Phân tích bài thơ Sang thu – Văn mẫu lớp 9
Nội dung bài viết1 Phân tích bài thơ Sang thu – Bài số 1 2 Phân tích bài thơ Sang thu – Bài số 2 3 Phân tích bài thơ Sang thu – Bài số 3 4 Phân tích bài thơ Sang thu – Bài số 4 5 Phân tích bài thơ Sang thu – Bài số 5 Phân tích bài thơ Sang thu – Bài số 1 Thiên ...
Nội dung bài viết1 Phân tích bài thơ Sang thu – Bài số 1 2 Phân tích bài thơ Sang thu – Bài số 2 3 Phân tích bài thơ Sang thu – Bài số 3 4 Phân tích bài thơ Sang thu – Bài số 4 5 Phân tích bài thơ Sang thu – Bài số 5 Phân tích bài thơ Sang thu – Bài số 1 Thiên nhiên vốn rất được ngưỡng mộ trong thơ ca Việt Nam. Khi đi vào thơ hiện đại, nó dường như có thêm sức sống và đẹp hơn. Một năm có bốn mùa và mùa nào cũng đẹp, nhưng có lẽ mùa mà được các thi nhân ưu ái nhất đó lại là mùa thu. Đã có rất nhiều những vần thơ hay nói về mùa thu, mỗi nhà thơ đều lưu lại dấu ấn độc đáo của mình trong từng dòng thơ ấy. Đến lượt Hữu Thỉnh, ông lại thổi vào bài thơ một cái nhìn độc đáo và mới mẻ hơn bằng sự trải nghiệm của chính mình. “Sang thu” được ông sáng tác năm 1977 là một trong những minh chứng. Với thể thơ năm chữ và số lượng khổ thơ ít ỏi, nhưng Hữu Thỉnh đã khắc họa tuyệt vời bức tranh thiên nhiên trong thời khắc giao mùa một cách cô đọng và súc tích. Giọng thơ nhẹ nhàng, nhịp thơ chậm làm bài thơ dễ đi vào lòng người, từ đó cho chúng ta những suy ngẫm về cuộc đời, về con người. Chiến tranh kết thúc đã hai năm, hòa bình được lặp lại trên đất nước. Từ vùng quê ở ngoại ô, tác giả cảm nhận được có cái gì chìm lắng, xao động tận sâu trong cõi lòng. Thời khắc giao mùa từ hạ sang thu đã làm rung động tâm hồn người thi sĩ và những vần thơ bắt đầu dâng trào mạnh mẽ. Những dấu hiệu đầu tiên của buổi giao mùa thật nhẹ nhàng mà rõ rệt, khiến tâm hồn nhà thơ phải lay động, phải giật mình: Bỗng nhận ra hương ổi // Phả vào trong gió se Ở đây, tác giả nhận ra mùa thu không phải nhờ những nét đặc trưng của trời mây như thơ cổ điển mà trước hết là “hương ổi”. Và từ “bỗng” cho chúng ta thấy được rằng mùa thu đến với tác giả khá đột ngột và bất ngờ, không hẹn trước. Mùa thu đến không báo trước khiến nhà thơ cảm thấy có một chút bối rối, ngỡ ngàng. Và tác giả có vẻ sững sờ khi bắt gặp mùi hương ổi ngập tràn trong gió. Trong đoạn thơ, động từ “phả” mang tính gợi tả rất lớn. Hương ổi quyện trong gió, “phả vào” khướu giác của nhà thơ theo từng luồng gió. Một chữ “phả” kia đủ để gợi hương thơm như sánh lại, không thoang thoảng cũng không lan ra. Nó sánh bởi vì hương thơm đậm một phần, sánh còn bởi tại hơi gió se. Hương ổi luồng vào trong gió được tinh lọc, được cô đặc thêm. Nhờ gió thu hào phóng, đã mang mùi hương ổi “phả” vào từng ngóc ngách của làng quê, để rồi thi nhân bắt gặp hương thu và “bỗng” sững sờ. Từ trước đến nay, các nhà thơ lay động trước mùa thu là do lá vàng rơi, ao thu lạnh lẽo,… chưa ai đưa vào thơ mùi hương ổi chín. Nhưng Hữu Thỉnh đã làm như thế, đã đưa mùi hương của quê nhà vào trong thơ và để nó là tín hiệu để nhận ra mùa thu đang đến. Có phải do tình yêu quê hương sâu sắc, gắn bó với làng quê mà ý thơ của ông thật giản dị, dân dã, và có cả hương ổi quê nhà? Đã cảm nhận được “hương ổi”, đã nhận ra “gió se”, hơn thế nữa, thị giác cũng mách bảo với nhà thơ rằng thiên nhiên đang chuyển mình. Sương chùng chình qua ngõ // Hình như thu đã về Đồng hành với “hương ổi” ở hai câu trên đó chính là sương. Nghệ thuật nhân hóa kết hợp với từ láy tượng hình “chùng chình” giúp người đọc cảm nhận sự duyên dáng của làn sương đang gaing8 mắc nhẹ nhàng ở ngõ. Với từ láy “chùng chình”, mùa thu hiện ra như một con người đang bước những bước chân chậm chạp đến giữa đất trời. Bước chân sang thu, sương hình như có chít gì bịn rịn, ngập ngừng, dùng dằn, đi mà như cố ý chậm lại. Như vậy “chùng chình” hay chính là sự lưu luyến của thi sĩ khi chợt nhận ra đã qua rồi mùa hạ? Nhưng tại sao là “hình như”? Thu đã về thật đấy rồi, còn gì phải nghi ngờ nữa? Tưởng chừng như câu thơ có vẻ dư thừa nhưng nếu nghĩ kĩ lại, thì đây là một nét tâm lí chung của mọi người khi mùa thu đến quá đột ngột và bất ngờ. Tác giả cần một sự khẳng định, và “hình như thu đã về” là một câu để tác giả tự hỏi lại chính mình. Và cái giây phút giao mùa được thể hiện khá rõ qua hình ảnh cái ngõ mà sương đang “chùng chình” đi qua. Đó là cái ngõ thực hay cũng chính là cái ngõ thời gian thôn giữa hai mùa. Một hình ảnh đẹp được tác giả cảm nhận bằng chính tình yêu mùa thu, yêu làng quê, gắn bó với quê hương, cho thấy thi nhân là người có cảm nhận rất tinh tế. Âm điệu của đoạn thơ đầu tiên này thật nhẹ nhàng, man mác, rất phù hợp khi miêu tả trời sắp lập thu. Tiếp tục chấm phá vào bức tranh, Hữu Thỉnh đã mở ra một không gian rộng lớn hơn, nhiều tầng bậc hơn Sông được lúc dềnh dàng // Chim bắt đầu vội vã Không còn là những gì vô hình: hương, gió; không còn là không gian nhỏ hẹp của cái “ngõ” xóm mà mùa thu hiện lên với những nét hữu hình của sông nước và của cánh chim. Sông không cuồn cuộn dữ dội như trong những ngày mưa lũ mùa hạ. Sông của mùa thu lặng sóng và lắng buồn, cứ “dềnh dàng” cho người ta cảm tưởng như sông rộng ra. Dòng sông êm ả, lững lờ trôi như đang trầm ngâm suy nghĩ. Tương phản với sông, chim lại bắt đầu vội vã. Gió thu se lạnh, chim cũng không còn thời gian để ríu rít khắp nơi mà đang khẩn trương chuẩn bị cho chuyến bay tránh rét. Hai câu thơ tưởng chừng như đối lập nhau song đó lại chính là những tín hiệu của mùa thu: không phải là ảo giác nữa rồi! Góp phần làm nên sự sống động của cảnh vật trong lúc chuyển mùa là hai từ láy “dềnh dàng” và “vội vã” thật gợi hình và biểu cảm. Thường chúng ta chỉ chú ý đến hai từ láy quan trọng này mà quên mất từ “bắt đầu” ở đây cũng rất độc đáo. Tác giả đã nhận ra từ những cánh chim một sự bắt đầu vội vã chứ không phải là đang vội vã. Phải tinh tế lắm mới nhận ra được sự “bắt đầu” này trong cánh chim. Dù có sự vội vã của