Phân tích bài thơ Viếng lăng Bác của Viễn Phương – Văn mẫu lớp 9
Phân tích bài thơ Viếng lăng Bác của Viễn Phương – Văn mẫu lớp 9 4 (80%) 1 vote Phân tích bài thơ Viếng lăng Bác của Viễn Phương – Bài làm 1 của một bạn học sinh giỏi Văn tỉnh Nam Định Trong những bài thơ viết sau ngày Bác Hồ "đi xa", bài thơ "Viếng lăng Bác" của ...
Phân tích bài thơ Viếng lăng Bác của Viễn Phương – Văn mẫu lớp 9 4 (80%) 1 vote Phân tích bài thơ Viếng lăng Bác của Viễn Phương – Bài làm 1 của một bạn học sinh giỏi Văn tỉnh Nam Định Trong những bài thơ viết sau ngày Bác Hồ "đi xa", bài thơ "Viếng lăng Bác" của Viễn Phương là bài thơ đặc sắc nhất. Bài thơ diễn tả niềm kính yêu, sự ...
Phân tích bài thơ Viếng lăng Bác của Viễn Phương – Bài làm 1 của một bạn học sinh giỏi Văn tỉnh Nam Định
Trong những bài thơ viết sau ngày Bác Hồ "đi xa", bài thơ "Viếng lăng Bác" của Viễn Phương là bài thơ đặc sắc nhất. Bài thơ diễn tả niềm kính yêu, sự xót thương và lòng biết ơn vô hạn của nhà thơ đối với lãnh tụ bằng một ngôn ngữ tinh tế, giàu cảm xúc sâu lắng. Nó đã được phổ nhạc, lưu truyền sâu rộng trong nhân dân. Câu thơ mở đầu cho thấy xuất xứ của bài thơ:
"Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác"
Từ chiến trường miền Nam, nhà thơ Viễn Phương mang theo bao tình cảm thắm thiết của đồng bào và chiến sĩ ra viếng lăng Bác Hồ kính yêu. Đây là cuộc hành hương của người chiến sĩ. Từ xa, nhà thơ đã nhìn thấy hàng tre ẩn hiện trong sương khói trên quảng trường Ba Đình lịch sử. Màn sương trong câu thơ gợi lên một không khí thiêng liêng, huyền thoại. Cây tre, hàng tre "đứng thẳng hàng" trong làn sương mỏng, ẩn hiện thấp thoáng, mang màu sắc xanh xanh. "Hàng tre xanh xanh" vô cùng thân thuộc được nhân hóa, trải qua "bão táp mưa sa" vẫn "đứng thẳng hàng" như dáng đứng của con người Việt Nam kiên cường, bất khuất trong bốn nghìn năm lịch sử:
"Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác,
Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát,
Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam,
Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng".
"Ôi!" là từ cảm, biểu thị niềm xúc động tự hào. Hình ảnh hàng tre xanh mang tính chất tượng trưng, giàu ý nghĩa liên tưởng sâu sắc. Tre mang phẩm chất cao quý của con người Việt Nam: "mộc mạc, thanh cao, ngay thẳng, bất khuất…" (Thép Mới). Có nhà thơ đã viết:
… "Bão bùng thân bọc lấy thân,
Tay ôm, tay níu, tre gần nhau thêm
Thương nhau tre không ở riêng
Lũy thành từ đó mà nên hỡi người…"
("Tre Việt Nam" – Nguyễn Duy)
Miêu tả cảnh quan (phía ngoài) lăng Bác, nhà thơ tạo nên những suy nghĩ sâu sắc về phẩm chất tốt đẹp của nhân dân ta. Khổ thơ tiếp theo nói về Bác, Bác là người con ưu tú của dân tộc, là "tinh hoa và khí phách của nhân dân Việt Nam" (Phạm Văn Đồng).
Hai câu thơ sóng nhau, hô ứng nhau với hai hình ảnh mặt trời. Một mặt trời thiên nhiên, rực rỡ, vĩnh hằng "Ngày ngày… đi qua trên lăng", và "Một mặt trời trong lăng rất đỏ" – hình ảnh Bác Hồ vĩ đại. Màu sắc “rất đỏ" làm cho câu thơ có hình ảnh đẹp gây ấn tượng sâu xa hơn, nói lên tư tuởng cách mạng và lòng yêu nước nồng nàn của Bác:
"Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ".
Hòa nhập vào "dòng người" đến lăng Viếng Bác, nhà thơ xúc động bồi hồi…
Thành kính và nghiêm trang. Dòng người đông đúc, chẳng khác nào một "tràng hoa" muôn sắc ngàn hương từ mọi miền đất nước đến Ba Đình lịch sử viếng lăng Bác. Hình ảnh ẩn dụ "tràng hoa" diễn tả tấm lòng biết ơn, sự thành kính của nhân dân đối với Bác Hồ vĩ đại:
"Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân".
Chữ "dáng" chứa đựng bao tình cảm, bao tình nghĩa. Nhà thơ không nói "79 tuổi" mà nói: "bảy mươi chín mùa xuân”, một cách nói rất thơ: cuộc đời Bác đẹp như những mùa xuân. Qua đó, ta thấy nghệ thuật lựa chọn ngôn từ của Viễn Phương rất tinh tế biểu cảm và hình tượng.
Khổ thơ thứ ba nói về sự vĩnh hằng bất diệt của Bác. Bác như đang nằm ngủ, một giấc ngủ "bình yên", trong một khung cảnh thơ mộng. Bác vốn yêu trăng. Thời kháng chiến, giữa núi rừng chiến khu Việt Bác, Bác đã từng có những khoảnh khắc sống rất thần tiên:
"Việc quân, việc nước bàn xong,
Gối khuya ngon giấc bên song trăng nhòm".
Giờ đây, nhà thơ cảm thấy "Bác yên ngủ" một cách thanh thản "giữa một vầng trăng sáng dịu hiền” . Nhìn "Bác ngủ", nhà thơ đau đớn, xúc động. Câu thơ "mà sao nghe nhói ở trong tim" diễn tả sự đau đớn, tiếc thương đến cực độ. Viễn Phương có mội lối viết hàm súc, đầy thi vị; câu chữ để lại nhiều ám ảnh trong lòng người đọc.
Khổ thơ cuối nói lên cảm xúc của nhà thơ khi ra về. Biết bao lưu luyến, buồn thương. Nhà thơ muốn hóa thân làm "con chim hót", làm "đóa hoa tỏa hương", làm "cây tre trung hiếu" để được đền ơn đáp nghĩa Người, ý thơ sâu lắng, hình ảnh thơ đẹp và độc đáo, cách biểu hiện cảm xúc " Nam Bộ". Đây là những câu thơ trội nhất trong bài "Viếng lăng Bác”.
"Mai về miền Nam, thương trào nước mắt
Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này.
