tài mạo tuyệt vời.

Nhịp thơ chậm rãi như bước chân nhè nhẹ như nỗi lòng man mác lưu luyến của con người khi hội đã tan. Cảnh vẫn thanh vẫn nhẹ nhưng tất cả đều chuyển động từ từ. Mặt trời ngả bóng dần về tây bước chân của con người thì “ thơ thẩn”, dòng nước uốn lượn nhẹ nhàng. Nhưng không còn cái không khí rộn ràng của lễ hội nữa. Cái “ nao nao” của dòng nước hay chính cái bâng khuâng xao xuyến của dòng người. Rõ ràng cảnh mùa xuân vào lúc xế chiều đã nhuốm màu tâm trạng. Đại thi hào hình như đang dự báo linh cảm một điều sắp xảy ra rồi sẽ xảy ra. Chỉ ít phút nữa thôi Kiều sẽ gặp mộ Đạm Tiên, sẽ gặp chàng thư sinh hào hoa Kim Trọng.

Bằng tài năng quan sát tinh tế, bằng sự nhạy cảm của một tâm hồn thơ, cách sử dụng từ ngữ hình ảnh sinh động, Nguyễn Du đã hết lòng tâm huyết vẽ nên bức tranh về mùa xuân thật đẹp, có hồn và độc đáo. Chính tình yêu thiên nhiên đất nước con người đã tạo nên nguồn cảm hứng để ông say sưa với đời, lưu giữ trong kho tàng thi ca Việt Nam một bức tranh mùa xuân thật đặc biệt.

Qua đoạn trích Cảnh ngày xuân, ta thấy được nghệ thuật miêu tả điêu luyện của Nguyễn Du. Nhà thơ đã kết hợp khéo léo giữa kể và tả, sử dụng từ ngữ giàu chất tạo hình đế miêu tả Cảnh ngày xuân. Bút pháp tả cảnh ngụ tình tinh tế của nhà thơ cũng phản ánh được phần nào tâm trạng của nhân vật mà ông yêu quý.

Phân tích đoạn trích Cảnh ngày xuân – Bài số 3

Trong đoạn trích  “Cảnh ngày xuân”, đại thi hào Nguyễn Du đã vẽ ra một khung cảnh ngày xuân vô cùng tươi đẹp, rực rỡ, tràn đầy sức sống. Bức tranh không chỉ được tô điểm bởi màu sắc, âm thanh mà còn chấm phá những nét đặc biệt khi xen lồng được tình cảm, cảm xúc tha thiết, dạt dào của nhân vật trữ tình.Điều đó làm cho bức tranh ngày xuân của Nguyễn Du mới lạ mà vô cùng độc đáo, tinh tế.

Mở đầu bài thơ, nhà thơ đã vẽ ra một khung cảnh ngày xuân rợn ngợp bởi những hình ảnh đầy màu sắc:  

“ Ngày xuân con én đưa thoi
Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi”

Hai câu thơ đầu tiên của đoạn trích vừa nói đến thời gian, vừa gợi mở được không gian đặc trưng của những ngày xuân. Trước hết, dấu hiệu đầu tiên của ngày xuân chính là hình ảnh cánh én hình ảnh mà chỉ cần nhìn thấy thôi là người ta lập tức liên tưởng đến ngày xuân. Tuy nhiên, nếu hình ảnh chim én ở đây được được sử dụng với mục đích nhận diện mùa xuân, gợi tả mùa xuân thì hình ảnh “con thoi” lại được dùng để nhấn mạnh đến sự thấm thoát trôi mau của thời gian. Ngày xuân thấm thoắt trôi qua như những con thoi đưa lượn trên khung dệt vải, tiết trời đã bước sang tháng thứ ba- tháng cuối cùng của mùa xuân.

Trong ngày xuân tươi đẹp, rộn ràng, những cánh én vẫn chao lượn giữa bầu trời trong, cao.

Ở đây, Nguyễn Du nói đến sự chảy trôi của thời gian- quy luật tuần hoàn của đất trời, vũ trụ.Đồng thời cũng bộc lộ kín đáo sự luyến tiếc với sự hữu hạn của thời gian.

“Cỏ non xanh tận chân trời
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa”

Trong hai câu thơ tiếp theo,Nguyễn Du đã vẽ ra vẻ đẹp tươi non, tràn đầy sức sống của cảnh vật. Không gian được gợi ra vô cùng khoáng đạt, nhẹ nhàng mà thanh khiết.

Câu thơ gợi cho ta liên tưởng đến một màu xanh non rợn ngợp, kéo dài bất tận đến phía cuối của đường chân trời.Màu xanh là màu của sự sống, sinh sôi. Hình ảnh “ cỏ non” mang lại cho người đọc cảm giác nhựa sống đang tràn trề, bao phủ toàn bộ không gian.

Trên cái nền xa

0