cánh chim nhưng không khí mùa thu vẫn là thư thái, lắng đọng và chậm rãi như “dải lụa trắng” trên trời. Có đám mây mùa hạ // Vắt nửa mình sang thu Và cái hồn của bức tranh thu chính là hình ảnh duyên dáng và đặc sắc này. Đám mây như tấm lụa, chiếc khăn của người phụ nữ đang vắt ngang trời xanh mà một nửa còn đang là mùa hạ nồng nàn, và nửa kia đã nghiêng về mùa thu êm dịu. Nghệ thuật nhân hóa “vắt nửa mình” gợi lên nhiều liên tưởng thú vị cho người đọc. Đó không phải là “tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt” của Nguyễn Khuyến, cũng không phải là “khói thu xây thành” của Tản Đà mà là “vắt nửa mình sang thu”. Nếu ở khổ một cần có một cái ngõ thực để hiện lên cái ngõ ảo nối giữa hai mùa thì ở đây chỉ cần một áng mây bâng khuâng mà có thể thấy bầu trời đang nhuộm nửa sắc thu. Nhưng hình ảnh mây là thực, còn ranh giới kia chỉ là hư ảo, tất cả chỉ là sự lưu luyến của con người trước sự thay đổi của cảnh vật. Đến một lúc nào đó, đám mây chợt bừng tỉnh ngỡ ngàng khi thấy mình đang bồng bềnh trong trời thu trọn vẹn. Thật vậy, đám mây như những sợi tơ trời nối hai bến bờ của thời gian gợi tâm trạng bâng khuâng xao xuyến. Đọc những dòng thơ giàu nét tạo hình, đọc giả bỗng nhớ đến cái ước lệ của những câu thơ cổ điển “Thi trung hữu họa – Tả cảnh ngụ tình”. Đứng trước bức tranh thu, tâm hồn nhà thơ đang ngây ngất say sưa, mở rộng tầm mắt ngắm nhìn đất trời quê hương vào thời khắc chuyển mùa. Bức tranh thu càng trọn vẹn hơn khi nhà thơ điểm vào đó màu sắc của triết lí: Vẫn còn bao nhiêu nắng / Đã vơi dần cơn mưa / Sấm cũng bớt bất ngờ / Trên hàng cây đứng tuổi Khổ thơ cuối cùng làm trọn vẹn hơn ý “sang thu” của hồn người chưa thật rõ ở hai khổ thơ trên. Mùa thu được khẳng định bằng đoán nhận, bằng kinh nghiệm, suy ngẫm chứ không phải bằng cảm nhận trực tiếp như ở hai khổ thơ trước. Mùa thu không còn được quan sát từ gần ra xa, từ thấp lên cao mà đang từ từ thu vào trong tâm tưởng, đang lắng lại trong suy tư. Lúc này, mọi thứ dường như đã đi vào đúng thật tự của nó, vẫn là nắng, mưa, sấm, nhưng mức độ đã khác rồi. Những phó từ “vẫn-còn-đã” được đảo lên đứng đầu dòng thơ làm hiện tượng thiên nhiên như đo đếm được sự nhạt vơi. Nắng vẫn trải đầy không gian nhưng không còn chói chang, gay gắt như mùa hạ, mà vàng óng ánh, mang hơi thở ấm áp. Những cơn mưa cuối cùng cũng trả lại cho mùa thu sự dịu dàng êm ả. Sấm không còn vang rền như xé cả bầu trời sau những trận mưa mà lặng dần nên hàng cây không còn run rẩy, ngã nghiêng. Đâu phải ngẫu nhiên mà “hàng cây đứng tuổi” lại được đặt vào chỗ kết thúc của bài thơ, là một chỗ cực kì quan trọng? Phải chăng đó chính là một cái chốt cửa để ta mở sang một thế giới khác, thế giới sang thu của hồn người? “Cây đứng tuổi” hay chính là con người sau những phong ba bão táp của cuộc đời? Ngược trở lên hai khổ thơ trước, ta chợt hiểu vì sao có sự “chùng chình – dềnh dàng – vội vã”. Con người bị cuốn vào vòng xoay của cuộc đời, tất bật lo toan cuộc sống hằng ngày, để rồi đến khi nhìn lại, mình cũng đã sang thu. Nhưng khác với một thời tuổi trẻ bồng bột sôi nổi, con người giờ đây điềm đạm hơn, chín chắn và sâu sắc hơn. Mặt khác, người ta phải khẩn trương hơn, gấp gáp hơn để làm cái gì đó có ích cho đời. Có phải là dụng ý nghệ thuật của tác giả khi đặt dấu chấm duy nhất khép lại bài thơ? Đó chính là cảm xúc xuyên suốt không đứt quãng: ngõ nhỏ sang thu, dòng sông và bầu trời sang thu và cuối cùng là con người sang thu. Trở lại hoàn cảnh ra đời của bài thơ 1977, đất nước vừa trải qua những năm dài chiến tranh chia cắt, mất mát đau thương. Bấy nhiêu năm thử thách “nắng, mưa, sấm” đã góp phần rèn luyện con người Việt Nam thêm vững vàng bản lĩnh, thêm tự tin để bước vào tương lai. Không gì có thể ngăn chặn được bước tiến của dân tộc này. Bằng những cảm nhận tinh tế của mình, với nhiều từ láy gợi hình, hình ảnh đơn sơ mà giàu sức gợi cảm, Hữu Thỉnh đã dệt nên bức tranh giao mùa thật trữ tình và đằm thắm. Thiên nhiên và con người đều cùng một nhịp sang thu. Bức tranh mang hơi thở của quê hương, hơi ấm của cuộc đời. Cảnh vật sang thu để lại trong lòng người đọc những dư âm sâu lắng. Phân tích bài thơ Sang thu – Bài số 2 Khoảnh khắc giao mùa có lẽ là khoảnh khắc đẹp đẽ nhất của tự nhiên, nó gieo vào lòng người những rung động nhẹ nhàng khiến ta như giao hoà, đồng điệu. Bài thơ là những cảm nhận, những rung động man mác, bâng khuâng của tác giả trước vẻ đẹp và sự biến đổi kỳ diệu của thiên nhiên trong buổi giao mùa. Không phải là sắc “mơ phai” hay hình ảnh “con nai vàng ngơ ngác” mà là hương ổi thân quen nơi vườn mẹ đã đánh thức những giác quan tinh tế nhất của nhà thơ: Bỗng nhận ra hương ổi Phả vào trong gió se, Câu thơ có hương vị ấm nồng của chớm thu ở một miền quê nhỏ. Tín hiệu đầu tiên để tác giả nhận ra mùa thu là “hương ổi”. Mùi hương quê nhà mộc mạc “phả” trong gió thoảng bay trong không gian. Cảm giác bất chợt đến với nhà thơ: “bỗng nhận ra” – một sự bất ngờ mà như đã chờ đợi sẵn từ lâu lắm. Câu thơ không chỉ tả mà còn gợi liên tưởng đến màu vàng ươm, hương thơm lựng, vị giòn, ngọt, chua chua nơi đầu lưỡi của trái ổi vườn quê. Và không chỉ có thế, cả sương thu như cũng chứa đầy tâm trạng, thong thả, chùng chình giăng mắc trên khắp nẻo đường thôn: Sương chùng chình qua ngõ Hình như thu đã về. Sương thu đã được nhân hoá, hai chữ “chùng chình” diễn tả rất thơ bước đi chầm chậm của mùa thu. Nếu ở câu thơ đầu tiên nhà thơ “bỗng nhận ra” thu về khá bất ngờ và đột ngột thì sau khi cảm nhận sương thu ,gió thu, thi sỹ vẫn ngỡ ngàng thốt lên lời thầm thì như tự hỏi: Hình như thu đã về!? Tâm hồn thi sỹ nắm bắt những biến chuyển nhẹ nhàng, mong manh của tạo vật trong phút giao mùa cũng êm đềm, bâng khuâng như bước đi nhỏ nhẹ của mùa thu. Không gian nghệ thuật của bức tranh thu được mở rộng hơn, cái bỡ ngỡ ban đầu vụt tan biến đi nhường chỗ cho những rung cảm mãnh liệt trước không gian