Điệp ngữ "muốn làm…" được láy lại ba lần gợi tả cảm xúc thiết tha, nồng hậu của nhà thơ miền Nam đối với lãnh tụ.
"Viếng lăng Bác", bài thơ ngắn mà ý thơ, hình tượng thơ, cảm xúc thơ: sậu lắng, hàm súc và đẹp. Viễn Phương đã chọn thể thơ mỗi câu tám từ, mỗi khổ bốn câu, toàn bài bốn khổ – một sự cân đối hài hòa để biểu hiện một giọng điệu thơ nghiêm trang, kính cẩn.
Bài thơ là tấm lòng yêu thương, kính trọng và biết ơn Bác. Tâm tình của nhà thơ cùng là tâm tình của riêng em, của mỗi người Việt Nam và của cả dân tộc. Đó là giá trị lớn lao của bài thơ "Viếng lăng Bác".
Phân tích bài thơ Viếng lăng Bác của Viễn Phương – Bài làm 2
Viễn Phương là một nhà thơ có tiếng, quê ở An Giang. Ông là một trong những cây bút có mặt sớm nhất trong lực lượng văn nghệ giải phóng ở miền nam từ thời kì chống Mĩ cứu nước. Ông đã cho ra đời nhiều bài thơ hay nhưng đặc sắc nhất là bài “viếng lăng Bác”.
Bài thơ được sáng tác trong thời gian sau khi cuộc kháng chiếc chống mĩ kết thúc thắng lợi, dất nước thống nhất, lăng Bác cũng vừa khánh thành,Viễn Phương vinh dự ra thăm miền bắc, vào lăng viếng bác. Với niềm xúc động sâu sắc và lòng thành kính của mình, nhà thơ đã cho ra đời bài thơ “ viếng lăng Bác” và được in trong tập thơ”Như mây mùa xuân”.
Ở khổ thơ đầu, nội dung chính là cảm xúc của tác giả trước cảnh vật ngoải lăng Bác.
“Con ở miền nam ra thăm lăng bác
Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng.”
Khi tác giả từ miền Nam ra Hà Nội thăm bác, ông đã có một lời giới thiệu thật gọn” Con ở miền Nam ra thăm lăng bác”, Viễn Phương đã thể hiện lòng thành kính của mình đối với Bác qua từ” con” và địa danh nơi t/g sinh sống”niềm nam”lại càng làm nổi bật sự xúc động dạt dào của nhà thơ. Miền Nam-nơi chiến trường xưa, nơi Bác mong muốn vào thăm khi nước nhà thống nhất. Thế nhưng điều đó chưa kịp thực hiện thì Bác đã mãi mãi đi xa. Để bây giờ, t/g- người con của miền Nam lại phải lên thăm lại người cha giả kính yêu. t/g đã rất cẩn trọng trong việc dùng từ ngữ của mình”thăm lăng bác”, trong lòng nhà thơ vẫn luôn sống mãi với cuộc đời và với công lao của Người dành cho đất nước và dân chúng. Khi t/g bước vào trong khuôn viên lăng, cảnh đầu tiên t/g thấy chính là cây tre”đã thấy trong sương hàng tre bát ngát”. Tre nhiều và bạt ngàn khiến cho t/g phải ngạc nhiên mà cất tiếng kêu “Ôi!”. Hàng tre thẳng tắp, xanh bóng lại uy nghiêm và nghiêm trang, ko lung lay khi bão táp mưa sa:. Tre tượng trưng cho DT , đất nước VN kiên trì, bất khuất, bền bỉ và dũng cảm. Hàng tre bao quanh lăng bác như đang canh giữ giấc ngủ cho Bác. Chỉ trong vòng 4 câu thơ thôi mà t/g đã thể hiện niềm xúc động sâu sắc của mình qua những từ ngữ thật giàu tính biểu cảm và sử dụng những nghệ thuật thật đặc sắc như tượng trưng, ẩn dụ.
Khổ thơ hai thể hiện cảm xúc của t/g trước dòng người vào lăng viếng bác.
“Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ
Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân”.
Nhà thơ dùng hình ảnh” mặt trời đi qua trên lăng” để mở đầu cho cảm xúc của mình. “ mặt trời” dường như đã quá quen thuộc đối với chúng ta, nhưng hình ảnh này được nhắc đến trong thơ của Viễn Phương lại sinh động hơn nhiều qua động tác “đi, thấy”. T/g đã thành công trong việc sử dụng nghệ thuật nhân hóa thật độc đáo. “Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ”. “ mặt trời trong lăng” là một hình ảnh ẩn dụ đẹp chỉ Bác.Ở câu thơ này nhà thơ đã ca ngợi công lao của bác và bày tỏ niềm tự hào, sự tôn kính đối với Bác. “ngày ngày dóng người đi trong thương nhớ”. Điệp ngữ “ngày ngày”, chỉ sự liên hoàn , từ ngày này sang ngày khác, thời gian nối tiếp trôi.
“Dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng 79 mùa xuân”
Là một hình ảnh tả thực, dòng người đến viếng Bác đông, trông như những tràng hoa. Không những vậy, nhà thơ còn kết hợp với hình ảnh ẩn dụ , tượng trưng để thể hiện lòng biết ơn của nhân dân VN nói chung và nhân dân TG nói riêng.”bảy mươi chín mùa xuân” là hình ảnh hoán dụ về tuổi thọ của bác. Hai cặp câu cuối đã thể hiện thật rõ ràng sự tôn kính của nhân dân VN đối với Bác qua điệp ngữ liên hoàn, hình ảnh ẩn dụ và tả thực xen với hình ảnh nhân hóa thật độc đáo của Viễn Phương.
Khổ ba thể hiện cảm xúc và suy nghĩ của t/g khi vào viếng lăng bác.
“Bác nằm trong giấc ngủ bình yên
Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền
Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim”.
Khi t/g bước vào lăng t/g đã thấy” bác nằm trong giấc ngủ bình yên”, ông tưởng như Bác đang ngủ, một giấc ngủ bình yên, thanh thản. nhà thơ đã liên tưởng ánh đèn quanh Bác là ánh sáng của trăng. Dường như nhà thơ rất am hiểu về Bác thì phải, vì lúc sinh thời Bác đã từng xem trăng là người bạn tri kỉ, vui buồn có nhau và Người đã sáng tác rất nhiều bài thơ về trăng. Cho nên, khi nhìn thấy ánh sáng đèn thì t/g liền nghĩ ngay đến ánh trăng. Nhà thơ đã giúp cho trăng và bác lại trở thành bạn tri kỉ. lí trí của t/g bây giờ rất rõ là bác đã mất thế nhưng ông vẫn phải thốt lên rằng:
”Vẫn biết trời xanh là mãi mãi.
