21/02/2018, 09:18

Phân tích bài thơ “Việt Bắc” của Tố Hữu – Văn hay lớp 12

Phân tích bài thơ "Việt Bắc" của Tố Hữu – Bài làm 1 Tố Hữu được mệnh danh là ngọn cờ đầu của phong trào thơ cách mạng. Thơ ông là vũ khí để tuyên truyền, cổ động tinh thần chiến đấu cũng như nêu cao tình yêu và tinh thần yêu nước mãnh liệt. Mặc dù thơ ông viết về chính trị nhưng ...

Phân tích bài thơ "Việt Bắc" của Tố Hữu – Bài làm 1

Tố Hữu được mệnh danh là ngọn cờ đầu của phong trào thơ cách mạng. Thơ ông là vũ khí để tuyên truyền, cổ động tinh thần chiến đấu cũng như nêu cao tình yêu và tinh thần yêu nước mãnh liệt. Mặc dù thơ ông viết về chính trị nhưng không hề khô khan, ngược lại rất tình cảm. Bài thơ “Việt Bắc” sáng tác sau khi chiến thắng thực dân Pháp, tác giả muốn gợi lại tình quân dân thắm thiết, ân tình và sâu nặng trong cuộc kháng chiến. Bài thơ được viết theo thể đối đáp càng gợi lên sự bình dị, ấm áp và than quen đến lạ lùng.

Bài thơ Việt Bắc được viết theo thể lục bát tạo nên âm hưởng nhẹ nhàng, trầm bổng mà lắng sâu trong lòng người đọc. Đây chính là một sự khéo léo tạo nên thành công của bài thơ chính trị mà trữ tình, dạt dào cảm xúc này.

Tác giả mở đầu bằng sự nuối tiếc, quyến luyến, bịn rịn của người ở lại và kẻ ra đi trong một khung cảnh tràn đầy nhớ thương:

Mình về mình có nhớ ta

Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng

Mình về mình có nhớ không

Nhìn cây nhớ núi nhìn sông nhớ nguồn

Những câu thơ chính là tâm trạng của người ở lại trong sự níu kéo và tiếc nuối khi phải chia xa những người chiến sỹ cách mạng đã bao nhiêu năm gắn bó. Tác giả đặt đại từ “ta” và “mình” thể hiện sự gắn bó khăng khít, son sắt và chung thủy. Tác giả đã đứa ra quãng thời gian cụ thể là “mười lăm năm ấy” – quãng thời gian rất dài gắn liền với cuộc chiến tranh ác liệt của nhân dân ta với thực dân Pháp. Đó cũng chính là quãng thời gian tình quân và dân thiết tha, nặng  tình nặng nghĩa. Lòng người ra đi và người ở lại tràn ngập nỗi nhớ thương, nhìn đâu đâu cũng thấy bóng dáng của những điêu xưa cũ, còn vẹn nguyên và tinh khôi ở trong lòng. Tố Hữu dường như đã gieo vào lòng người đọc cái cảm giác vấn vương một cách lạ lùng.

Tâm trạng quyến luyến, bịn rịn của người ở lại khiến cho người ra đi không khỏi bồn chồn không muốn rời chân bước đi:

Tiếng ai tha thiết bên cồn

Bâng khuâng trong dạ bồn chồn bước đi

Áo chàm đưa buổi phân li

Cầm tay nhau biêt nói gì hôm nay

Tâm sự của người ở lại khiến cho người ra đi không đành lòng bước đi. Tiếng nói đó lại làm chực trào nhớ thương và những kỉ niệm khó quên. Tâm trạng ấy được gói gọn trong từ “bang khuâng” như dung dằng, níu kéo chẳng muốn bước đi. Thật khó để có thể hiểu được cảm xúc của người trong cuộc lúc này. Lúc này đây chính tâm trạng của người ra đi và người ở lại đều không thể lý giải được là tại sao lại như vậy. Phải chăng tình yêu đã quá lớn và kỉ niệm đã quá đầy để có thể quay mặt bước đi. Suốt 15 năm sống và gắn bó với mảnh đất nơi đây, đồng đội và đồng bào đã phải trải qua bao nhiêu cay đắng, ngọt bùi, san sẻ cho nhau từng bữa cơm giấc ngủ. Những năm tháng gian khổ ấy đâu chỉ kể với nhau trong vài câu chữ như thế này, nhưng chính câu chữ đã khiến cho cảm xúc tràn ra, không thể thôi nhớ và thôi mong. Người ra đi đã đáp trả lại tình cảm người ở lại:

Ta với mình, mình với ta

Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh

« Ta » và « mình  dường như hòa quyện với nhau thành một thể thống nhất, không tác rời nhau. Người ra đi một mực khẳng định rằng « mặn mà đinh ninh ». Hai từ « đinh ninh » như ghim chặt vào lòng người đọc tấm lòng son sắt và thủy chung trước sau như một. Đó là tình cảm hết sức thiêng liêng và cao cả.

