Phân tích bài thơ Ghét chuột của Nguyễn Bỉnh Khiêm
Phân tích bài thơ "Ghét chuột" để cho tháy tám lòng của Nguyễn Bỉnh Khiêm đối với nhân dán và thái độ đôi với bọn tham quan ô lại trong xả hội cũ. Bài làm Trạng Trình - Nguyên Bỉnh Khiêm (1491 - 1585) là nhà triết học vĩ đại, nhà thơ lớn cùa đất nước ta trong thể kỉ XVI. Học vấn ...
Phân tích bài thơ "Ghét chuột" để cho tháy tám lòng của Nguyễn Bỉnh Khiêm đối với nhân dán và thái độ đôi với bọn tham quan ô lại trong xả hội cũ.
Bài làm
Trạng Trình - Nguyên Bỉnh Khiêm (1491 - 1585) là nhà triết học vĩ đại, nhà thơ lớn cùa đất nước ta trong thể kỉ XVI. Học vấn uyên bác, đạo đức cao khiết, tài năng lỗi lạc, như cây đại thụ tỏa bóng mát cả một thời đại. Tuý sống giữa một giai đoạn lịch sử đầy biến động, nội chiến kéo dài, nhân dân đắm chim trong lầm than, cực khổ, nhưng ông vẫn giữ trọn nhân cách, trở thành ông thầy vĩ đại, xứng đáng với danh hiệu Tuyết Giang phu tử. Ông là nhà thơ giàu tình thương yêu nhân dân. Thơ cùa ông đã phản ánh và lên án những bất công, thối nát cùa xã hội phong kiến Việt Nam thời bấy giờ.
Bài thơ "Ghét chuột" được viết bằng chữ Hán, theo thể ngụ ngôn trường thiên, rút trong tập "Bạch Vân Am thi tập" cùa Nguyễn Bỉnh Khiêm, Ngô Lập Chi đã dịch bài thơ ra tiếng Việt, theo đúng nguyên điệu. Bài thơ mang dáng dấp một thiên ngụ ngôn. Nhà thơ đứng vé phía nhân dân lầm than mà căm giận và khinh bỉ bọn quan lại gian tham, độc ác trong xã hội phong kiên mục nát. Yêu, ghét dứt khoát, rõ ràng trên cơ sở yêu thương nhân dân là nét nổi bật trong tư tưởng nhà thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm.
Đoạn đầu bài thơ, ngôn ngữ trang trọng, mang màu sắc giáo huấn, phản ánh tư tưởng "lấy dân làm gốc". Con người phải được dạy dỗ, biết làm ăn, sống vì một đạo lí cao đẹp:
"Ôi ! Xưa bậc thánh nhân Dạy dân trồng ngũ cốc Cha mẹ được phụng thờ Vợ con dược săn sóc".
Nhà thơ ngụ ý nhắc nhở mọi người phải biết sống lương thiện, khổng được làm điểu ác, trái lương tâm. "Ẩm no đều muốn được" là niềm khao khát và ước mong của mọi người. Tư tưởng "lấy dân làm gấc" ấy được diễn đạt một cách trang nghiêm, sâu sắc qua 6 câu thơ đầu, cho thấy tâm hồn và cốt cách cao cả của thi nhân.
Mười câu thơ tiếp theonói về "lũ chuột lớn hất nhân". Nghệ thuật phúng dụ được vận dụng sắc sảo đã vẽ lên bộ mặt gớm ghiếc của lũ chuột bôn chân và bầy chuột hai chán trong xã hội thối nát thời bấy giờ. Chúng là lũ "hất nhân" phá hoại mùa màng, "gậm khoét" lương thực, làm cho ruộng đổng xác xơ, kho đụn "kiệt gạo thóc". Tội ác của lũ chuột tày trời:
"Chuột lớn sao hất nhân ?
Gậm khoét thật thảm độc Đồng ruộng trơ rơm khô Kho đụn kiệt gạo thóc".
Con người thế là hết đường sinh sống. Còn gì nữa để phụng dưỡng cha mẹ và săn sóc vợ con ? Hai lần nhà thơ giận dữ hỏi tội lũ bất lương, tàn ác: "Chuột lớn sao hất nhãn ?"... "Sao dám khinh mạng dân" ? Nguyễn Bỉnh Khiêm đã từng dâng sớ xin chém lũ nịnh thần hại dân hại nước. VI thế, thái độ quyết liệt cùa ông đối với lũ "chuột lớn" là điểu dể hiểu. Người đọc gần năm thế kỉ qua vô cùng thán phục thái độ căm giận và khinh bỉ của nguyễn Bỉnh Khiêm đối với bọn tham quan ô lại.