Mà sao nghe nhói ở trong tim”
“trời xanh” là một ẩn dụ đẹp chỉ bác hồ, nhà thơ luôn cho rằng Bác ko bao giờ mất, Bác chỉ đang ngủ thôi, bác mãi truồng tồn, vĩnh cửu trong lòng nhân dân VN và nhất là t/g. nhưng sự thật vẫn là sự thật, cho dù đó là diều quá đau lòng. Bác đã mãi mai đi xa, bác đang ngủ một giấc ngủ thiên thu và t/g thậ sự qua đau lòng khi biết điều này và cảm thấy đau lòng khi biết điều này và cảm thấy đau nhói ở trong tim. Khổ thơ đã diễn tả sự đau đớn của t/g khi thấy Bác đã qua đời qua những nghệ thuật đặc sắc.
Khổ bốn thể hiện tâm trạng của t/g khi sắp phải rời xa lăng bác.
“Mai về miền nam thương trào nước mắt
Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này”.
Đang ở trong lăng viếng bác mà t/g đã nghĩ đến “ mai về miền nam”, tâm trạng luyền tiếc, ngậm ngùi, ko muốn rời xa lăng bác. Lòng ông đau như cắt, nước mắt trào ra khi nhà thơ nghĩ đến điều đó. Nên t/g có một ước nguyện là làm con chim để hót cho Bác nghe. Nhưng t/g sợ con chim rồi cũng sẽ bay đi mất, nên t/g lại muốn làm đóa hoa để tỏa ngát hương thơm, làm đẹp cho lăng.Nhưng bông hoa rồi cũng sẽ tàn, nên t/g đã ước muốn mình làm cây tre bên lăng Bác, để bảo vệ lăng và đóng góp phần nhỏ bé của mình- người con hiếu thảo- cho người cha già kính yêu và càng được làm rõ qua diệp từ “muốn làm”, nhà thơ khao khát được bên bác, những hình ảnh ẩn dụ một lần nữa lại bổ sung thêm nghĩa trung hiếu của t/g đối với Bác Hồ.
Tóm lại, bài thơ là một đặc sắc nghệ thuật của nhà thơ Viễn Phương, ko những thành công trong việc kết hợp thật độc đáo giàu các biện pháp tu từ mà bài thơ còn có giọng điệu trang trọng và tha thiết, ngôn ngữ bình dị, mà cô đúc, mà ko phải ai cũng có thể sáng tạo như thế được, và đó chỉ có thề là Viễn Phương.
Phân tích bài thơ Viếng lăng Bác của Viễn Phương – Bài làm 3
“Bác nhớ miền Nam nỗi nhớ nhà
Miền Nam mong Bác nỗi mong cha”
Bác luôn khao khát được một lần đến miền Nam yêu thương, nhưng ước nguyện đấy chưa đạt thì Bác đã đi xa. Với Viễn Phương – một con người Nam Bộ lần đầu tiên được đặt chân lên Hà Nội, viếng lăng Bác – thăm vị cha già của dân tộc sau bao năm mong mỏi chờ mong, từ những rung động đầu tiên ấy, ông đã viết bài thơ “Viếng Lăng Bác” (1976) với tất cả cảm xúc, tình cảm chân thành, sâu sắc, thành kính, thiên liêng cho Bác.
Trước hết, đọc bài thơ “Viếng Lăng Bác”, người đọc cảm nhận được cảm xúc chân thành, xúc động, sâu sắc của Viễng Phương khi nhìn thấy lăng Bác. Từ miền Nam sau bao năm khói lửa, nơi đi trước về sau, nay lần đầu tiên nhà thơ được đặt chân lên mảnh đất Ba Đình lịch sử, viếng lăng Bác. Ngay từ đoạn đầu bài thơ, Viễng Phương đã thể hiện cảm xúc dạt dào khi nhìn thấy hàng tre quanh Lăng Bác:
“Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát “
Từ những chuyện cổ tích xa xôi đến những bài thơ, bài văn: từ thế giới kỳ ảo cổ tích đến đời sống thường ngày, tre vẫn là loài cây quen thuộc. Trước lăng Bác, trong lòng Viễn Phương, tre như dài rộng mênh mông. Tre vẫn uy nghi, vẫn màu xanh của Việt Nam. Hàng tre ấy đã gợi cho nhà thơ lấy lại cuộc sống thầm lặng đã từng sát cách cùng dân tộc chống lại kẻ thù chung của tre. Tre đã kiên cường chiến đấu bất khuất hiên ngang, là biểu tượng của dân tộc Việt Nam.
“Nòi tre đâu chịu mọc cong
Chưa lên đã thẳng như chông lạ thường ’’
Tre Việt Nam – Nguyễn Duy
Bao năm cùng người xông pha trận mạc, tre vẫn giữ thế uy nghiêm :
‘Bão táp mưa sa, đứng thẳng hàng. ’
Viễn Phương thật thành công khi sử dụng hàng tre để gợi sự gần gũi, thân quen của lăng Bác. Lăng Bác như bóng dáng quê hương, ở tre mà Viễn Phương không khỏi thốt lên :
‘Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam ’
Chỉ với từ cảm thán ‘Ôi” mà bao nghẹn ngào tràn ngập cả câu thơ. Tất cả dân tộc đã quay về quanh Bác, xếp thành đội ngũ chỉnh tề giữ giấc ngủ yên cho Người. Tình cảm chân thành của Viễn Phương hay cũng chính là của người dân Nam Bộ dành cho Bác thật chân thành, cảm động:
“Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ “
“Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân”
Vâng! Đó là tình cảm chân thành nhất, thành kính nhất mà Viễn Phương hay cũng chính là của dân tộc Việt Nam dành cho Bác. Nhìn hình ảnh dòng người vào lăng Bác, nhà thơ đã rung động mạnh mẽ. “Tràng Hoa” ấy là tấm lòng của người dân Việt Nam dành cho người. Mỗi con người trên đất nước nguyện làm một bông hoa trong tràng hoa dâng lên cuộc đời Bác – bảy mươi chin mùa Xuân. Quan hện tình cảm giữa một vị lãnh tụ và nhân dân được diễn tả thật giản dị mà tinh tế khiến người đọc cảm động và càng trân trọng tình cảm ấy. Tình cảm mà Viễn Phương dành cho Bác thật mãnh liệt khi vào thăm lăng Bác:
“Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác ”
Tác giả xưng con với Bác như sự gần gũi thân quen trong gia đình. Đó là thứ tình cảm sâu sắc, giản dị của một người con đối với cha. Các nhà thơ như Xuân Diệu, Tố Hữu… khi viết đều cũng xưng con với Bác:
Hôm nay con lại về thăm lăng Bác
(Bác ơi – Tố Hữu)
Nhưng “con ở Miễn Nam” của Viễn Phương lại mang sắc thái riêng biệt mới, xúc động thành kính vì đó là nơi Bác hằng mong nhớ.