Khi nhớ về núi rừng việt bắc tác giả nhớ tất thảy thiên nhiên và con người nơi đây. Mọi thứ hiện lên đều rất sống động, đậm nghĩa, vẹn tình. Chỉ với vài bước phác họa bức tranh tứ bình về thiên nhiên và con người nơi đây hiện lên một cách vẹn tròn, ý nghĩa, tươi đẹp nhất:

Ta về mình có nhớ ta

Ta về ta nhớ những hoa cùng người

Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi

Dèo cao ánh nắng dao gài thắt lưng

Ngày xuân mơ nở trắng rừng

Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang

Ve kêu rừng phách đổ vang

Nhớ cô em gái hái măng một mình

Rừng thu trăng rọi hòa bình

Nhớ cô em gái hái măng một mình

Một bức tranh tứ bình tuyêt đẹp, sống động và tinh khôi và núi rừng Việt Bắc. Trong bức tranh ấy không chỉ có hình ảnh thiên nhiên tươi đẹp, hùng vĩ mà còn xuất hiện thêm hình ảnh con người chân chất, mộc mạc nhưng lại tình cảm và ý nghĩa biết bao.Có lẽ đây là đoan thơ hay nhất, đẹp nhất, trữ tình nhất trong bài thơ Việt Bắc. Nó chính là điểm sáng để cả bài thơ tràn đầy tình yêu thương và tinh thần lạc quan nhất.

Diệp từ nhớ được lặp đi lặp lại rất nhiều lần khiến cho nỗi nhớ trong cả bài thơ dường như tràn ra lênh láng, cảm xúc của tác giả cũng như vỡ òa, dội lên mãnh liệt.

Tác giả không chỉ nhớ đến cảnh vật và con người Việt Bắc, quan trọng hơn nữa là ông nhớ những cuộc chiến tranh ác liệt gian khổ đã diễn ra:

Nhớ khi giặc đến giặc lùng

Rừng cây núi đá ta cùng đánh tây

Núi giăng thành lũy sắt dày

Rừng che bộ đội rừng vây quân thù

Vớ giọng điệu không còn dìu dặt, tha thiết đặc trưng của thể lục bát nữa mà đã chuyển sang sự hào hùng, vang dội khi kể về những trận chiến giữa núi rừng Việt Bắc. Đọc những vần thơ này, chúng ta nhận ra được hài khí Đông A thật mãnh mẽ và quyết liệt, dữ dội trong lòng của tác giả. Những năm tháng đó, những cuộc chiến đó vẫn chưa hề xóa nhòa trong lòng quân và dân.

Thực vậy, bài thơ « Việt Bắc » của Tố Hữu với giọng điệu thiết tha, da diết và hào hùng, đanh thép đã gợi mở về tình quân dân đậm đà thắm thiết và tinh thần yêu nước mãnh liệt của nhân dân ta. Đọc bài thơ chúng ta thêm ngưỡng mộ và khâm phục sự tài tình của Tố Hữu.

Phân tích bài thơ "Việt Bắc" của Tố Hữu – Bài làm 2

Chiến dịch Điện Biên Phủ kết thúc thắng lợi là một sự kiện lịch sử quan trọng trong trường kì kháng chiến của dân tộc ta. Nhờ sự kiện trọng đại này mà tháng bảy năm 1954, hiệp định Giơnevo được kí kết, hòa bình lặp lại, miền Bắc được giải phóng và bắt tay vào sự nghiệp xây dựng cuộc sống mới. Vì thế mà, các cơ quan trung ương Đảng rời chiến khu Việt Bắc về Hà Nội. Trong phút chia ly bâng khuâng lưu luyến, Tố Hữu đã viết bài thơ Việt Bắc để bộc lộ nỗi lòng mình.