thu vời vợi: Sông được lúc dềnh dàng Chim bắt đầu vội vã Sông nước đầy nên mới “dềnh dàng” nhẹ trôi như cố tình chậm lại, những đàn chim vội vã bay về phương nam …Không gian thu thư thái, hữu tình và chứa chan thi vị, đặc biệt là hình ảnh: Có đám mây mùa hạ Vắt nửa mình sang thu. Câu thơ giúp ta hình dung về đám mây mỏng nhẹ, trắng xốp, kéo dài như tấm khăn voan duyên dáng của người thiếu nữ thảnh thơi, nhẹ nhàng “vắt nửa mình sang thu”. Câu thơ có tính tạo hình không gian những lại có ý nghĩa diễn tả sự vận động của thời gian: thu bắt đầu sang, hạ chưa qua hết, mùa thu vừa chớm, rất nhẹ, rất dịu, rất êm, mơ hồ như cả đất trời đang rùng mình thay áo mới… Khổ thơ thứ ba diễn tả rất rõ sự biến chuyển của không gian và cũng là một thoáng suy tư của nhà thơ trước cảnh vật, đất trời: Vẫn còn bao nhiêu nắng Đã vơi dần cơn mưa Sấm cũng bớt bất ngờ Trên hàng cây đứng tuổi. Vẫn là nắng, mưa, sấm, chớp của mùa hạ vương lại đâu đây, song chỉ là “vẫn còn”, “đã vơi dần”, “ cũng bớt bất ngờ” bởi mùa thu đã đến. Ý thơ còn gợi liên tưởng đến con người khi đã lớn tuổi và từng trải thì những giông gió, thăng trầm của cuộc đời ít làm con người ta bất ngờ, bị động. Những suy tư đó của tác giả có lẽ đã góp phần làm cho “Sang thu” trở nên giàu ý nghĩa. Hình ảnh thơ đẹp, ngôn từ tinh tế, giọng thơ êm đềm và những rung động man mác, bâng khuâng của tác giả trong buổi giao mùa đã tạo nên một dấu ấn không dễ phai mờ trong lòng bao độc giả. Có lẽ vì vậy mà sau khi đọc “Sang thu” của Hữu Thỉnh ta càng thấy yêu hơn mùa thu thiết tha, nồng hậu của quê nhà. Phân tích bài thơ Sang thu – Bài số 3 Cũng như mùa xuân, mùa thu luôn là đề tài gợi nhiều cảm xúc cho các thi nhân. Mỗi người lại có cách nhìn cách miêu tả rất riêng, mang đậm dấu ấn cá nhân của mình. Có nhà thơ, mùa thu là dáng liễu buồn, là màu áo mờ phai, là tiếng đạp lá vàng cuả con nai ngơ ngác. Hữu Thỉnh cũng góp vào tuyển tập thơ mủa thu của dân tộc 1 cái nhìn mới mẻ. Ông là nhà thơ viết nhiều, viết hay về những con người, cuộc sống ở nông thôn, về mùa thu. Những vần thơ thu của ông mang cảm xúc bâng khuâng vương vấn trước đất trời trong trẻo đang chuyển biến nhẹ nhàng. Điều này thể hiện rõ qua bài “Sang thu” được ông sáng tác cuối năm 1977. Bài thơ diễn tả tâm trạng ngỡ ngàng trước cảnh đất trời đang chuyển biến giao mùa từ hạ sang thu. Không như những nhà thơ khác, cảm nhận mùa thu wa sắc vàng của hoa cúc, của lá ngô đồng hay qua tiếng lá vàng rơi xào xạc. Hữu Thỉnh đón nhận mùa thu với 1 hương vị khác: hương ổi. ”Bỗng nhận ra hương ổi Phả vào trong gió se” “Bỗng nhận ra” là 1 trạng thái chưa đc chuẩn bị trước, như là vô tình, sửng sốt để cảm nhận, giữa những âm thanh, hương vị và màu sắc đặc trưng của đất trời lúc sang thu. Nhà thơ nhận ra tín hiệu của sự chuyển mùa từ ngọn gió nhè nhẹ, lành lạnh se khô mang theo hương ổi. “Phả” là 1 động từ mang ý tác động được dùng như 1 cách khẳng định sự xuất hiện của hơi thu trong ko gian: “hương ổi”, một mùi hương ko dễ nhận ra, bởi hương ổi không phải là một mùi hương thơm ngào ngạt, nồng nàn mà chỉ là 1 mùi hương thoảng đưa êm dịu trong gió đầu thu, nhưng cũng đủ để đánh thức những cảm xúc trong lòng người. Không chỉ cảm nhận mùa thu bằng khứu giác, xúc giác mà nhà thơ còn cảm nhận màn sương thu trong phút giao mùa. Màn sương hình như cũng muốn tận hưởng trọn vẹn khoảnh khắc vào thu nên chùng chình chưa muốn dời chân. “Sương chùng chình wa ngõ Hình như thu đã về” Từ láy tượng hình “chùng chình” gợi cảm giác về sự lưu luyến ngập ngừng, làm ta như thấy 1 sự dùng dằng, gợi cảnh thu sống động trong tĩnh lặng, thong thả, yên bình. “Chùng chình” là sự quãng ngắt nhịp nhàng, chuyển động chầm chậm hay cũng chinh là sự rung động trong tâm hồn nhà thơ? Một chút ngỡ ngàng, một chút bâng khuâng, nhà thơ phát hiện ra vẻ đẹp rất riêng của ko gian mùa thu. “Hình như” là 1 từ tình thái diễn tả tâm trạng của tác giả khi phát hiện sự hiện hữu của mùa thu. Sự góp mặt của màn sương buổi sáng cùng với hương ổi đã khiến cho nhà thơ giật mình thản thốt. Ko phải là những hình ảnh đã trở nên ước lệ nữa mà là 1 chi tiết thật mới mẻ, bất ngờ. Có lẽ với Hữu Thỉnh, làn hương ổi rất quen với người VN, mà rất lạ với thơ được tác giả đưa vào 1 cách hết sức tự nhiên. Rồi mùa thu được quan sát ở những ko gian rộng hơn, nhiều tầng bậc hơn. “Sông được lúc dềnh dàng …..sang thu” Nếu ở khổ 1, mùa thu mới chỉ là sự đoán định với ít nhiều bỡ ngỡ, thì ở khổ thơ này, tác giả đã có thể khẳng định: thu đến thật rồi. Thu có mặt ở khắp nơi, rất hiện hình, cụ thể Dòng sông ko còn cuôn cuộn dữ dội như những ngày mưa lũ mùa hạ mà trôi một cách dềnh dàng, thanh thản. Mọi chuyển động dường như có phần chậm lại, chỉ riêng loài chim là bắt đầu vội vã. Trời thu lạnh làm cho chúng phải chuẩn bị những chuyến bay chống rét khi đông về. Phải tinh tế lắm mới có thể nhận ra sự bắt đầu vội vã trong những cánh chim bay bởi mùa thu chỉ vửa mới chớm, rất nhẹ nhàng, rất dịu dàng. Điểm nhìn của nhà thơ đuợc nâng dần lên từ dòng sông, rồi tới bầu trời cao rộng. “Có đám mây mùa hạ Vắt nửa mình sang thu” Cảm giác giao mùa được Hữu Thỉnh diễn tả thật thú vị. Đây là 1 phát hiện rất mới và độc đáo của ông. Mùa thu mới bắt đầu vì thế mây mùa hạ mới thảnh thơi, duyên dáng “vắt nửa mình sang thu”. Đám mây như 1 dải lụa mềm trên bầu trời đang còn là mùa hạ, nửa đang nghiêng về mùa thu. Bức tranh chuyển mùa vì thế càng trở nên sinh động và giàu sức biểu cảm. Ở khổ cuối, khoảnh khắc giao mùa ko còn được nhà thơ diễn tả bằng cảm nhận trực tiếp mà bằng sự suy ngẫm, chiêm nghiệm. ” Vẫn còn ….. …..đứng tuổi” Nắng cuối hạ vẫn còn nồng, còn sáng nhưng đang nhạt dần. Những ngày giao mùa này đã vơi đi những cơn mưa rào ào ạt. Vẫn là nắng, vẫn là mưa, sấm như mùa hạ nhưng mức độ đã khác rồi. Lúc này, những tiếng sấm bất ngờ cùng những cơn mưa rào ko còn nhìu nữa. Hai câu thơ cuối gợi cho ta nhìu suy nghĩ, liên tưởng thú vị. “Sấm …. …..