Phân tích cái tôi trữ tình trong bài thơ Tràng Giang của Huy Cận- Văn 11
Đề bài: Em hãy phân tích cái tôi trữ tình trong bài thơ Tràng Giang của Huy Cận Có thể nói trong thơ Huy Cận trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, thiên nhiên rất đẹp, rất quyến rũ hồn người nhưng nó thường như đã bị vây phủ bởi một nỗi buồn. Nhà thơ lúc này dường như lại hay đặt mình con ...
Đề bài: Em hãy phân tích cái tôi trữ tình trong bài thơ Tràng Giang của Huy Cận
Có thể nói trong thơ Huy Cận trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, thiên nhiên rất đẹp, rất quyến rũ hồn người nhưng nó thường như đã bị vây phủ bởi một nỗi buồn. Nhà thơ lúc này dường như lại hay đặt mình con người hữu hạn vào thời gian vô hạn và không gian vô biên để suy ngẫm về sự sống của vũ trụ, từ những cái thường ngày nhỏ nhặt mà đề cập tới những vấn đề to lớn của trời đất, trăng sao… Nhưng những cái cảm quan đó dù có ít nhiều màu sắc triết lý cũng không thoát khỏi nỗi buồn man mác. Dường như hình ảnh đất nước, thiên nhiên trong bài thơ Tràng giang cũng thấm sâu một nỗi buồn như thế. Bài thơ cũng như đã thể hiện tâm trạng của “cái tôi trữ tình” cô đơn, và nó như đã thấm đượm nỗi sầu nhân thế trước thiên nhiên mênh mông, hiu quạnh và tấm lòng yêu nước thầm kín của thi sĩ.
Có thể thấy rằng chính lời đề từ tuy nằm ngoài bài thơ, nhưng lại đúc kết nội dung tư tưởng và ý đồ nghệ thuật của tác giả đó chính là ‘Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài”. Có thể coi đây chính là một hình tượng và cảm xúc trong câu thơ này là nguồn thi hứng để thi sĩ sáng tác nên bài thơ Tràng giang bất hủ. Dường như nó cũng đã khiến cho không chỉ “cái tôi trữ tình” nặng trĩu nhớ nhung, mà đất trời sông núi cũng tràn ngập bâng khuâng, nhung nhớ. Có lẽ chính cái độc đáo của câu thơ này chính là sự giao thoa của cả hai nghĩa ấy. Nhà thơ tài năng Huy Cận đã triển khai cảm hứng nêu ở câu thơ để từ một cách hoàn hảo trong suốt bài thơ đặc sắc “Tràng giang’. Đặc biệt ngay ở khổ thơ thứ nhất, hai câu đầu đặc tả cảnh sông nước quen thuộc trải rộng ra trong một không gian mênh mông, bát ngát:
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song
Nếu như những câu thơ trên, sự vô biên được mở ra với hình ảnh những lớp sóng tiếp nối nhau, như đã xô đuổi nhau điệp điệp thì ở câu dưới nó lại được đặc tả qua hình ảnh con thuyên xuôi mái theo những luồng nước song song rong ruổi về mãi cuối trời.
Hình ảnh những con sóng gợn nhấp nhô trên mặt sông bao la thì buồn cũng dồn đuổi nhau điệp điệp hết lớp này tới lớp khác trong hồn người. Và đặc biệt là vần “ang” trong từ tràng giang có dư âm vang xa, tạo nên âm hưởng chung cho bài thơ. Mặt khác, tràng giang như đã còn gợi lên được hình ảnh một con sông không những dài mà còn rộng. Có lẽ chính cái nhỏ nhoi của con thuyền càng làm nổi bật cái rộng dài tưởng chừng vô tận của dòng sông. Có thể thấy rằng chính ức mạnh của hai câu thơ trên không chỉ là ở nghệ thuật miêu tả, mà còn ở nghệ thuật khơi gợi cả xúc cảm và ấn tượng về một nỗi buồn man mác như triền miên theo không gian (tràng giang) và theo thời gian (điệp điệp).
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng.