Ai trong chúng ta cũng biết, Tố Hữu là một nhà thơ quen thuộc của kháng chiến. Con đường thơ của ông gắn liền với con đường cách mạng. Với giọng thơ tâm tình ngọt ngào, các sáng tác của ông đều chạm đến tim người đọc. Và "Việt Bắc" cũng không ngoại lệ. Bài thơ "Việt Bắc" được viết theo lối đối đáp giữa người đi và kẻ ở lại trong giờ phút chia tay đầy lưu luyến sau nhiều năm gắn bó. Mở đầu bài thơ là lời người ở lại.

" Mình về mình có nhớ ta

Mười lắm năm ấy thiết tha mặn nồng

Mình về mình có nhớ không

Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn"

Trong cuộc chia tay, người ở lại như nhạy cảm với hoàn cảnh đổi thay đã lên tiếng để gợi nhắc cho người ra đi những kỉ niệm gắn bó. Người ở lại hỏi về không gian:"nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn", hỏi về thời gian:"mười lăm năm ấy…". Điệp ngữ "mình có nhớ" tạo cho đoank thơ một giai điệu lưu luyến không nguôi. Người ở lại như đang nhắc nhở người ra đi về đạo lý uống nước nhớ nguồn. Nghe những lời của người ở lại, người ra đi cũng chùn bước, "bước đi một bước giây hai lại dừng". Trong cuộc chia tay thật tế nhị và sâu sắc người ra đi nghẹn ngào khó nói lên lời:"Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay". Cái cầm tay ấy chất chứa bao nỗi niềm của người ra đi. Từng câu thơ lục bát nhịp nhàng diễn tả một thoáng ngập ngừng của tác giả. Chút ngập ngừng ấy tạo ra một phút lặng cho chuỗi câu hỏi tiếp theo vang lên dồn dập hơn. Bằng những lời mà người ở lại tiếp tục hỏi, người ở lại đã gợi nhớ những ngày ở chiến khu Việt Bắc. Mười hai dòng thơ được chia thành sáu câu hỏi như khơi sâu vào những kỉ niệm. Kỉ niệm đầu tiên là những ngày đầu gian khổ, vất vả của chiến khu, của kháng chiến:"rừng cây núi đá", "mênh mông bốn mặt sương mù", "mưa nguồn suối lũ những mây cùng mù"… Những hình ảnh vừa chỉ đặc trưng của thiên nhiên những ngày khắc nghiệt đồng thời là những ngày gian nan, vất vả. Rồi tiếp theo lại là cảnh vật, con người Việt Bắc – những con người ân nghĩa thủy chung, đồng cam cộng khổ: "miếng cơm chấm muối mối thù nặng vai", "hắt hiu lau xám đậm đà lòng son". Rồi kỉ niệm về mảnh đất chiến khu từ khi kháng Nhật thuở còn Việt Minh. Chỉ bằng vài câu thơ, Tố Hữu đã chứng minh Việt Bắc là một căn cứ địa vững chắc với nhũng địa danh đã đi vào lịch sử: Tân Trào, Hồng Thái. Mười hai câu thơ tiếp theo này không chỉ gợi kỉ niệm cũ với người ra đi, nó còn thể hiện tài năng nghệ thuật trong thơ của Tố Hữu. Trong các câu thơ sáu tiếng, cứ một câu "mình đi", kế một câu "mình về" đều chỉ một hướng của người về xuôi. Nhà thơ đã khéo léo vận dụng ngôn ngữ tiếng việt để tạo ra sự đa nghĩa. Hấp dẫn người đọc cũng là nghệ thuật đối "đi – về" kết hợp với động từ "có nhớ" tạo âm điệu vừa êm ái vừa réo rắt trong sự tiếc nuối vừa ân nghĩa thủy chung. Đặc biệt đan xen những câu hỏi nhưng không dùng để hỏi mà để độc thoại nội tâm: "mình về rừng núi nhớ ai – trám bùi để rụng măng mai để già".. Trước những gợi nhớ kỉ niệm của người ở lại, người ra đi cũng khẳng định nghĩa tình không bao giờ thay đổi: "Ta với mình mình với ta – Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh". Cặp đại từ "mình – ta" đan xen khăng khít như sự gắn bó của người ra đi đối với người ở lại. Sự thủy chung ấy còn được so sánh với nước trong nguồn: "nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu". Câu thơ đã khẳng định sự thủy chung mãi mãi bền chặt sắc son như tình yêu đôi lứa, như nước trong nguồn không bao giờ cạn. Tác giả đã khai thác rất đắt từ "mình". Trong tiếng việt, từ "mình" là chỉ bản thân hoặc người khác, xưng hô giữa vợ chồng. Nhưng trong tác phẩm, "mình" vừa là người ở lại vừa là người ra đi: "mình đi mình lại nhớ mình". Cách sử dụng đa thanh đa nghĩa này đã làm tăng tính nghệ thuật cho bài thơ.