đứng tuổi” Giọng thơ trầm hẳn xuống, câu thơ không đơn thuần chỉ là gượng kể, là sự cảm nhận mà còn là sự suy ngẫm, chiêm nghiệm. Cụm từ “hàng cây đứng tuổi” gợi cho người đọc nhiều liên tưởng. Đời người như 1 loài cây, cũng non tơ, trưởng thành rồi già cỗi. Phải chăng, cái đứng tuổi của cây chính là cái đứng tuổi của đời người. Hình ảnh vừa có ý nghĩa tả thực, vừa có ý nghĩa biểu tượng. Vẻ chính chắn, điềm tĩnh của hàng cây trc sấm sét, bão giông vào lúc sang thu cũng chính là sự từng trải, chính chắn của con người khi đã đứng tuổi. Phải chăng mùa thu của đời người là sự khép lại những ngày tháng sôi nổi bồng bột của tuổi trẻ, để mở ra 1 mùa mới, 1 ko gian mới thâm trầm, điềm đạm, vững vàng hơn. Ở tuổi “sang thu”, con người ko còn bất ngờ trc những tác động bất thường của ngoại cảnh, của cuộc đời. Xưa nay, màu thu thường gắn liền với hình ảnh lá vàng rơi ngoài ngõ, lá khô kêu xào xạc… Và ta ngỡ như chỉ những sự vật ấy nới chính là đặc điểm của mùa thu. Nhưng đến với “Sang thu” của HT, người đọc chợt nhận ra 1 làn hương ổi, một màn sương, 1 dòng sông, 1 đám mây, 1 tia nắng. Những sự vật gần gũi thế cũng làm nên những đường nét riêng của mùa thu VN và chính điều này đã làm nên sức hấp dẫn của “Sang thu”. Bài thơ kết câu theo 1 trình tự tự nhiên. Đó cũng là diễn biến mạch cảm xúc của tác giả vào lúc sang thu. Bài thơ gợi cho ta hình dung 1 bức tranh thiên nhiên tươi đẹp vào thời điểm giao mùa hạ – thu ở vùng nông thôn Bắc Bộ. Câu thơ của HT như có 1 chút gì đó thăng trầm, kín đáo, rất hợp với cách nghĩ, cách nói của nguời thôn quê. Bài thơ giúp ta cảm nhận được tình cảm thiết tha, tâm hồn tinh tế của nhà thơ giàu lòng yêu thiên nhiên của nhà thơ. Bài thơ ngắn với thể thơ 5 chữ mộc mạc, ngôn ngữ giản dị mà ý nghĩa sâu sắc, hình ảnh đơn sơ mà gợi cảm. HT đã phát họa 1 bức tranh thiên nhiên tuyệt đẹp bằng nhìu cảm xúc tinh nhạy. Đọc thơ HT ta càng cảm thấy yêu quê hương đất nước hơn, càng cảm thấy mình cần phải ra sức góp phần xây dựng quê hương ngày càng giàu đẹp. Phân tích bài thơ Sang thu – Bài số 4 Đúng vậy, mùa thu – mùa đẹp nhất trong năm – đã trở thành nguồn cảm hứng bất tận trong thơ ca. Nếu như văn học trung đại có Nguyễn Khuyến với ba bài thơ thu nổi tiếng, văn học cận đại có Xuân Diệu với “Đây mùa thu tới”, Lưu Trọng Lư với “Tiếng thu” thì văn học hiện đại cũng có Hữu Thỉnh với bài “Sang thu”. Bằng cảm nhận tinh tế và những hình ảnh giàu sức biểu cảm, bài thơ đã thể hiện những biến chuyển của đất trời và tâm hồn con người từ cuối hạ sang đầu thu. Nhà thơ Hữu Thỉnh tên đầy đủ là Nguyễn Hữu Thỉnh, sinh năm 1942 ở một làng quê tỉnh Vĩnh Phúc. Năm 1963, ông nhập ngũ, vào binh chủng Tăng – Thiết giáp rồi trở thành cán bộ văn hóa, tuyên huấn trong quân đội và bắt đầu sáng tác thơ. Bài thơ “Sang thu” được ông sáng tác năm 1977, sau khi chiến tranh đã kết thúc, thể hiện những cảm nhận tinh tế của tác giả trước mùa thu trong hòa bình. Thể thơ năm chữ đã giúp miêu tả tinh tế và sâu sắc những biến chuyển của đất trời vào buổi giao mùa từ hạ sang thu. “Bỗng nhận ra hương ổi Phả vào trong gió se” Khổ thơ, và cả bài thơ, được mở ra bằng một chữ “bỗng”, gợi nên cảm giác bất ngờ, đột ngột, đầy ngỡ ngàng của tác giả khi nhận thấy những dấu hiệu báo mùa thu tới. Thơ ca tự cổ chí kim đã viết rất nhiều về những dấu hiệu ấy, từ sắc vàng hoa cúc cho tới lá khô rải thảm, ngô đồng nhất diệp lạc… Hữu Thỉnh không đi theo lối mòn ấy, mùa thu trong ông bắt đầu với “hương ổi” – mùi hương vô cùng giản dị và gần gũi của vùng nông thôn miền Bắc quê ông. Nếu như cậu bé Trần Đăng Khoa ngày nào đã nhận ra mùa thu tới chỉ bởi hình ảnh “Sáng ra vại nước rụng đầy hoa cau” thì bây giờ Hữu Thỉnh nhờ đến hương ổi để nhận ra điều đó. Phải là một người yêu quê hương tha thiết mới có thể viết được như thế! Từ “phả” ở đây được dùng rất chính xác, động từ ấy đã gợi lên hương ổi thơm đậm đà, hòa quyện và sánh lại trong gió. Những cơn gió se hơi khô, hơi lạnh đặc trưng của mùa thu ấy lại càng tinh lọc, cô đặc thêm mùi hương. Chúng đem hương ổi, hương thu tới từng ngõ ngách, đánh thức tâm hồn thi sĩ. Từ “se” là đang tả gió, hay là tả cái co mình hơi run của vạn vật khi gió lướt qua? Từ gió, tác giả nhận ra sương. "Sương chùng chình qua ngõ Hình như thu đã về" Sương giăng mắc khắp không gian như một tấm màn hơi nước mỏng. Từ láy “chùng chình” như vừa tả sự khoan thai, chậm rãi của màn sương, lại vừa như tả những bước chân nhẹ nhàng của nàng Thu đang rón rén bước vào không gian. Hay sự “chùng chình” ấy cũng chính là cảm giác bâng khuâng, lưu luyến ủa nhà thơ khi thu tới. Ngay cả cái ngõ mà sương đang ngập ngừng đi qua ấy cũng là một ẩn dụ rất thơ, rất tinh tế. Nó vừa là cái ngõ quê trong thực tại, lại vừa là cửa ngõ thời gian thông giữa hai mùa. Ở đó có hương trong gió, có gió trong sương, những dấu hiệu đặc trưng của mùa thu đều hiện diện. Thế nhưng, dù đã cảm nhận được mùa thu qua ba giác quan khứu giác (“hương ổi"), xúc giác (“gió se"), cả thị giác (“sương chùng chình), tác giả vẫn chưa hết sững sờ, vẫn chưa dám tin là thu đã về nên thầm hỏi lại mình trong câu thơ cuối. Sự bâng khuâng, mơ hồ ấy được lột tả qua hai chữ “hình như”, càng tạo thêm vẻ khói sương lãng đãng lúc thu sang. Bằng những cảm nhận tinh tế và sự điêu luyện trong ngôn từ, Hữu Thỉnh đã gợi lên cảm xúc lưu luyến, bâng khuâng trong lòng người khi nhận ra thu về. Sau cảm giác ngỡ ngàng ấy, nhà thơ mới bắt đầu xem xem “thu đã về” có là thật hay không. “Sông được lúc dềnh dàng Chim bắt đầu vội vã” Không gian của ý thơ được mở rộng. Bức tranh thu không còn chỉ gói gọn trong không gian nhỏ hẹp của “ngõ” với những nét vô hình như “hương”, “gió” mà trở nên rộng hơn, cao hơn với những thứ hữu hình, cụ thể như “sông”, “chim”, “mây”. Vế đối ở hai câu đầu rất chặt chẽ, rất thực nhưng vẫn rất đẹp, rất thơ. Dòng sông không còn chảy cuồn cuộn, dữ dội, gấp gáp