Thơ cứ tuôn ra trong dòng cảm xúc kì lạ:
“Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ”
Nhà thơ dùng hình ảnh ẩn dụ mặt trời để thể hiện công đức của Bác – Bác là mặt trời chân lý cách mạng, là ánh hào quang rạng sáng soi đường dân tộc, là nắng xuân tươi tắn cho hoa cỏ sinh sôi kết trái. Bác đã đưa nhân dân từ nô lệ bước lên cuộc sống tự do. Đồng thời, hình ảnh ấy còn thể hiện sự tường tồn của bác trong lòng dân tộc – Bác là nguồn sống. Đó quả là một hình ảnh đẹp, mang ý nghĩa sâu sắc mà tinh tế, giản dị mà cảm động. Trong cái cảm xúc trào dâng mãnh mẽ ấy, sự tôn kính Bác lại đượ thể hiện rõ nét:
“Bác nằm trong giấc ngủ bình yên
Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền
Vẫn biết trời xanh là mãi mãi”
“vầng trăng… trời xanh…” các hình ảnh đẹp, rộng lớn nối tiếp nhau xuất hiện khiến ta phải suy ngẫm. Ngẫm về cái bất diệt, cái vô cùng của vũ trụ đến cái bất diệt, cái vô cùng cao cả của một con người.
Nhà thơ nhìn thấy Bác – vị cha già dân tộc đang nằm thanh thản trong giấc ngủ, trong ánh sáng dịu hiền của vầng trăng. Nhưng vần trăng ấy là vầng trăng lý tưởng, là hình ảnh tượng trưng bằng tất cả cảm xúc yêu kính đối với Bác. Viễn Phương đã thật thành công khi diễn tả dòng cảm xúc này, giữa thực và ảo, giữa lý trí và thực tế. Ông từ tình cảm kính yêu chân thành.
Trong tâm lý của người con Nam Bộ đã có sự thay đổi, nhà thơ đang thay mặt cho toàn dân tộc thắp dâng lên Người nén nhanh thành kính.
Nhưng rồi cũng đến lúc phải chia tay. Thời gian ở bên Bác thật ngắn ngủi, nhà thơ phải trở về Miền Nam. Và đến đây dòng cảm xúc được đẩy tới mức cao nhất, tuôn trào thật mạnh mẽ:
“Mai về miền Nam tuôn trào nước mắt”
Câu thơ như lời nói bình thường, không cần dùng đến kỹ thuật. Giọng thơ không ồn ào, nhưng đọc lên lại thấy xúc động. Trước hết bởi cách nói, cách bộc lộ có một cái nhìn rất Nam Bộ: chân thành, bộc trực mà không thô. Tác giả thay mặt cho đồng bào miền Nam, những con người ở xa, bày tỏ niềm tiếc thương vô hạn. Người đọc đồng cảm với nhà thơ, với nỗi thương nhớ, xót xa khi đứng trước linh cữu của Bác của nhà thơ cũng như tất cả của mọi người.
Cái ước nguyện chân thành ở cuối bài thơ cũng không của riêng ai:
“Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này…”
Điệp ngữ muốn làm như lớp sống dồi dào khẳng định sự thủy chung của nhà thơ đối với Bác. Hình ảnh cây tre lại xuất hiện, thật tự nhiên, nhuần nhị để khép lại bài thơ, song không còn hàng tre, khách thể như ở đầu bài thơ mã đã hòa tan vào chủ thể. Nhà thơ nói cho mình, cũng là nói cho ý nguyện của mỗi chúng ta: muốn được hóa thân làm những sự vật (con chim, đóa hoa, cây tre) để được ở mãi bên Bác.
“Nay Bác ngủ chúng con canh giấc ngủ”. Bài thơ đã khép lại nhưng để lại trong lòng người đọc ấn tượng sâu sắc. Bài thơ thể hiện tình cảm chân thành, thành kính thiên liêng của tác giả dành cho Bác, đồng thời cũng là tình cảm của toàn dân tộc dành cho Bác. Để mỗi chúng ta càng thêm yêu kính Bác, sống và làm việc theo gương Bác Hồ.
Phân tích bài thơ Viếng lăng Bác của Viễn Phương – Bài làm 4
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh – vị cha già kính yêu của dân tộc Việt Nam thường nói “Miền Nam trong trái tim” hẹn ngày thống nhất Bác sẽ vào thăm. Vậy mà khi miền Nam giải phóng, nước nhà thống nhất thì Bác lại không còn nữa. Những người con miền Nam nhớ Bác cũng chỉ biết vào lăng viếng Bác và Viễn Phương là một trong những người con đó. Với cảm xúc dâng trào của đứa con về thăm cha, Viễn Phương đã cho ra đời bài thơ Viếng lăng Bác thể hiện tình cảm của nhà thơ, của những đứa con dân tộc, của tiếng lòng kính yêu dâng lên Bác.
Đây là một trong những bài thơ cảm động và xuất sắc nhất viết về lãnh tụ Hồ Chí Minh. Bài thơ được viết theo thể thơ tự do, gồm 4 khổ, mỗi khổ có 4 câu. Cảm hứng bao trùm bài thơ là niềm xúc động, thành kính là lòng biết ơn và tự hào, xen lẫn nỗi xót đau khi tác giả từ miền Nam ra Viếng lăng Bác. Giọng điệu thành kính, trang nghiêm của bài thơ rất phù hợp với cảm xúc, và cũng phù hợp với không khí trang nghiêm nơi lăng Bác. Mạch cảm xúc vận động theo trình tự thời gian kết hợp với không gian của một chuyến viếng thăm.
Vì vậy, đọc bài thơ mà như ta theo chân tác giả vào lăng viếng Bác. Khổ 1 cảm xúc về cảnh bên ngoài lăng tập trung ở hình ảnh hàng tre; khổ 2-3 từ dòng người bất tận ngày ngày vào lăng viếng Bác, nhà thơ cảm xúc và suy ngẫm về lãnh tụ kính yêu của dân tộc. Khổ 4 là cảm xúc khi sắp phải trở về miền Nam, nhà thơ mong muốn lòng mình được mãi mãi ở lại nơi lăng Bác.
Hai câu thơ đầu như một lời tự sự đã chứa đựng bao nhiêu cảm xúc:
“Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác
Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát”
Bác đã vĩnh viễn ra đi khi đất nước còn chia cắt. Câu thơ của Viễn Phương mang theo niềm xúc động của đứa con miền Nam sau bao ngày mong mỏi lần đầu tiên được ra Viếng lăng Bác. Cách xưng hô “ con” và “Bác” vừa gần gũi vừa thân thương, vừa trân trọng, vừa thành kính như một đứa con đã lâu nay được trở về thăm cha. Vì vậy, tác giả đã dùng từ “thăm” thay cho từ “viếng” như dấu đi một nỗi đau đang chất chứa trong lòng mình. Cũng trong khổ thơ này, hình ảnh đầu tiên đập vào mắt tác giả về cảnh quanh lăng Bác là hàng tre. Nhà thơ cảm nhận đó là linh hồn quen thuộc của quê hương Việt:
“Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt nam
Bão táp mưa sa vẫn thẳng hàng.”