Lũ "chuột lớn" đã gieo rắc bao tai họa khủng khiếp cho nhân dân. Hai câu thơ được viết theo thủ pháp "hình đối", gợi ra trước mắt nhân gian cuộc sống bi thảm của người dân cày lam lũ, đói rét:
"Khó nhọc nóng phu than Đói gầy nông phụ khóc".
Tiếng "than khóc" của nhà nông vang dậy đất trời. Bằng cả tăm lòng nhân ái bao la, Nguyễn Bỉnh Khiêm đau cho nỗi đau của dân lành. Ông mãi mãi sống trong niềm kính phục của nhân dân ta.
Thấp thoáng, ẩn hiện trong những vần thơ là hình ảnh ghê gớm của "lũ chuột bôn chân" và "bẩy chuột hai chân". Nói đến chuột là phải nói đến hang, lỗ của chúng. Nói đến chuột là phải nói đến thái độ của nhân dân. Và nhà thơ đã viết:
"Rình mò dưới lổ hang,
Thần dân đều căm tức".
"Lổ hang" là dịch thoát hai chữ "thành, xã". "Thành" là nơi quốc cấm, bất khả xâm phạm. "Xã" là nơi thờ cúng tôn nghiêm, ai dám đào bới ? "Lổ hang" (thành, xã) trong câu thơ là biểu tượng ám chỉ bọn vua chúa, quan lại bể trên, chỗ dựa*của bọn tham quan, ồ lại. Lũ "chuột lớn" ấy ra sức đục khoét dân lành mà không ai dám động đến chúng. Nguyễn Bỉnh Khiêm đã có cái nhìn phê phán sắc bén chỉ ra nguyên nhân sâu sa gây ra mọi tội ác trong xã hội thối nát. Giá trị tố cáo hiện thực của bài thơ "Ghét chuột" càng trở nên mạnh mẽ.
Sáu câu thơ cuối bài biểu lộ trực tiếp thái độ yêu ghét của nhà thơ. Ông nguyễn rủa lũ "chuột lớn" tất sẽ bị người xé xác, phanh thây làm môi cho diều quạ. Ý thơ hàm súc như dồn nén tất cả sự giận dữ, căm ghét:
"Quấy nhiễu mất lòng người Tất bị người xé xác Thây phơi khắp thị thành Thịt quạ diều rỉa hóc".
Tội ác bị trừng phạt ! Tai họa được diệt trừ ! Đó là niềm tin cùa nhà thơ vé sức mạnh nhân dân và đạo lí ở đòi. Nếu như trong thế kỉ XV, úc Trai đã từng cầu mong "dân giàu đủ khắp đòi phương" giữa một nền thái bình bền vững, thì ở đây, Trạng Trình cũng chỉ có một ước muốn "lớp dân tàn" đang bị đói rét đau thương được sống một cuộc đời yên vui, hạnh phúc an cư lạc nghiệp:
"Khiến cho lớp dân tàn Cùng an hưởng hạnh phúc."
Cảm phục biết bao tấm lòng tru ái mênh mông của Bạch Vân cư sĩ.
"Ghét chuột" là một bài thơ độc đáo ở để tài, sắc bén ở thủ pháp nghệ thuật phúng dụ: mượn con chuột bốn chân để vạch mặt bọn quan lại tham ô gây ra bao tội ác trong xã hội, sống xa hoà trên máu và nước mắt nhân dân. Điểu đáng quý nhất, đáng khâm phục nhất là tình thương yêu và lòng căm giận một cách sâu sắc mạnh mẽ của tác giả. Nội dung tố cáo hiện thực và tinh thần nhân đạo là giá trị lớn của bài thơ.
Bài thơ "Ghét chuột" ra đời ngót 500 năm mà vẫn nóng bỏng tình yêu ghét, giàu tính chiến đấu, vẫn mang ý nghĩa thời sự lớn lao. Tư tưởng "an dân" của Trạng Trình mãi mãi rực sáng "như nhật trung thiên" (như mặt trời trong bầu trời). Tinh thương dân và lo đời của nhà thơ quê hương mãi mãi dào dạt như dòng sống Tuyết Giang vậy.