Ta như thấy được chính hình ảnh thuyền về bến, neo lại nghỉ ngơi, mặt sông vắng bóng thuyền, nước đành chia sầu trăm ngả. Và thật độc đáo với hình ảnh củi một cành khô lạc mấy dòng không biết trôi về nơi nao. Có lẽ rằng chính cái hình ảnh đơn sơ mà có sức gợi sự liên tưởng sâu xa tới thân phận cô đơn, lênh đênh, sầu thảm của kiếp người thời ấy.
Và rồi cho đến khổ thơ thứ hai, bức tranh tràng giang có thêm cảnh, thêm người nhưng nỗi buồn không vơi mà như càng thấm sâu vào cảnh vật:
Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu,
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều.
Nắng xuống, trời lên sâu chót vót;
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.
Người đọc như thấy được khhung cảnh chứa đầy tâm trạng. Huy Cận dường như cũng đã tập trung tất cả hình ảnh, nhạc điệu để làm nổi bật lên nỗi buồn thấm thía của con người trước sông dài trời rộng. Có thể thấy rằng nỗi buồn được gợi lên từ mặt nước mênh mông, đôi bờ hoang vắng, từ một cồn nhỏ lơ thơ heo hút, dăm bụi cây phơ phất trong gió lạnh đìu hiu.
Và lắng mình lại để có thể lắng nghe đâu đây, từ làng xa vẳng lại tiếng chợ chiều đang vãn, tuy có hơi hướng con người nhưng âm thanh dường như mong manh như mơ hồ như từ cõi nào vọng lại, làm dấy lên trong lòng lữ khách nỗi khát khao được gặp gỡ và chia sẻ tâm tình.
Có lẽ rằng chính nỗi buồn toả ra hết chiều cao, chiều rộng của bến bãi, mặt nước, bầu trời. Ở đây, thì dường như người đọc bắt gặp cảm nhận tinh tế, kì diệu của nhà thơ qua một chi tiết hết sức bất ngờ đó chính là sự chuyển đổi cảm giác trời lên cao thành sâu chót vót đặc tả độ cao rợn ngợp của bầu trời và khoảng cách vô tận giữa trời và nước. Và cũng từ đó thì đã tạo nên ấn tượng sông thêm dài, trời thêm rộng và bến sông vốn đã vắng vẻ lại càng cô liêu hơn, quạnh quẽ hơn.
Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng,
Mênh mông không một chuyến đò ngang.
Không cầu gợi chút niềm thân mật,
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.
Dường như vẫn trong mạch cảm xúc, nỗi buồn được gợi ra từ hai khổ thơ đầu qua các hình ảnh: những cánh bèo trôi dạt lênh đênh, những con thuyền, dòng nước như cùng trôi về cõi vô biên. Hình ảnh củi một cành khô lưu lạc bồng bềnh trên sóng nước thì đến khổ thơ này ấn tượng về khung cảnh mênh mông vắng lặng, về sự chia li tan tác được láy lại và nó như muốn nhấn mạnh bằng hai lần phủ định rằng ở đó không một chuyến đò, và cũng không cầu gợi chút niềm thân mật. Có lẽ rằng người cô đơn gặp cảnh hoang vắng tĩnh mịch đến lạnh lùng như thế thì nỗi cô đơn càng đậm, càng sâu. Những ước mong khao khát bấy lâu là tìm được một chút hơi hướng ấm áp của con người nhưng chỉ thấy toàn bờ xanh tiếp bãi vàng hun hút tới tận chân trời và chỉ có những cánh bèo lại như đã không biết sẽ trôi dạt về đâu giữa tràng giang bát ngát. Ta có thể thấy đây như toàn là hình ảnh gợi nỗi buồn thương, tan tác, chia li.
Con sông dài và trời lại như rất rộng không có bóng dáng con người. Và trên con sông rộng dài đó lại không một chuyến đò và cũng không cầu để tạo nên cảm giác gần gũi giữa con người với nhau mà chỉ toàn là thiên nhiên (bờ xanh) với thiên nhiên (bãi vàng) xa vắng, mênh mang. Dường như cũng chính vì vậy mà nỗi buồn ở bài thơ này không chỉ là nỗi buồn mênh mông trước trời rộng, sông dài mà còn là nỗi buồn nhân thế, nỗi buồn thời cuộc.