Hình ảnh những hàng tre quen thuộc đi vào mạch cảm xúc rất tự nhiên mà có nhiều ý nghĩa sâu sắc. Từ hàng tre cụ thể bên lăng Bác, nhà thơ liên tưởng đến cây tre Việt Nam, đến bản lĩnh, sức sống bền bỉ kiên cường của dân tộc Việt Nam. Tre vừa được hiểu theo nghĩa thực, vừa được hiểu theo nghĩa ẩn dụ. Vì vậy, Lăng Bác như ở giữa làng quê Việt Nam và trở nên gần gũi và giản dị, và lăng Bác cũng như đang ở giữa lòng dân tộc, thật ấm áp vô cùng! Nói đến tre là nói đến Việt Nam, nói đến Việt Nam là liên tưởng ngay đến Bác. Một sự kết nối khó có thể hiểu khác được!
Khổ thơ thứ hai được bắt đầu từ hình ảnh “Mặt trời”:
“Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ”
Có hai “mặt trời”: “mặt trời” trong câu thơ trên là hình ảnh thực, “mặt trời” trong câu thơ dưới là hình ảnh ẩn dụ. Bác chính là mặt trời sáng rực, vừa thể hiện cái vĩ đại bất diệt, vừa sự sống cho nhân loại; vừa là mặt trời sáng rực của cách mạng vô sản … Lấy “mặt trời” để ví với Bác, nhà thơ thể hiện niềm tôn kính của mình, cũng là sự tôn kính của toàn thể nhân dân Việt Nam đối với vị lãnh tụ kính yêu.
Sự tôn kính ấy còn thể hiện trong hình ảnh dòng người ngày ngày vào lăng viếng Bác:
“Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân”
Người vào thăm Bác, mang hoa viếng Bác, đó là một hình ảnh thực. Nhưng nhà thơ lại muốn nói đến một “ tràng hoa” khác. Nhìn dòng người bất tận nối tiếp nhau, nhà thơ thấy giống như một tràng hoa dâng Bác. Lại là một sự kết hợp giữa hình ảnh thực và hình ảnh ẩn dụ, tô đậm niềm tôn kính của nhân dân đối với Bác Hồ.
Đến khổ thơ thứ 3, nhà thơ diễn tả cảm xúc của mình khi đã vào trong lăng:
“Bác nằm trong giấc ngủ bình yên
Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền
Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim!”
Khổ thơ gồm 4 câu 7 chữ cân đối, trang nghiêm, phù hợp với không khí thiêng liêng và thanh tịnh trong lăng. Không gian và thời gian như ngừng đọng trước một hình ảnh có tính vĩnh hằng. Nhà thơ cảm nhận như Bác chỉ đang ngủ một “giấc ngủ bình yên”. Đó cũng là ấn tượng thật của mọi người khi được vào thăm lăng, viếng Bác. Hình ảnh “ vầng trăng” là một liên tưởng độc đáo, bất ngờ của nhà thơ. Có thể liên tưởng ấy bắt đầu từ ánh sáng rất dịu nhẹ, trong trẻo của không gian trong lăng. Khi đã xuất hiện thành hình ảnh thơ, “ vầng trăng sáng dịu hiền” gợi nghĩ đến tâm hồn cao đẹp, sáng trong và những vần thơ tràn đầy ánh trăng của Người.
Từ hình ảnh “ vầng trăng”, nhà thơ lại tiếp tục liên tưởng đến hình ảnh “ trời xanh”. Bầu trời xanh là hình ảnh thiên nhiên lớn lao, vĩnh hằng. “Trời xanh”, “vầng trăng”, “mặt trời” trở thành một mối tổng hòa của một vũ trụ bao la, kì vĩ. Nhà thơ Tố Hữu đã từng viết: “ Bác sống như trời đất của ta”. Bác ra đi, nhưng vẫn còn mãi với quê hương đất nước, như trời xanh còn mãi. Dù vẫn tin như thế nhưng không thể không đau xót vì sự ra đi của Người: “ Mà sao nghe nhói ở trong tim!”. Câu thơ biểu hiện cụ thể và trực tiếp nỗi đau xót trong hình thức của một câu hỏi tu từ.
Và đến khổ thơ cuối, nhà thơ bày tỏ tâm trạng lưu luyến khi sắp phải trở về miền Nam:
“Mai về miền Nam thương trào nước mắt
Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này”
“ Mai về miền Nam”, nhớ thương Bác đến “ trào nước mắt”. Câu thơ có cách diễn đạt chân thành , mộc mạc kiểu Nam Bộ. Ba câu thơ cuối bắt đầu bằng điệp nhữ “ muốn làm”, bày tỏ niềm mong ước, tấm lòng lưu luyến của nhà thơ gửi vào niềm mong ước thiết tha muốn hóa thân vào cảnh vật bên lăng Bác: “muốn làm con chim hót”, “muốn làm bông hoa tỏa hương,” và hơn hết, “muốn làm cây tre trung hiếu” nhập vào “hàng tre bát ngát” quanh lăng Bác.
Hình ảnh hàng tre ở khổ thơ đầu được lặp lại ở cuối bài, tạo nên kết cấu đầu cuối tương ứng, tô đậm hình ảnh gây ấn tượng sâu sắc và dòng cảm xúc được trọn vẹn.
Bài thơ có giọng điệu phù hợp với nội dung tình cảm, cảm xúc: vừa trang nghiêm, sâu lắng, vừa tha thiết, đau xót, tự hào. Với thể thơ tám chữ xen lẫn những dòng thơ bảy chữ hoặc chín chữ. Nhịp thơ chủ yếu là nhịp chậm, diễn tả sự trang nghiêm, thành kính và những cảm xúc sâu lắng. Riêng khổ cuối nhịp thơ nhanh hơn, phù hợp với sắc thái của lòng mong ước. Hình ảnh thơ có nhiều sáng tạo, kết hợp hình ảnh thực với hình ảnh ẩn dụ, biểu tượng. Những hình ảnh ẩn dụ- biểu tượng như “Mặt trời trong lăng”, “ tràng hoa”, “ vầng trăng”, “ trời xanh”… vừa thân thuộc vừa gần gũi với hình ảnh thực, vừa sâu sắc, có ý nghĩa khái quát va tình cảm của cả dân tộc đối với vị lãnh tụ kính yêu.
