Phân tích bài thơ “Tiếng hát con tàu” của Chế Lan Viên-Văn 12
Đề bài: Em hãy phân tích bài thơ “Tiếng hát con tàu” của Chế Lan Viên. Thi phẩm “Tiếng hát con tàu” của nhà thơ Chế Lan Viên dường như nó không đơn thuần chỉ là một bài thơ lấy sự kiện chính trị mà nó còn là một lời động viên cổ vũ tinh thần đấu tranh của quân dân ...
Đề bài: Em hãy phân tích bài thơ “Tiếng hát con tàu” của Chế Lan Viên.
Thi phẩm “Tiếng hát con tàu” của nhà thơ Chế Lan Viên dường như nó không đơn thuần chỉ là một bài thơ lấy sự kiện chính trị mà nó còn là một lời động viên cổ vũ tinh thần đấu tranh của quân dân ta.
Nhan đề đặc sắc của bài “Tiếng hát con tàu” của bài thơ dường như cũng đã mang tính biểu tượng bởi thực tế nhưng đó chưa hề có đường tàu và con tàu lên Tây Bắc. Và ta như đã thấy được chính những hình tượng con tàu trong bốn câu thơ đề từ là biểu tượng cho tâm hồn của chính nhà thơ Chế Lan Viên dường như cũng đã đang khát khao lên đường, mong muốn được vượt ra khỏi cuộc sống chật hẹp, vượt ra khỏi cả những sự quẩn quanh đi đến với cuộc đời rộng lớn này. Và hình ảnh ây Bắc ngoài ý nghĩa cụ thể chỉ địa danh hay là một miền đất xa xôi của Tổ quốc, đó cũng như còn là một biểu tượng của cuộc sống lớn của nhân dân và đất nước hơn nữa, rộng ra nó như là cội nguồn của cảm hứng sáng tạo nghệ thuật
Bài thơ mở đầu bằng một lời mời gọi thiết tha biết bao nhiêu
Chuyến tàu này lên Tây Bắc anh đi chăng?
Bạn bè đi xa anh giữ trời Hà Nội
Anh có nghe gió ngàn đang rú gọi
Ngoài cửa ô? Tàu đói những vầng trăng.
Với những câu thơ này ta dường như cũng đã bắt gặp chủ thể trữ tình tự phân thân để đối thoại với chính mình và như cả với hàng loạt những câu hỏi nâng cao dần cấp độ để bộc lộ khát vọng lên đường của những người lính. Và đó cũng không chỉ là lời hối thúc bản thân, dường như ta thấy được ở câu thơ còn là lời động viên, nó như chính là những lời thuyết phục để thôi thúc mọi người đi đến với những miền đất lạ xa xôi, và có thể để hòa nhập vào cuộc sống rộng lớn của nhân dân. Chế Lan Viên thật tinh tế khi ông đã mượn hình ảnh thiên nhiên để khơi gợi lên những khát vọng lên đường của mọi người đó là những câu:
Anh có nghe gió ngàn đang rú gọi
Ngoài cửa ô? Tàu đói những vầng trăng.
Nhà thơ Chế Lan Viên dường như cũng đã nói với người khác và cũng là tự nhủ với chính lòng mình. Và có lẽ rằng chính trong cuộc kháng chiến trường kì gian khổ đã kết thúc thắng lợi, đất nước bước vào công cuộc tái thiết và cả là sự xây dựng cuộc sống mới đang rất cần sự đóng góp của mỗi người dân chúng ta. Có thể khẳng định rằng đó chính là cuộc sống lớn đó là ngọn nguồn của mọi sáng tạo nghệ thuật. Song, phải nó rằng chính nghệ thuật không thể nảy sinh khi người nghệ sĩ, và nó cũng như đã không mở rộng lòng mình đón nhận tất cả những vang vọng của cuộc đời. Và phải đi ra từ cuộc đời thì nghệ thuật nó mới mang hơi thở cuar cuộc sống và nghệ thuật mới chính là nghệ thuật chứ không phải thứ văn chương chỉ gò đẽo câu chữ mà không biết được cuộc sống cần lao của nhân dân ngoài kia ra sao.
Chẳng có thơ đâu giữa lòng đóng khép
Tâm hồn anh chờ gặp anh trên kia
Và có thể nói cũng có thể chính vì lẽ đó mà tâm hồn thơ Chế lan Viên muốn hóa thân thành con tàu tâm tưởng và nó như là những khao khát lên đường. Như thật hăm hở say sưa, và đồng thời cũng như thật háo hức trong hành trình khi mà trở về với cuộc đời rộng lớn, và cũng là về với nhân dân. Có thể thấy được chính cái khát vọng đến với cuộc sống rộng lớn đó chính là đến với nhân dân trở thành cảm hứng, tình cảm chân thành của nhà thơ tài ba này:
Ôi chim én có bay không, chim én?
Đến những đảo xa, đến những đảo mờ
Ở đâu chưa đi thì lòng sẽ đến
Lúc trở về, lòng ngậm những cành thơ.
Ta có thể nhận thấy được trong bài thơ “Tiếng hát con tàu” thì dường như những khát vọng lên đường ấy dường như mỗi lúc càng được bộc lộ cụ thể hơn. Đó chính là những niềm say mê hơn và rạo rực hơn cả là “Khi lòng ta đã hóa những con tàu”. Và cái khát vọng đó như ngày càng một mãnh liệt hơn rất nhiều.