Với bốn câu cuối thể hiện rất rõ tâm trạng tác giả Huy Cận và dường như những ý tưởng chung của toàn bài. Thật khó thể nói hết những nỗi buồn sâu thẳm từ con người đã thấm sang cảnh vật:
Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,
Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa.
Lúc này đây thì cảnh sắc thiên nhiên tuyệt đẹp nhưng vẫn mang dáng vẻ cô đơn. Mây cao đùn lớp lớp thành ngọn núi bạc dường như lại chơ vơ trong hoàng hôn, giống như nỗi buồn chất ngất trong lòng người lữ thứ. Và cũng giữa trời đất bao la chỉ còn lại một cánh chim nhỏ chở nặng bóng chiều sa. Tất cả đều cô đơn, lẻ loi đến tội nghiệp và lúc này thì con người dường như chìm ngập trong vũ trụ rộng lớn, bao la. Giữa cảnh Tràng giang ấy, nỗi buồn của kẻ tha hương lại càng da diết, khắc khoải:
Lòng quê dợn dợn vời con nước,
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.
Câu thơ này như đã gợi nhớ tới một tứ thơ Đường đó chính là “Yên ba giang thượng sử nhân sầu”(Hoàng Hạc lâu – Thôi Hiệu). Tản Đà dịch: “Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai”. Tuy nhiên, người đọc cũng có thể nhận ra với hai câu thơ của Huy Cận có nét mới hơn. Và dường như chính người khách trong thơ Thôi Hiệu nhìn thấy khói toả, sóng gợn mà nhớ tới quê hương; còn nhân vật trữ tình trong Tràng giang như đã đứng trước cảnh sông không khói hoàng hôn mà vẫn rưng rưng nỗi nhớ về một miền quê xa khuất.
Ta như có thể thấy âm điệu thơ trầm buồn có sức lay động tận nơi sâu thẳm của tâm hồn người đọc. Tác giả tài năng Huy Cận đã tiếp thu thế mạnh của thể thơ bảy chữ, kết hợp với từ ngữ hàm súc, tinh tế để thể hiện sự chân thành, thiết tha của một tấm lòng nhớ nhung, hoài vọng quê hương. Bao phủ toàn bài thơ là một nỗi buồn lan rộng và thấm thía. Đó còn chính là nỗi buồn của kiếp người nhỏ bé, hữu hạn trước cái vô biên, vô tận của vũ trụ vĩnh hằng. Tuy nhiên, ta phải khẳng định đó là nỗi buồn trong sáng, góp phần làm phong phú thêm tâm hồn của bạn đọc.
Thi phẩm “Tràng giang” đã kết hợp được những nét cổ điển của thơ Đường, vẻ đẹp của truyền thống thơ ca dân tộc và như cùng dáng dấp hiện đại của Thơ mới. Ta như đã thấy được tấm lòng nhà thơ đã dàn trải ra thành những hình ảnh, âm điệu, màu sắc vừa đơn sơ giản dị, vừa đẹp đẽ thanh cao. Bài thơ như còn đã phản ánh tâm trạng của một trái tim cô đơn, một “cái tôi trữ tình” đau đáu nỗi buồn trước cuộc đời. Có thể nói rằng chính nỗi buồn sâu xa ấy đã hòa vào nỗi bơ vơ, cô độc trước khung cảnh thiên nhiên hoang vắng. Và mặc dù vậy nhưng tình cảm của nhà thơ Huy Cận như đã đối với non sông đất nước thể hiện qua bài thơ cũng thật thiết tha, sâu lắng. Đúng như nhận xét của nhà thơ tình Xuân Diệu đã nói “Tràng giang là một bài thơ ca hát non sông đất nước, do đó dọn dường cho lòng yêu giang sơn, Tổ quốc”.
Nguồn: Văn mẫu hay