Viếng lăng Bác đã để lại trong lòng bạn đọc những cảm xúc sâu lắng và tha thiết. Với những hình ảnh ẩn dụ độc đáo và những biện pháp tu từ đặc sắc, Viễn Phương đã thể hiện một hồn thơ rất riêng. Qua bài thơ, Viễn Phương đã thay nhân dân miền Nam nói riêng và nhân dân cả nước nói chung dâng lên Bác niềm cảm xúc chân thành, lòng tôn kính thiêng liêng. Bài thơ sẽ tiếp tục sống trong lòng người đọc, gợi nhắc cho những thế hệ kế tục thành quả rực rỡ của cách mạng cách sống sao cho xứng đáng với sự hi sinh của một con người vĩ đại mà giản dị- Chủ tịch Hồ Chí Minh, người đã sống trọn một đời:
“Chỉ biết quên mình cho hết thảy
Như dòng sông chảy nặng phù sa”
Phân tích bài thơ Viếng lăng Bác của Viễn Phương – Bài làm 5
Bác Hồ – vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc, cuộc đời và sự nghiệp của Bác là nguồn cảm hứng vô tận của thơ ca.
Có biết bao bài thơ đã ca ngợi Bác trong đó có nhiều bài đã đi vào đời sống tình cảm của nhân dân. Bài thơ “Viếng lãng Bác” của nhà thơ Viễn Phương đã thể hiện được những cảm xúc chân thành, tha thiết đối với Bác Hồ vô vàn kính yêu.
Viễn Phương – người nghệ sĩ và người chiến sĩ đã đứng trong đội ngũ chiến đấu để thực hiện lí tưởng cao cả của Bác Hồ: “Không có gì quý hơn độc lập tự do”. Cuộc chiến đấu thắng lợi, từ khói lửa chiến tranh bước ra, nhà thơ ra Hà Nội – trái tim của cả nước để được viếng Bác.
Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác.
Câu thơ không có bàn tay kĩ thuật gọt giũa câu chữ, cứ tự nhiên như lời nói thường nhưng đọc lên vẫn xúc động vì đây là tiếng nói tự đáy lòng của người con đi xa về bên cha. Câu thơ bằng lặng nhưng bên trong ẩn chứa một nỗi đau của sự mất mát.
Đến gần lăng, một không gian hiện ra trước mắt, lẫn trong sương sớm là “hàng tre bát ngát”. Quanh lăng Bác cả một rừng cây như hình ảnh thu nhỏ của đất nước Việt Nam tươi xanh, các loại cây quen thuộc, quý hiếm trong Nam ngoài Bắc đều có mặt bên lăng Bác nhưng hình ảnh hàng tre vẫn đậm nét nhất trong tâm trí nhà thơ. Cây tre tượng trưng cho cuộc sống và tâm hồn người Việt.
Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam .
Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng.
Màu tre mãi mãi xanh tươi như sức sống bất diệt của dân tộc Việt Nam trước những thử thách khắc nghiệt của thiên nhiên và lịch sử. Hàngtre bên lăng ru giấc ngủ ngàn đời của Bác như thuở ấu thơ tre làm bạn với Người.
Bác nằm trong lăng, Bác vẫn sống mãi với non sông đất nước, Bác vẫn tỏa ánh sáng muôn đời:
Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ.
Mặt trời của tự nhiên đem lại sức sống cho muôn loài. Mặt trời thật đó gợi lên một sự liên tưởng và so sánh: Bác chúng ta cũng là một mặt trời, Bác đã soi đường dẫn lối cho nhân dân ta đi lên từ trong đêm tối nô lệ đến cuộc đời xán lạn của tự do độc lập.
Công ơn của Bác như trời biển, Bác ra đi để lại muôn vàn tiếc thương. Những dòng người nối dài như vô tận đến viếng Bác bằng tất cả tấm lòng thành kính, hình ảnh đó nhà thơ tưởng tượng như những tràng hoa kết lại để dâng lên Bác:
Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân.
Đến bên Bác, niềm xúc động trào dâng nhưng sao ta vẫn có cảm giác Bác vẫn nằm đó trong giấc ngủ thanh thản, ta nhẹ gót để Bác được yên giấc:
Bác nằm trong giấc ngủ bình yên
Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền
Trong giấc ngủ vĩnh hằng của Bác có trăng làm bạn. Trăng vốn là tri âm tri kỉ với Bác từ những tháng ngày bị đày đoạ trong nhà lao Tưởng Giới Thạch, đến những ngày gian khổ ở núi rừng Việt Bắc, trăng vẫn gần gũi: “Trăng vào cửa sổ đòi thơ”.
Bài thơ kết thúc trong tâm trạng lưu luyến, nhớ mong. Ngày mai trở về Nam, xa Bác và nhà thơ muốn được hóa thân để được mãi mãi bên Bác:
Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này.
“Muốn làm”… nỗi niềm mong ước hóa thành chim để hót, thành hoa để tỏa hương, hòa cùng muôn ngàn âm thanh, hương sắc của thế giới thiên nhiên quanh Bác. “Muốn làm cây tre trung hiếu…”, cây tre mang tính biểu tượng của lí tưởng và lời dạy của Bác: “Trung với nước, hiếu với dân”.
Bài thơ ngắn gọn, lời thơ tự nhiên, âm hưởng trầm lắng và giàu cảm xúc. Bài thơ đã để lại ấn tượng sâu đậm trong lòng người đọc bởi lẽ trước hết đó là tiếng nói chân thành tha thiết của nhà thơ và của tất cả chúng ta đối với Bác Hồ, vị lãnh tụ kính yêu của dân tộc.
Phân tích bài thơ Viếng lăng Bác của Viễn Phương – Bài làm 6
Bác nhớ miền Nam nỗi nhớ nhà Sinh thời, Bác Hồ đặc biệt dành tình thương yêu vô vàn cho miền Nam, miền đất đi trước về sau. Bác thường bảo: Miền Nam luôn trong trái tim tôi. Người Cha già của nhân dân Việt Nam đặc biệt là của nhân dán miền Nam ấy đã đi xa, để lại vô vàn niềm tiếc nuối trong lòng mỗi người dân nơi đây.
Tháng tư năm 1976, nhà thơ Viễn Phương trong dịp về nguồn đã xúc động bồi hồi đến Ba Đình, Hà Nội để viếng lăng Bác: “Viếng lăng Bác”, bài thơ đặc sắc của nhà thơ đã ra đời trong dịp ấy:
Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác
Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát.
Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa đứngthẳng hàng.
Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ
Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân.
Bác nằm trong giấc ngủ bình yên
Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền
Vẫn biết trời xanh làmãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim.
Mai về miền Nam tuôn trào nước mắt.
Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đóa hoa toả hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này.
Bài thơ là sự dồn nén kết tinh tình cảm chân thành thương nhớ Bác không chỉ riêng của nhà thơ Viễn Phương mà còn là tình cảm lớn của hàng triệu chiến sĩ, đồng bào miền Nam, những người cũng như nhà thơ, tuy chưa một lần gặp Bác trong thực tế nhưng đã nghìn lần gặp Bác trong mơ, trong hoài vọng và lí tưởng cao đẹp nhất của mình.