Trên Tây Bắc ôi mười năm Tây Bắc
Xứ thiêng liêng rừng núi đã anh hùng
Nơi máu rỏ tâm hồn ta thấm đất
Nay dạt dào đã chín trái đầu xuân
Khi mà giọt máu rỏ xuống và cây mọc lên, nó cũng nư đã đơm hoa kết trái. Dường như ta cũng có thể thấy được rằng hai ý thơ đối nghịch dường như cũng đã cho ta thấy sức sống vĩ đại của miền Tây Bắc. Đó chính là từ trong cái chết thì chính sự sống vẫn tiếp tục nẩy mầm xanh. Và sử dụng rất đắt động từ “rỏ”không gây ấn tượng mạnh nhưng dường như nó lại có sức lan tỏa sâu trong lòng người đọc.Máu “rỏ” chứ không phải là máu tuôn, máu xối. Nó đồng thời cũng lại cho thấy sự hi sinh thầm lặng nhưng bền bỉ, như thật lâu dài của người dân Tây Bắc nói riêng và của người Việt Nam nói chung. Những sự mất mát hi sinh là lớn lao là cao cả nhưng nó không đủ sức để thiêu mất đi những ý chí và khát vọng. Và ta như cũng chỉ cần giữ được niềm tin vào cuộc sống thì có lẽ rằng chính cuộc đời này vẫn đáng yêu, đáng sống và nó như lại thêm có thể thôi thúc con người mang khát khao cống hiến.
Ta có thể nhận thấy được dường như bao trùm trong Tiếng hát con tàu là niềm khát khao mãnh liệt và đó cũng chính là những niềm hạnh phúc lớn lao của nhà thơ khi được trở về với nhân dân:
Con gặp lại nhân dân hư nai về suối cũ
Cỏ đón giêng hai, chim én gặp mùa
Như đứa trẻ thơ đói lòng gặp sữa
Chiếc nôi ngừng bỗng gặp cánh tay đưa
Đoạn thơ trên như đã thể hiện niềm hạnh phúc lớn lao đó, tác giả sử dụng liên tiếp những hình ảnh so sánh. Ta có thể thấy được chính những hình ảnh này vừa có vẻ đẹp thơ mộng, mượt mà biết bao nhiêu đó là “nai về suối cũ, cỏ đón giêng hai, chim én gặp mùa”, như lạivừa có sự hoà hợp giữa nhu cầu cũng như chính cái khát vọng của bản thân với hiện thực đó là những vần thơ “trẻ thơ đói lòng gặp sữa, chiếc nôi ngừng bỗng gặp cánh tay đưa” cũng tinh tế và khéo léo khi đã nhấn mạnh niềm hạnh phúc tột độ và cả những ý nghĩa sâu xa của việc trở về với nhân dân. Đối với nhà thơ Chế Lan Viên, khi mà đã được trở về với nhân dân không chỉ là niềm vui, niềm khát khao mong chờ bấy lâu mà còn là một lẽ tự nhiên, phù hợp với qui luật. Và về với nhân dân như là về với ngọn nguồn của những điều bất tận của sự sống nó cũng như đã về với những gì thân thiết và sâu nặng của lòng mình.
Ta như có thể thấy được những khát vọng của nhà thơ khi được trở về với nhân dân như là trở về với những khát vọng lớn lao như đã đực mong mỏi bấy lâu nay.
Khi ta đọc những câu thơ này, có thể thấy được sự sự rung động vừa sâu sắc, tha thiết, vừa say mê, như cũng thật là mãnh liệt của một hồn thơ trong những giây phút như đã sáng rực như bừng sáng của sự giác ngộ một chân lí đời sống. Và cũng chính là chân lí của nghệ thuật đó là phải trở về thuỷ chung gắn bó với nhân dân, gắn bó với Tổ quốc và nhân dân đã hồi sinh cho một hồn thơ đã từng một thời tự giam mình trong cái tôi cô đơn, đóng khép cả
Người đọc có thể thấy được những kỉ niệm ân tình, những hoài niệm về nhân dân, tác giả dường như đã nâng lên thành những chiêm nghiệm giàu sức khái quát, và đí chính là những chân lí được rút ra từ những trải nghiệm của chính mình:
Nhớ bản sương giăng, nhớ đèo mây phủ
Nơi nào qua, lòng lại chẳng uêy đương
Khi ta ở, chỉ là nơi đất ở
Khi ta đi đất đã hoá tâm hồn!
Anh bỗng nhớ em như đông về nhớ rét
Tình yêu ta như cánh kiến hoa vàng
Như xuân đến chim rừng lông trở biếc
Tình yêu làm đất lạ hoá quê hương.
Trên đây chish là khổ thơ là tấm lòng nhà thơ trải dài theo nỗi nhớ. Nỗi nhớ ấy day dứt trong tâm trí nhà thơ. Đó như lại còn là nỗi nhớ về những bản làng điệp trùng mây núi. Nhà thơ Chế Lan Viên dường như cũng đã đi qua nhiều nơi, nhưng nơi nào chẳng để thương để nhớ trong tâm hồn nhà thơ, để rồi câu thơ như xúc động bật ra thật một lời nghẹn ngào “khi ta ở chỉ là nơi đất ở, Khi ta đi đất đã hoá tâm hồn”.
Thi phẩm độc đáo thấm đẫm cảm xúc “Tiếng hát con tàu” được biết đến như là bài thơ hay của Chế Lan Viên dường như cũng đã đã góp phần làm đẹp thêm bộ phận thơ viết về công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Ta như thấy được bài thơ cũng đã thể hiện một cái nhìn mới của nhà thơ trước cuộc đời, và cả trước con người. Nhưng có lẽ điều ta bắt gặp và ấn tượng nhất ở đây chính là những sự suy tư và sự trăn trở mang màu sắc triết lý về cuộc đời về con người của nhà thơ.
Nguồn: Văn mẫu hay