như những ngày mưa lũ mùa hạ. Từ láy “dềnh dàng” đã tả được hết êm ả, lững lờ như thể sông đang lắng lại, đang trầm tư, suy ngẫm. Nhịp chảy chậm rãi, thư thả ấy kết hợp với từ “được lúc” đệm vào như gợi lên sự tranh thủ nghỉ ngơi của sông vào mùa thu. Phải chăng dòng sông ấy cũng chính là dòng sông “Dùng dằng hoa quan họ / Nở tím bên sông Thương” trong bài “Chiều sông Thương” cùng tác giả? Tương phản với sông là sự vội vã của chim. Khi khí trời chuyển lạnh cũng là lúc các loài chim chuẩn bị cho chuyến di cư về phương Nam tránh rét trong mùa đông. Chúng “vội vã” vì mùa thu tới báo hiệu một mùa đông lạnh giá cũng sắp đến gần. Và mới chỉ “bắt đầu vội vã” thôi, chứ chưa phải là đang vội vã, tức là mới chỉ là “sang thu” thôi chưa hẳn là đã thu. "Có đám mây mùa hạ Vắt nửa mình sang thu" Vì chưa hẳn vào thu nên mới có một “đám mây mùa hạ” duyên dáng “vắt nửa mình sang thu”. Đám mây ấy cũng có nét gì đó giống “Đám mây trên Việt Yên / Rủ bóng về Bố Hạ” trong “Chiều sông Thương” nhưng ở “Sang thu” vẫn đẹp hơn, thơ hơn vì nó là đám mây chuyển mùa. Bầu trời lúc ấy như một bức tranh tuyệt đẹp về màu sắc, trải từ sắc hạ sang sắc thu. Nếu như ở khổ đầu tiên, cần có một cái ngõ thực để gợi lên ngõ thời gian thông giữa hai mùa thì ở khổ thứ hai, chỉ cần một áng mây lơ lửng cũng gợi ra được ranh giới rất nhẹ giữa hai mùa. Có cảm giác như đám mây là chiếc khăn voan đang được mùa hạ trao cho mùa thu, nó vẫn là của mùa hạ đấy, nhưng đã nhuốm sắc thu rồi. Phải rất nhạy cảm và tinh tế mới thấy được, mới sáng tạo được một hình ảnh thơ đẹp như thế ! Hữu Thỉnh đã tạo nên được những hình ảnh rất đẹp và giàu sức gợi cảm bằng cảm nhận tinh tế và sự sáng tạo của mình. Nếu như cái hay của khổ đầu tiên là ở những từ ngữ gợi nên nhiều ẩn ý, cái đẹp của khổ thứ hai là ở những hình ảnh thơ đẹp và tinh tế thì khổ ba nổi bật lên nhờ ý nghĩa triết lí trong đó. Mùa thu không còn được cảm nhận trực tiếp nữa mà qua kinh nghiệm, bằng sự suy ngẫm của nhà thơ. “Vẫn còn bao nhiêu nắng Đã vơi dần cơn mưa Sấm cũng bớt bất ngờ Trên hàng cây đứng tuổi.” Vẫn có “nắng”, có “mưa”, có “sấm” như mùa hạ, nhưng tất cả đều đã đi vào chừng mực, ổn định, tạo cảm giác lắng đọng. Nắng tuy “vẫn còn” nhưng không còn gay gắt, oi ả và chói chang nữa mà đã dịu đi. Những cơn mưa rào xối xả cũng vơi đi, nhẹ bớt dần. Dường như khí thu khiến cho vạn vật đều muốn nghỉ ngơi. Ngay cả sấm chớp, bão dông cũng không còn đột ngột, bất chợt nữa. Nhưng Hữu Thỉnh đâu chỉ viết một bài thơ tả cảnh “sang thu” bình thường, trong đó là một điều sâu xa hơn thế. Nghệ thuật ẩn dụ trong hai câu thơ cuối đã gợi ra tính chất triết lí của bài thơ. “Sấm” không chỉ là dông bão, mà còn là những khó khăn, thách thức của cuộc đời. Còn “hàng cây đứng tuổi” kia cũng chính là sự từng trải, chín chắn của con người sau khi trải qua những giao lao ấy. Bão táp, dông tố của cuộc sống sẽ cho ta thêm kinh nghiệm, tôi luyện ý chí, giữ cho ta sự điềm tĩnh để kiên cường đối mặt với những khó khăn sắp tới. Qua đó, con người sẽ trưởng thành hơn, sâu sắc và thâm trầm hơn, vững vàng hơn trước những tác động của ngoại cảnh. Điều đó đã giải thích vì sao khi nhận thấy mùa thu, nhà thơ không reo lên “Thu đã về!” mà chỉ cảm nhận rồi mơ hồ tự hỏi “Hình như thu đã về”. “Đứng tuổi” cũng là lúc đã qua thời thanh niên sôi nổi bồng bột để chợt nhận ra rằng sao thời gian trôi qua thật nhanh, bỗng chốc mà đã nửa đời người, thấy đời mình cũng đã “sang thu”. Đó cũng là tâm trạng của tác giả – một người lính đã trải qua bao đạn bom, khói lửa chiến trường trước khi được cảm nhận mùa thu thanh bình, được chứng kiến hòa bình độc lập hôm nay. Nhìn lại quãng đời đã qua, ta vừa như muốn sống chậm lại để nghỉ ngơi, tận hưởng cuộc sống, vừa cảm thấy mình chưa làm được gì nhiều nên muốn khẩn trương, gấp gáp hơn. Như vậy sự “dềnh dàng” của sông và “vội vã” của chim trong khổ thứ hai cũng là để chỉ sự thay đổi của con người lúc thu sang nữa. Thu không chỉ tới trong thiên nhiên đất trời mà cả trong suy nghĩ, trong tâm tưởng mỗi người. Khổ thơ thứ ba đã hoàn chỉnh ý thơ của cả bài và gợi ra nhiều suy ngẫm về triết lí mà tác giả muốn gửi gắm tới độc giả. Mác-xen Prút-xơ đã từng nói: “Thế giới được tạo lập không phải một lần, mà mỗi lần người nghệ sĩ độc đáo xuất hiện thì lại một lần thế giới được tạo lập.” Cũng chỉ là mùa thu thôi mà mỗi nhà thơ có một cách thể hiện thật khác biệt. Hữu Thỉnh cũng vậy, ông không chỉ cảm nhận được mùa thu đến trong từng hơi thở của đất trời mà còn truyền tải những cảm xúc bâng khuâng, xao xuyến khó tả của mình đến với người đọc bằng những hình ảnh rất giàu sức gợi. Để rồi khi đọc xong bài thơ, ta chợt thấy như thu đã về trong tâm hồn mình. Có ai từng nói: “Thơ là người thư ký chân thành của trái tim”. Quả vậy, bài thơ “Sang thu” đã thể hiện những chuyển biến của thiên nhiên đất trời lẫn trong tâm hồn con người từ cuối hạ sang đầu thu. Hữu Thỉnh không chỉ mang tới những cảm nhận tinh tế, sáng tạo, những hình ảnh đẹp và giàu sức gợi cảm mà còn làm dậy lên trong ta tình yêu đối với thiên nhiên, với làng quê thôn xóm và rộng hơn nữa là cảnh thanh bình trên đất nước. Nhà thơ còn muốn gửi gắm một thông điệp về cuộc sống. Sau những thử thách, gian lao của cuộc đời, con người sẽ trưởng thành hơn, điềm tĩnh hơn trước những tác động của cuộc sống. Phân tích bài thơ Sang thu – Bài số 5 Mùa thu luôn là đề tài khiến thi nhân phải động lòng thương yêu bởi đó là mùa của những gì nhẹ nhàng và dịu êm nhất, mùa của sự tĩnh lặng và những rung động sâu sắc nhất. Mùa thu đi vào thơ Nguyễn Khuyến bình dị, gần gũi; đi vào thơ Nguyễn Đình Thi là tiếng vọng từ đất nước ngàn dời. Còn mùa thu của Hữu Thỉnh qua bài thơ “Sang thu” thật đẹp, thật nên thơ và trữ tình, và tấm lòng của nhà thơ cũng thật duyên. Bài thơ đã phác họa thành công sự chuyển mùa kỳ diệu của đất trời và của lòng người. Sang thu của Hữu Thỉnh là một bài thơ tái