Câu mở đầu bài thơ giản dị mà chân chất nói lên hoàn cảnh viếng lăng bác, mở ra một không khí thân mật, trang nghiêm:
Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác.
“Ởmiền Nam” là từ mảnh đất mấy chục năm trời chiến đấu gian khổvới một ước mong sớm đến ngày chiến thắng, nước nhà thống nhất, đểđược một lần thấy Bác. Giờ đây, ngày ấy đã đến, nhưng Bác đã đi xa. Lòng ai tránh khỏi dạt dào xúc động… Cái đầu tiên tới đây nhà thơ bắt gặp là gì?
Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát.
Cây tre từ bao đời chính là biểu tượng của đất nước, của con người Việt Nam với biết bao đức tính đặc biệt cao quý: Thân gầy guộc, lá mong manh /Mà sao nên luỹ nên thành tre ơi! (Nguyễn Duy). Từ thời bình minh lịch sử nước ta, Thánh Gióng đã nhổ tre đuổi sạch giặc Ân. Gần đây hơn, nhân dân miền Nam từ gậy tầm vông đã làm nên chiến thắng vang dội địa cầu.
Bởi vậy, cây tre là hình ảnh tiêu biểu sinh động cho tinh thần bất khuất, chí khí anh hùng của dân tộc ta:
Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng.
Trên cái nền hàng tre trong sương cội nguồn dân tộc ấy, nhà thơ đã tả lăng Bác với những đoàn người nườm nượp đến viếng ngày ngày với lòng tôn kính đặc biệt:
Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ.
Mặt trời trên lăng là mặt trời của trời đất, tự nhiên. Mặt trời trong lăng chính là trái tim của Bác, một người đã dành trọn đời mình cho nước, cho dân. Cách so sánh ở đây thật sinh động, tự nhiên và nhuần nhuyễn. Bằng lối ẩn dụ, nhà thơ đã cho thấy Bác Hồ là vầng thái dương rạng rỡ không những soi tỏ đường chúng ta đi mà còn sưởi ấm trái tim của mỗi con người Việt Nam chúng ta nữa:
Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân.
Hình ảnh những dòng người đi trong thương nhớ, kết tràng hoa… vừa tả thực vừa có ý nghĩa tượng trưng. Dòng người bất tận này đã nở hoa dưới ánh sáng của mặt trời Bác. Những bông hoa tươi thắm ấy đang tiến dâng lên Người.
Khổ thơ tiếp theo là hình ảnh Bác trong lăng, khi nhà thơ bước vào được thấy:
Bác nằm trong giấc ngủ bình yên
Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền
Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim.
Ởđây là một so sánh ngầm thú vị. Cuộc đời Bác như mặt trời. Giấc ngủ Bác như vầng trăng. Bác trở nên bất tử hòa nhập vào trời xanh. Các hình ảnh vĩnh hằng kì vĩ vầng trăng, trời xanh… nối tiếp nhau trong bài thơ cho thấy cái mãi mãi, cái vô cùng cao cả ở một con người. Ởđây lại có sự mâu thuẫn giữa lí trí và tình cảm: lí trí thì biết trời xanh là mãi mãi, còn tình cảm thì mà sao nghe nhói ở trong tim! Đủ thấy nỗi tiếc thương, sự mất mát không gì bù đắp được trong lòng ai.
Khổ thơ cuối liền mạch với cảm xúc dào dạt của tác giả, là niềm lưu luyến dâng lên. Tuy còn đứng bên Bác, nhà thơ đã bịn rịn nghĩ đến phút chia xa: Mai về miền Nam thương trào nước mắt.
Tình cảm ở đây chân thành và bộc trực biết bao! Câu thơ không chút gì chải chuốt. Vậy mà đọc lên không thể nào không xúc động.
Kết thúc trọn vẹn bài thơ là ước vọng thành kính của nhà thơ nhưng cũng là ước nguyện chung của bất cứ một người Việt Nam nào:
Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đoá hoa tỏa hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này.
Khép lại bài thơ là hình ảnh cây tre, hình ảnh đã xuất hiện từ đầu thật là tự nhiên. Đúng như nhận xét của Đức Thảo từ hàng tre là khách thể ở bên trên đã tan hoà vào cây tre là chủ thể ở cuối bài.
“Viếng lăng Bác” là bài thơ hay về Bác của nhà thơ Viễn Phương. Tuy mộc mạc, giản dị như sự thật nhưng bài thơ không những giàu hình ảnh mà còn giàu chất suy tưởng, chất lãng mạn trữ tình đằm thắm cộng với nghệ thuật luyến láy ngôn ngữ của nhà thơ làm nên sức gợi cảm sâu lắng, không dễ gì quên…
Phân tích bài thơ Viếng lăng Bác của Viễn Phương – Bài làm 7
Chủ tịch Hồ Chí Minh là nhân vật lịch sử thân yêu nhất của dân tộc Việt Nam thế kỉ XX. Người để lại hình ảnh một người Cha già hiền từ, một tên gọi Bác thân thiết, người hiện thân cho những gì cao đẹp và mạnh mẽ của dân tộc. Lăng Bác trở thành nơi lưu giữ bóng dáng Bác lúc sinh thời, nơi chiêm ngưỡng thành kính của nhân dân cả nước và bạn bè quốc tế. Biết bao nhà thơ đã làm thơ về Người, về lăng Người. “Viếng lăng” Bác của Viễn Phương là một bài thơ ngắn đầy xúc động, thể hiện tấm lòng của đồng bào miền Nam đối với Người. .
Mở đầu bài thơ, tác giả tự giới thiệu:
Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác
Lời thơ giản dị chứa đựng rất nhiều cảm xúc. Sinh thời, Người luôn nghĩđến miền Nam. Nhà thơ Tố Hữu từng viết:
Bác nhớ miền Nam nỗi nhớ nhà
Miền Nam mong Bác nỗi mong Cha
(Bác ơi)
Lời bài thơ đúng là lời của người con miền Nam ra thăm lăng Bác, nơi yên nghỉcủa người Cha già dân tộc. Tình cảm trong bài đúng là tình cảm của người con ở xa mà nỗi niềm nhớ thương ấp ủ bấy lâu như chỉ chờ gặp lại bóng dáng thân yêu là trào dâng, thổn thức.
Từ xa, nhà thơ vừa nhìn thấy hàng tre quanh lăng, đã xiết bao xúc động:
Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
Ôi hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng.