Sau màn đối đáp của người ra đi và người ở lại, người ra đi bộc bạch nỗi lòng mình. Đó là nỗi nhớ khôn nguôi. Đầu tiên là nhớ về Việt Bắc. Nỗi nhớ ấy cồn cào:"nhớ gì như nhớ người yêu". Người ra đi nhớ về cảnh sắc thiên nhiên thanh bình yên ả và thơ mộng. Với những hình ảnh: "ánh trăng", "nắng chiều", "núi đèo", "bếp lửa bập bùng"…. và con người nghĩa tình thủy chung sâu nặng: "bát cơm xẻ nửa chăn sui đắp cùng". Nhà thơ cũng không quên hình ảnh người mẹ Việt Bắc: "nhớ người mẹ nắng cháy lưng – địu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô". Không chỉ có cảnh sắc thiên nhiên con người nơi đây mà những kỉ niệm về cuộc sống của đồng bào, cán bộ ấm áp tình quân dân khó khăn gian khổ nhưng vẫn lạc quan yêu đời cũng ùa về: "nhớ sao lớp học i tờ – đồng khuya đuốc sáng những giờ liên hoan – nhớ sao ngày tháng cơ quan – gian nan đời vẫn ca vang núi đèo".

Nối tiếp dòng hồi ức của người ra đi là bức tranh tứ bình tuyệt mĩ. Cảnh và người đan xen với nhauqua bốn cặp lục bát, thể hiện qua bốn mùa. Mùa đông xuất hiện giữa bạt ngàn sắc xanh nổi bật với "hoa chuối đỏ tươi". Mùa xuân không gian bừng sáng bởi sắc "mơ" thang khiết, mùa hạ là "rừng phách đổ vàng" trong âm thanh của tiếng ve. Mùa thu là ánh trăng dịu hiền hòa vào tiếng hát ân tình thủy chung. Một bức tranh đẹp đầy sống động đã hiện ra trước mắt người đọc chỉ bằng vài lời thơ của Tố Hữu.

Cuộc kháng chiến đầy gian khổ mà hào hùng là kỉ niệm khó phai mờ trong lòng người ra đi. Người ra đi nhớ về những ngày gian khổ mà Việt Bắc – mảnh đất anh hùng thiên nhiên cùng chiến sĩ đánh giặc: "rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây"; nhớ về những chiến thắng vang dội gắn liền với các địa danh: "Phủ Thông, đèo Giàng", "nhớ sông Lô nhớ phố Ràng – nhớ từ Cao – Lạng, nhớ sang Nhị – Hà". Người ra đi còn nhớ bức tranh Việt Bắc ra quân. Trên khắp nẻo đường Việt Bắc, khí thế ra trận "đêm đêm rầm rập như là đất rung", lực lượng quân đội với sức mạnh đoàn quân "điệp điệp trùng trùng" nối đuôi nhau xung trận rất đẹp trong tư thế "ánh sao đầu súng". Cuộc hành quân toàn dân toàn diện mang khí thế quyết chiến: "dân công đỏ đuốc từng đoàn – bước chân nát đá muôn tàn lửa bay". Với khí thế xung trận ấy, những chiến công vang dội liên tiếp diễn ra: "tin vui chiến thắng trăm miền". Với những chiến thắng ấy đã đưa đến khẳng định cuối cùng đó là sự đúng đắn của đường lối cách mạng của Đảng. Chính vì thế mà phần cuối của bài thơ Tố Hữu đã dùng để tuyên truyền đương lối ấy, đồng thời khẳng định Việt Bắc là cái nôi của cách mạng, là niềm tin, niềm tự hào.

Khép lại bài thơ là một cảm xúc khó quên. Bài thơ Việt Bắc không chỉ là bài thơ tiêu biểu của thi ca kháng chiến mà còn là tác phẩm thể hiện rõ nét phong cách thơ của Tố Hữu. Với thể thơ lục bát được sử dụng sáng tạo, sự thành công của cặp đại từ " mình – ta", bài thơ đã có một chỗ đứng vững trong lòng người đọc và nền thi ca cách mạng Việt Nam.

0