hiện lại một cách nhẹ nhàng sự chuyển mùa tinh tế, trời đất lúc sang thu có chút gì đó bối rối, có chút gì đó ngập ngừng và hơn hết là sự ngỡ ngàng, bồi hồi của nhà thơ khi nhận ra sự thay đổi của trời đất. Mùa thu về, mùa thu mang lại cho con người ta những giai điệu dịu êm nhất. Dấu hiệu của mùa thu thực sự rất bình dị và gần gũi, không phải là hương cốm mùa thu, không phải mặt hồ tĩnh lặng, cũng không phải những mùa lá rụng. Mùa thu trong thơ ông chính là “hương ổi”, là thứ hương đặc trưng của vùng quê Việt Nam mỗi khi thu về. Bỗng nhận ra hương ổi Phả vào trong gió se Phải thật tinh tế, thật khéo léo tác giả mới có thể nhận ra được thứ hương rất đỗi nhẹ nhàng và có thể bị gió cuốn đi lúc nào. Cụm từ “bỗng nhận ra” giống như một phát hiện mới, một sự ngạc nhiên rất thú vị như khi khám phá ra điều gì đó đẹp đẽ. Đây là cụm từ diễn ra trạng thái ngỡ ngàng của tác giả khi nhận ra mùa thu đã chạm ngõ chỉ với “hương ổi”, mùi hương đồng nội thân quen khiến những người con xa quê khó quên được. Mùi hương ổi ấy đã “phả” vào trong “gió se” đầu mùa thu dịu nhẹ, se sắt. Động từ “phả” đã làm toát lên thần thái của mùa thu, của hương ổi. Nó diễn tả sự quyện chặt vào, sự gắn kết giữa hương ổi và làn gió đầu mùa. Chỉ qua hai câu thơ đầu, Hữu Thỉnh đã mang đến cho người đọc một cảm nhận mới về mùa thu, về sự chuyển mùa tinh tế nhất, về nhưng điều bình dị ở xung quanh chúng ta. Sương chùng chỉnh qua ngõ Hình như thu đã về Hai câu thơ rất duyên, rất tinh tế nhưng rất sâu sắc, gợi lên sự mơ hồ của giây phút chuyển mùa. HÌnh ảnh “sương chùng chình qua ngõ” khiến người đọc tương tưởng ra khung cảnh sương đang ngập ngừng giăng mắc ở đầu ngõ. Từ láy “chùng chình” dùng rất đắt, đã làm toát lên thần thái của mùa thu, không vội vàng, hồ hởi mà luôn tạo nên sự mơ hồ và mông lung nhất. Tác giả phải thốt lên “hình như”, là chưa chắc chắn, không chắn chắn nhưng thực ra là tác giả tự khẳng định rằng mùa thu về thật rồi. Có lẽ mùa thu đã sang, là mùa thu của đất trời và mùa thu của lòng người mênh mang, nhiều tâm trạng. Đến khổ thơ thứ hai thì dường như mùa thu đã hiện rõ ra từng đường nét hình khối trong cảm nhận của tác giả: Sông được lúc dềnh dàng Chim bắt đầu vội vã Có đám mây mùa hạ Vắt nửa mình sang thu Nước mùa thu dâng lên theo mùa “dềnh dàng”, những cánh chim trời bắt đầu “vội vã” bay. Thiên nhiên khi mùa thu về có chút gì đó vội vàng, gấp gáp hơn và trĩu nặng hơn nhưng vẫn giữ được thần thái đặc trưng nhất. Đường nét của mùa thu hiện lên rất rõ nét, không còn mơ hồ như ở khổ thơ thứ nhất nữa. Đây cũng là quá trình và là sự chuyển biến trong thiên nhiên và trong nhận thức của tác giả. Sự quan sát tinh tế, tỉ mỉ của tác giả còn thể hiện ở cách nhìn “đám mây mùa hạ” như “vắt” sang thu. Thật tài hoa, thật khéo léo và dường như ông động lòng với mùa thu, khí thu, vị thu rất nhiều nên mới tưởng tưởng ra viễn cảnh đám mây cao trên trời như đang chuyển mình cùng nhịp đập của mùa thu. Từ “vắt” dùng rất hay, rất độc đáo đã diễn tả được quá trình chuyển mình của mùa thu rất uyển chuyển, nhịp nhàng. Mùa thu có chút gì đó độc đáo, tinh nghịch và cũng không kém phần duyên dáng qua cảm nhận của Hữu Thỉnh. Mùa thu đã đến thật rồi, mùa thu mang theo những gì tinh khôi, nhẹ nhàng và dịu êm nhất. Bức tranh chuyển mùa qua lời thơ Hữu Thỉnh thực sự mềm mại, nhẹ nhàng và uyển chuyển biết bao. Đó chính là cái Tài của tác giả, tài dùng chữ vẽ tranh. Điều bất ngờ nằm ở khổ thơ cuối, mùa thu đã thực sự đến rồi và đất trời đã có nhưng chuyển biến khiến con người có thể nhận ra, nhưng tác giả đã chiêm nghiệm mùa thu bằng cách nhìn nhận của một đời người: Vẫn còn bao nhiêu nắng Đã vơi dần cơn mưa Sấm cũng bớt bất ngờ Trên hàng cây đứng tuổi Mùa thu có nắng, là thứ nắng dịu nhẹ và tinh khôi, thứ nắng có chút se se lạnh của gió đầu mùa. Thiên nhiên mùa thu cũng trở nên tĩnh lặng và trầm ngâm hơn. Tiếng sấm không còn khiến con người giật mình nữa mà nó trở nên lặng lẽ hơn trên hàng cây đứng tuổi. Tác giả đã đúc kết chiêm nghiệm và sự từng trải của một đời người qua sự liên tưởng đến “hàng cây đứng tuổi”. Tiếng sấm và hàng cây ở hai câu thơ cuối dường như là hiện thân của những con người từng trải, đã qua giai đoạn tuổi trẻ bồng bột, nhiều hối hả. Ở giai đoạn con người ta “đứng tuổi” mọi thứ cần chắc chắn và đứng đắn, tĩnh lặng hơn. Tác giả đã mượn hình ảnh “hàng cây đứng tuổi” để nói lên đời người ở tuổi xé chiều, cũng như mùa thu vậy; có chăng mùa thu là mùa của tuổi con người ta không còn trẻ trung nữa. Nhịp đập của mùa thu, sự chuyển động của mùa thu rất nhẹ nhàng và êm đềm. Có lẽ khi con người ta trải qua tuổi bồng bột, đến một lúc nào đó cần bình thản nhìn lại và nhẹ nhàng cảm nhận chúng. Khổ thơ cuối với giọng điệu trầm lắng khiến người đọc nhận ra rất nhiều điều trong cuộc sống này đáng suy ngẫm. Sang thu của Hữu Thỉnh độc đáo và thú vị, cách cảm nhận tinh tế nhẹ nhàng cùng những chiêm nghiệm đáng suy ngẫm đã khiến cho người đọc có cái nhìn khái quát và mới mẻ hơn về mùa thu. Gấp trang sách lại, mùa thu của Hữu Thỉnh vẫn còn quẩn quanh đâu đây trong trí óc của mỗi chúng ta. Nguyễn Tuyến tổng hợp Phân tích bài thơ Sang thu – Văn mẫu lớp 9Đánh giá bài viết Có thể bạn quan tâm?Thuyết minh về một vùng đất giàu tiềm năng – Văn mẫu lớp 9Thuyết minh về một vùng quê đẹp – Văn mẫu lớp 9Thuyết minh về Rừng Sác – Cần Giờ – Văn mẫu lớp 9Thuyết minh về một cảnh đẹp quê hương em – Văn mẫu lớp 9Thuyết minh về lễ hội làng – Văn mẫu lớp 9Thuyết minh về danh lam thắng cảnh Đà Lạt – Văn mẫu lớp 9Thuyết minh về một làng cổ hay phố cổ – Văn mẫu lớp 9Thuyết minh về một giống vật nuôi – Văn mẫu lớp 9
Phân tích bài thơ Sang thu – Bài số 1
Thiên nhiên vốn rất được ngưỡng mộ trong thơ ca Việt Nam. Khi đi vào thơ hiện đại, nó dường như có thêm sức sống và đẹp hơn. Một năm có bốn mùa và mùa nào cũng đẹp, nhưng có lẽ mùa mà được các thi nhân ưu ái nhất đó lại là mùa thu.