Nhà thơ hẳn phải đến rất sớm để xếp hàng vào viếng, khi sương sớm còn bao phủ quanh lăng. Theo con đường quanh quanh dẫn tới lăng nổi lên hàng tre bát ngát. Bát ngát của tre và bát ngát của sương. Nhà thơ bắt gặp một hình ảnh thân thuộc mà bao năm đã in hẳn tiềm thức: “hàng tre xanh xanh Việt Nam / Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng”. Một tình cảm vừa thân quen, vừa thương xót và tự hào. Thân quen vì người Việt Nam nào mà không biết tre. Thương xót vì tre phải chịu đựng bão táp, mưa sa, và tự hào vì tre vẫn thẳng hàng, không nghiêng ngả. Từ sương sa mà liên tưởng đến bão táp, mưa sa cũng rất tự nhiên. Từ cây tre mà nghĩ đến Việt Nam, rồi sẽ nghĩ đến Bác cũng là tự nhiên, bởi từ lâu “cây tre”, ‘Việt Nam”, “Hồ Chí Minh” là những từ ngữ có mối liên hệ nội tại.
Khổ thứ hai nói tới cảm xúc trước cảnh đoàn người sắp hàng vào lăng. Hẳn là đoàn người rất dài, tốc độ đi rất chậm. Khổ thơ trên, cảnh vật đang còn sương phủ, bây giờ mặt trời đã lên cao trên đầu. Mặt trời trên lăng lại gợi lên một liên hệ mới:
Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ
Ví Bác với mặt trời là hình ảnh đã quen, nhưng đem so sánh mặt trời trên lăng và mặt trời trong lăng là một sáng tạo mới xuất thần, thoát sáo, chưa hề có. Mặt trời “rất đỏ” làm nhớ đến trái tim, trái tim nhiệt huyết, chân thành, trái tim thương nước, thương dân.
Ngắm nhìn dòng người vào viếng, nhà thơ lại nghĩ đến vòng hoa:
Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân…
Tràng hoa là chuỗi hoa vòng kết thành tròn. Từng đoàn người đi viếng di chuyển từ phía sau lăng, qua bên lăng, vòng ra trước lăng rồi quay vào chính diện của lăng, đúng là tạo thành một vòng tròn, khiến nhà thơ nghĩ đến tràng hoa. Bởi vì con người là hoa của đất, những con người từng được Bác Hồ quan tâm. Mọi người hình như không phải đến viếng một người đã từ trần, viếng một thi hài, mà là đến viếng một cuộc đời bảy mươi chín mùa xuân đã hiến dâng bao nhiêu hoa trái. Ởđây tác giả không chỉ liên tưởng sâu sắc, mà còn dùng từ tinh tế, đầy tình cảm nâng niu, quý trọng.
Những chữ “ngày ngày” được lặp lại hai lần gây cảm giác một thời gian vô tận, vĩnh viễn, không bao giờ ngừng, như tấm lòng nhân dân không nguôi nhớ Bác.
Khổ thơ thứ ba nói về cảm xúc khi đã vào đến trong lăng. Đây là nơi ngự trị của cái im lặng trang nghiêm của sự yên nghỉ đời đời. Câu thơ đã viết rất đỗi chân thực và thơ mộng:
Bác nằm trong giấc ngủ bình yên
Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền
Khung cảnh bình yên, lặng lẽ gợi lên giấc ngủ ban đêm, êm đềm dưới vầng trăng sáng dịu hiền. Nhà thơ một mặt không muốn cảm nhận đây là giấc ngủ vĩnh viễn, ngủ giữa ban ngày, nhưng mặt khác không thể không thấy một sự thật rằng con người đang nằm kia đã vĩnh viễn ra đi:
Vẫn biết trời xanh là mãi mãi.
Mà sao nghe nhói ở trong tim
Dù biết Bác sống vĩnh viễn như trời xanh thì cũng không che giấu được một sự thật mất mát, làm đau nhói con tim. Câu thơ nghe như một tiếng khóc nghẹn ngào.
Khổ thơ cuốỉ cùng là cảm xúc trước khi ra về:
Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đoá hoa tỏa hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này
Nghĩ đến ngày mai về miền Nam, nỗi thương xót làm trào rơi nước mắt. Không phải rưng rưng, rơm rớm, mà là trào, một cảm xúc mãnh liệt. Tình thương xót như nén giữa tâm hồn, làm nảy sinh bao ước muốn. Ước muốn làm con chim hót quanh lăng Bác, để lại chút vui tươi, nhí nhảnh bên một người đã hy sinh cả gia đình, tình riêng vì đất nước. Ước muốn làm đóa hoa tỏa hương quanh lăng, một làn hương như thực như hư “đâu đây”, thoang thoảng. Ước muốn làm cây tre trung hiếu quanh lăng. Mọi ước muốn đều quy tụ vào một điểm là mong được gần Bác mãi mãi, hẳn là muốn làm vui, làm khuây, làm vợi nỗi lạnh lẽo của con người đã suốt đời hi sinh cho sự nghiệp giải phóng Tổ quốc, giải phóng dân tộc, một con người lúc sinh thời đã dành trọn tình thương yêu cho mọi tầng lớp nhân dân và đặc biệt cho đồng bào miền Nam ruột thịt.
Bài thơ tả lại một ngày ra thăm lăng Bác, từ tinh sương đến trưa, đến chiều. Nhưng thời gian trong tưởng niệm là thời gian vĩnh viễn của vũ trụ, của tâm hồn. Cả bài thơ bôn khổ, khổ nào cũng trào dâng một niềm thương nhớ bao la và xót thương vô hạn. Bốn khổ thơ, khổ nào cũng đầy ắp ẩn dụ, những ẩn dụ đẹp và trang nhã, thể hiện sự thăng hoa của tình cảm từ cõi hằng ngày lên cõi cao cả. Tình cảm đối với Bác chỉ có thểlà tình cảm cao cả, nâng cao tâm hồn con người. Viếng lăng Bác của nhà thơ Viễn Phương là một đóng góp quý báu vào kho tàng thi ca viết về Hồ Chủ tịch, vị lãnh tụ vĩ đại, kính yêu của dân tộc.
Phân tích bài thơ Viếng lăng Bác của Viễn Phương – Bài làm 8
"Bác nhớ miền Nam nỗi nhớ nhà
Miền Nam mong Bác nỗi mong cha.”
Nỗi mong chờ và ao ước của đồng bào miền Nam được Bác vào thăm không còn nữa! Người đã ra đi mãi mãi để lại bao niềm nuối tiếc trong lòng mỗi người dân Nam Bộ, Viễn Phương – nhà thơ trẻ miền Nam – được vinh dự ra thăm lăng Bác. Tác giả đã thay mặt nhân dân miền Nam bày tỏ tình cảm của mình khi đứng trước người cha già dân tộc. Xúc dộng tận đáy lòng, Viễn Phương viết bài “Viếng lăng Bác". Đây là bài thơ gợi cho em niềm cảm xúc sâu xa nhất.
Cảm xúc đầu tiên mà em cảm nhận được từ bài thơ có lẽ vì bài thơ thể hiện được tình cảm chân thành và giản dị của đồng bào Nam bộ muốn nhắn gửi, nhờ Viền Phương nói hộ cùng Bác nỗi mong chờ và mong đợi Bác vào thăm.
Xúc động dạt dào, mở đầu bài thơ, tác giả v