Đã có rất nhiều những vần thơ hay nói về mùa thu, mỗi nhà thơ đều lưu lại dấu ấn độc đáo của mình trong từng dòng thơ ấy. Đến lượt Hữu Thỉnh, ông lại thổi vào bài thơ một cái nhìn độc đáo và mới mẻ hơn bằng sự trải nghiệm của chính mình. “Sang thu” được ông sáng tác năm 1977 là một trong những minh chứng.
Với thể thơ năm chữ và số lượng khổ thơ ít ỏi, nhưng Hữu Thỉnh đã khắc họa tuyệt vời bức tranh thiên nhiên trong thời khắc giao mùa một cách cô đọng và súc tích. Giọng thơ nhẹ nhàng, nhịp thơ chậm làm bài thơ dễ đi vào lòng người, từ đó cho chúng ta những suy ngẫm về cuộc đời, về con người. Chiến tranh kết thúc đã hai năm, hòa bình được lặp lại trên đất nước. Từ vùng quê ở ngoại ô, tác giả cảm nhận được có cái gì chìm lắng, xao động tận sâu trong cõi lòng. Thời khắc giao mùa từ hạ sang thu đã làm rung động tâm hồn người thi sĩ và những vần thơ bắt đầu dâng trào mạnh mẽ.
Những dấu hiệu đầu tiên của buổi giao mùa thật nhẹ nhàng mà rõ rệt, khiến tâm hồn nhà thơ phải lay động, phải giật mình:
Bỗng nhận ra hương ổi // Phả vào trong gió se
Ở đây, tác giả nhận ra mùa thu không phải nhờ những nét đặc trưng của trời mây như thơ cổ điển mà trước hết là “hương ổi”. Và từ “bỗng” cho chúng ta thấy được rằng mùa thu đến với tác giả khá đột ngột và bất ngờ, không hẹn trước. Mùa thu đến không báo trước khiến nhà thơ cảm thấy có một chút bối rối, ngỡ ngàng. Và tác giả có vẻ sững sờ khi bắt gặp mùi hương ổi ngập tràn trong gió. Trong đoạn thơ, động từ “phả” mang tính gợi tả rất lớn. Hương ổi quyện trong gió, “phả vào” khướu giác của nhà thơ theo từng luồng gió. Một chữ “phả” kia đủ để gợi hương thơm như sánh lại, không thoang thoảng cũng không lan ra. Nó sánh bởi vì hương thơm đậm một phần, sánh còn bởi tại hơi gió se. Hương ổi luồng vào trong gió được tinh lọc, được cô đặc thêm. Nhờ gió thu hào phóng, đã mang mùi hương ổi “phả” vào từng ngóc ngách của làng quê, để rồi thi nhân bắt gặp hương thu và “bỗng” sững sờ. Từ trước đến nay, các nhà thơ lay động trước mùa thu là do lá vàng rơi, ao thu lạnh lẽo,… chưa ai đưa vào thơ mùi hương ổi chín. Nhưng Hữu Thỉnh đã làm như thế, đã đưa mùi hương của quê nhà vào trong thơ và để nó là tín hiệu để nhận ra mùa thu đang đến. Có phải do tình yêu quê hương sâu sắc, gắn bó với làng quê mà ý thơ của ông thật giản dị, dân dã, và có cả hương ổi quê nhà?
Đã cảm nhận được “hương ổi”, đã nhận ra “gió se”, hơn thế nữa, thị giác cũng mách bảo với nhà thơ rằng thiên nhiên đang chuyển mình.
Sương chùng chình qua ngõ // Hình như thu đã về
Đồng hành với “hương ổi” ở hai câu trên đó chính là sương. Nghệ thuật nhân hóa kết hợp với từ láy tượng hình “chùng chình” giúp người đọc cảm nhận sự duyên dáng của làn sương đang gaing8 mắc nhẹ nhàng ở ngõ. Với từ láy “chùng chình”, mùa thu hiện ra như một con người đang bước những bước chân chậm chạp đến giữa đất trời. Bước chân sang thu, sương hình như có chít gì bịn rịn, ngập ngừng, dùng dằn, đi mà như cố ý chậm lại. Như vậy “chùng chình” hay chính là sự lưu luyến của thi sĩ khi chợt nhận ra đã qua rồi mùa hạ? Nhưng tại sao là “hình như”? Thu đã về thật đấy rồi, còn gì phải nghi ngờ nữa? Tưởng chừng như câu thơ có vẻ dư thừa nhưng nếu nghĩ kĩ lại, thì đây là một nét tâm lí chung của mọi người khi mùa thu đến quá đột ngột và bất ngờ. Tác giả cần một sự khẳng định, và “hình như thu đã về” là một câu để tác giả tự hỏi lại chính mình. Và cái giây phút giao mùa được thể hiện khá rõ qua hình ảnh cái ngõ mà sương đang “chùng chình” đi qua. Đó là cái ngõ thực hay cũng chính là cái ngõ thời gian thôn giữa hai mùa. Một hình ảnh đẹp được tác giả cảm nhận bằng chính tình yêu mùa thu, yêu làng quê, gắn bó với quê hương, cho thấy thi nhân là người có cảm nhận rất tinh tế. Âm điệu của đoạn thơ đầu tiên này thật nhẹ nhàng, man mác, rất phù hợp khi miêu tả trời sắp lập thu.
Tiếp tục chấm phá vào bức tranh, Hữu Thỉnh đã mở ra một không gian rộng lớn hơn, nhiều tầng bậc hơn
Sông được lúc dềnh dàng // Chim bắt đầu vội vã
Không còn là những gì vô hình: hương, gió; không còn là không gian nhỏ hẹp của cái “ngõ” xóm mà mùa thu hiện lên với những nét hữu hình của sông nước và của cánh chim. Sông không cuồn cuộn dữ dội như trong những ngày mưa lũ mùa hạ. Sông của mùa thu lặng sóng và lắng buồn, cứ “dềnh dàng” cho người ta cảm tưởng như sông rộng ra. Dòng sông êm ả, lững lờ trôi như đang trầm ngâm suy nghĩ. Tương phản với sông, chim lại bắt đầu vội vã. Gió thu se lạnh, chim cũng không còn thời gian để ríu rít khắp nơi mà đang khẩn trương chuẩn bị cho chuyến bay tránh rét. Hai câu thơ tưởng chừng như đối lập nhau song đó lại chính là những tín hiệu của mùa thu: không phải là ảo giác nữa rồi! Góp phần làm nên sự sống động của cảnh vật trong lúc chuyển mùa là hai từ láy “dềnh dàng” và “vội vã” thật gợi hình và biểu cảm. Thường chúng ta chỉ chú ý đến hai từ láy quan trọng này mà quên mất từ “bắt đầu” ở đây cũng rất độc đáo. Tác giả đã nhận ra từ những cánh chim một sự bắt đầu vội vã chứ không phải là đang vội vã. Phải tinh tế lắm mới nhận ra được sự “bắt đầu” này trong cánh chim.
Dù có sự vội vã của cánh chim nhưng không khí mùa thu vẫn là thư thái, lắng đọng và chậm rãi như “dải lụa trắng” trên trời.
Có đám mây mùa hạ // Vắt nửa mình sang thu
Và cái hồn của bức tranh thu chính là hình ảnh duyên dáng và đặc sắc này. Đám mây như tấm lụa, chiếc khăn của người phụ nữ đang vắt ngang trời xanh mà một nửa còn đang là mùa hạ nồng nàn, và nửa kia đã nghiêng về mùa thu êm dịu. Nghệ thuật nhân hóa “vắt nửa mình” gợi lên nhiều liên tưởng thú vị cho người đọc. Đó không phải là “tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt” của Nguyễn Khuyến, cũng không phải là “khói thu xây thành” của Tản Đà mà là “vắt nửa mình sang thu”. Nếu ở khổ một cần có một cái ngõ thực để hiện lên cái ngõ ảo nối giữa hai mùa thì ở đây chỉ cần một áng mây bâng khuâng mà có thể thấy bầu trời đang nhuộm nửa sắc thu. Nhưng hình ảnh mây là thực, còn ranh giới kia chỉ là hư ảo, tất cả chỉ là sự lưu luyến của con người trước sự thay đổi của cảnh vật. Đến một lúc nào đó, đám mây chợt bừng tỉnh ngỡ ngàng khi thấy mình đang bồng bềnh trong trời thu trọn vẹn. Thật vậy, đám mây như những sợi tơ trời nối hai bến bờ của thời gian gợi tâm trạng bâng khuâng xao xuyến. Đọc những dòng thơ giàu nét tạo hình, đọc giả bỗng nhớ đến cái ước lệ của những câu thơ cổ điển “Thi trung hữu họa – Tả cảnh ngụ tình”. Đứng trước bức tranh thu, tâm hồn nhà thơ đang ngây ngất say sưa, mở rộng tầm mắt ngắm nhìn đất trời quê hương vào thời khắc chuyển mùa.
Bức tranh thu càng trọn vẹn hơn khi nhà thơ điểm vào đó màu sắc của triết lí:
Vẫn còn bao nhiêu nắng / Đã vơi dần cơn mưa / Sấm cũng bớt bất ngờ / Trên hàng cây đứng tuổi
Khổ thơ cuối cùng làm trọn vẹn hơn ý “sang thu” của hồn người chưa thật rõ ở hai khổ thơ trên. Mùa thu được khẳng định bằng đoán nhận, bằng kinh nghiệm, suy ngẫm chứ không phải bằng cảm nhận trực tiếp như ở hai khổ thơ trước. Mùa thu không còn được quan sát từ gần ra xa, từ thấp lên cao mà đang từ từ thu vào trong tâm tưởng, đang lắng lại trong suy tư. Lúc này, mọi thứ dường như đã đi vào đúng thật tự của nó, vẫn là nắng, mưa, sấm, nhưng mức độ đã khác rồi. Những phó từ “vẫn-còn-đã” được đảo lên đứng đầu dòng thơ làm hiện tượng thiên nhiên như đo đếm được sự nhạt vơi. Nắng vẫn trải đầy không gian nhưng không còn chói chang, gay gắt như mùa hạ, mà vàng óng ánh, mang hơi thở ấm áp. Những cơn mưa cuối cùng cũng trả lại cho mùa thu sự dịu dàng êm ả. Sấm không còn vang rền như xé cả bầu trời sau những trận mưa mà lặng dần nên hàng cây không còn run rẩy, ngã nghiêng. Đâu phải ngẫu nhiên mà “hàng cây đứng tuổi” lại được đặt vào chỗ kết thúc của bài thơ, là một chỗ cực kì quan trọng? Phải chăng đó chính là một cái chốt cửa để ta mở sang một thế giới khác, thế giới sang thu của hồn người? “Cây đứng tuổi” hay chính là con người sau những phong ba bão táp của cuộc đời? Ngược trở lên hai khổ thơ trước, ta chợt hiểu vì sao có sự “chùng chình – dềnh dàng – vội vã”. Con người bị cuốn vào vòng xoay của cuộc đời, tất bật lo toan cuộc sống hằng ngày, để rồi đến khi nhìn lại, mình cũng đã sang thu. Nhưng khác với một thời tuổi trẻ bồng bột sôi nổi, con người giờ đây điềm đạm hơn, chín chắn và sâu sắc hơn. Mặt khác, người ta phải khẩn trương hơn, gấp gáp hơn để làm cái gì đó có ích cho đời.
Có phải là dụng ý nghệ thuật của tác giả khi đặt dấu chấm duy nhất khép lại bài thơ? Đó chính là cảm xúc xuyên suốt không đứt quãng: ngõ nhỏ sang thu, dòng sông và bầu trời sang thu và cuối cùng là con người sang thu. Trở lại hoàn cảnh ra đời của bài thơ 1977, đất nước vừa trải qua những năm dài chiến tranh chia cắt, mất mát đau thương. Bấy nhiêu năm thử thách “nắng, mưa, sấm” đã góp phần rèn luyện con người Việt Nam thêm vững vàng bản lĩnh, thêm tự tin để bước vào tương lai. Không gì có thể ngăn chặn được bước tiến của dân tộc này.
Bằng những cảm nhận tinh tế của mình, với nhiều từ láy gợi hình, hình ảnh đơn sơ mà giàu sức gợi cảm, Hữu Thỉnh đã dệt nên bức tranh giao mùa thật trữ tình và đằm thắm. Thiên nhiên và con người đều cùng một nhịp sang thu. Bức tranh mang hơi thở của quê hương, hơi ấm của cuộc đời. Cảnh vật sang thu để lại trong lòng người đọc những dư âm sâu lắng.
Phân tích bài thơ Sang thu – Bài số 2
Khoảnh khắc giao mùa có lẽ là khoảnh khắc đẹp đẽ nhất của tự nhiên, nó gieo vào lòng người những rung động nhẹ nhàng khiến ta như giao hoà, đồng điệu.
Bài thơ là những cảm nhận, những rung động man mác, bâng khuâng của tác giả trước vẻ đẹp và sự biến đổi kỳ diệu của thiên nhiên trong buổi giao mùa. Không phải là sắc “mơ phai” hay hình ảnh “con nai vàng ngơ ngác” mà là hương ổi thân quen nơi vườn mẹ đã đánh thức những giác quan tinh tế nhất của nhà thơ:
Bỗng nhận ra hương ổi
Phả vào trong gió se,
Câu thơ có hương vị ấm nồng của chớm thu ở một miền quê nhỏ. Tín hiệu đầu tiên để tác giả nhận ra mùa thu là “hương ổi”. Mùi hương quê nhà mộc mạc “phả” trong gió thoảng bay trong không gian. Cảm giác bất chợt đến với nhà thơ: “bỗng nhận ra” – một sự bất ngờ mà như đã chờ đợi sẵn từ lâu lắm. Câu thơ không chỉ tả mà còn gợi liên tưởng đến màu vàng ươm, hương thơm lựng, vị giòn, ngọt, chua chua nơi đầu lưỡi của trái ổi vườn quê. Và không chỉ có thế, cả sương thu như cũng chứa đầy tâm trạng, thong thả, chùng chình giăng mắc trên khắp nẻo đường thôn:
Sương chùng chình qua ngõ
Hình như thu đã về.
Sương thu đã được nhân hoá, hai chữ “chùng chình” diễn tả rất thơ bước đi chầm chậm của mùa thu. Nếu ở câu thơ đầu tiên nhà thơ “bỗng nhận ra” thu về khá bất ngờ và đột ngột thì sau khi cảm nhận sương thu ,gió thu, thi sỹ vẫn ngỡ ngàng thốt lên lời thầm thì như tự hỏi: Hình như thu đã về!? Tâm hồn thi sỹ nắm bắt những biến chuyển nhẹ nhàng, mong manh của tạo vật trong phút giao mùa cũng êm đềm, bâng khuâng như bước đi nhỏ nhẹ của mùa thu.
Không gian nghệ thuật của bức tranh thu được mở rộng hơn, cái bỡ ngỡ ban đầu vụt tan biến đi nhường chỗ cho những rung cảm mãnh liệt trước không gian thu vời vợi:
Sông được lúc dềnh dàng
Chim bắt đầu vội vã
Sông nước đầy nên mới “dềnh dàng” nhẹ trôi như cố tình chậm lại, những đàn chim vội vã bay về phương nam …Không gian thu thư thái, hữu tình và chứa chan thi vị, đặc biệt là hình ảnh:
Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu.
Câu thơ giúp ta hình dung về đám mây mỏng nhẹ, trắng xốp, kéo dài như tấm khăn voan duyên dáng của người thiếu nữ thảnh thơi, nhẹ nhàng “vắt nửa mình sang thu”. Câu thơ có tính tạo hình không gian những lại có ý nghĩa diễn tả sự vận động của thời gian: thu bắt đầu sang, hạ chưa qua hết, mùa thu vừa chớm, rất nhẹ, rất dịu, rất êm, mơ hồ như cả đất trời đang rùng mình thay áo mới…
Khổ thơ thứ ba diễn tả rất rõ sự biến chuyển của không gian và cũng là một thoáng suy tư của nhà thơ trước cảnh vật, đất trời:
Vẫn còn bao nhiêu nắng
Đã vơi dần cơn mưa
Sấm cũng bớt bất ngờ
Trên hàng cây đứng tuổi.
Vẫn là nắng, mưa, sấm, chớp của mùa hạ vương lại đâu đây, song chỉ là “vẫn còn”, “đã v