04/06/2017, 23:50
Phân tích bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” của Hàn Mặc Tử (Bài hay nhất)
Đây thôn Vĩ Dạ rút trong tập Thơ điên của Hàn Mặc Tử- tập thơ được xuất bản sau khi ông qua đời (1940). Con người đầy tài hoa và nhiệt huyết này, năm 25 tuổi (1937), bị mắc bệnh phong cùi và qua đời ba năm sau đó. Với tuổi đời ngắn ngủi và chỉ với hơn 10 năm sáng tác, thi sĩ đã để lại cho đời nhiều ...
Đây thôn Vĩ Dạ rút trong tập Thơ điên của Hàn Mặc Tử- tập thơ được xuất bản sau khi ông qua đời (1940). Con người đầy tài hoa và nhiệt huyết này, năm 25 tuổi (1937), bị mắc bệnh phong cùi và qua đời ba năm sau đó. Với tuổi đời ngắn ngủi và chỉ với hơn 10 năm sáng tác, thi sĩ đã để lại cho đời nhiều thi phẩm có giá trị, trong đó, Đây thôn Vĩ Dạ được xem là một kiệt tác.
Xuất xứ bài thơ có liên quan đến câu chuyện tình giữa thi sĩ nghèo với cô con gái ông chủ sở Đạc điền Quy Nhơn. Tuy chỉ là mối tình đơn phương nhưng nó đã để lại trong lòng thi sĩ họ Hàn một ấn tượng sâu sắc. Và trong bài thơ này, ý nghĩa của ấn tượng ấy không chỉ dừng lại ở chỗ đối với một con người cụ thể, một làng quê cụ thể, mà còn có giá trị phổ quát, giá trị nhân văn hết sức sâu đậm.
Bài thơ chỉ gồm 3 khổ, tổng cộng 12 câu thất ngôn.
Mở đầu bài thơ có lẽ là lời trách thầm, và cũng là lời nhắn nhủ nhẹ nhàng. Đó là lời tác giả nói với Kim Cúc, hay lời Kim Cúc được tưởng tượng ra để trách móc nhà thơ? Cũng có thể hiểu đó là lời một nhân vật trữ tình phiếm chỉ:
Sao anh không về chơi thôn Vĩ?
Nhìn nắng hàng cau, nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền.
Hình ảnh “nắng mới, hàng cau” cùng với lá vườn mướt “xanh như ngọc” tạo ra một bức tranh chói lòa ánh sáng và rực rỡ sắc màu. Người ta không hết bàng hoàng là vì sao, qua hàng tràm năm, bức tranh làng cảnh Việt Nam vẫn thiếu vắng một hình ảnh rất dân dã, quen thuộc mà lại tươi đẹp đến rực rỡ như hình ảnh “nắng mới - hàng cau” trong bài thơ này?
Câu thơ: “Lá trúc che ngang mặt chữ điền” đã gây nhiều cách hiểu: có người cho đó là gương mặt của người đàn ông vuông vức “chữ điền”, tượng trưng cho người quan chức thời phong kiến; có người lại cho đó là gương mặt đẹp của người xứ Huế nói chung..., nhưng muốn hiểu thế nào thì câu thơ bí ẩn này vẫn mang phong vị và vẻ dẹp cổ kính, có lá trúc, có gương mặt chữ điển, có thể tượng trưng cho quê hương và con người xứ Huế.
Hình ảnh lá trúc còn khiến ta nhớ đến câu thơ của Bích Khê:
Vĩ Dạ thôn, Vĩ Dạ thôn,
Biếc che cần trúc không buồn mà say.
(Huế đa tình)
Hóa ra cần trúc, lá trúc là một nét riêng của Vĩ Dạ thôn. Nó là cảnh thực, nhưng cũng là cảnh ẩn dụ, tượng trưng.
Trong khổ thứ hai, nhà thơ dặc tả cảnh sông nước mây trời xứ Huế, và cũng bộc lộ một niềm hoài vọng bâng khuâng:
Gió theo lối gió mây đường mây,
Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay;
Thuyền ai đậu bến sông trảng đó
Có chở trăng về kịp tối nay ?
Có thể hiểu cảnh tượng này như trên bờ sông Hương. Nhưng có cảnh nơi nào mà lại “có nền, có nếp” như ở đây:
Gió theo lối gió mây đường mây,
Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay;
Trước hết cần hiểu hai câu thơ này theo lối tả thực: Đây là cảnh tượng trời mây bên bến sông. Cái cảnh ấy vừa có nét đẹp hoang sơ, dân dã, vừa có nét “cung đình”. Gió, mây và dòng nước đều được nhân hóa để trở nên có hồn, sinh động.
Nhưng cái hay của hai câu thơ vẫn còn là bí ẩn. Gió, mây, sông nước còn như ẩn chứa điều gì kín đáo, khó nói thành lời. Có thể thấy ở đây những ý nghĩa ẩn dụ không toàn phần - tức là “ẩn dụ một nửa”, “bán ẩn dụ”. Tác giả không lấy cảnh để nói tình một cách đơn thuần như những ẩn dụ thường thấy trong ca dao:
Thuyền về có nhớ bến chăng?
Bến thì một dạ khăng khăng đợi thuyền.
Ở đây, tác giả vừa tả thật, vừa ẩn dụ. Sở dĩ phải viết như vậy vì tình cảm của Hàn với Kim Cúc chưa có gì để mà tả thật, cũng chưa có gì để mà ẩn dụ. Cho nên phải thật sự kín đáo, thật sự tế nhị và tự trọng.
Hai câu tiếp theo cũng kín đáo và mơ hồ như thế:
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay ?
Hai câu hỏi tu từ liên tục, vội vã.
Có người cho rằng, hai câu thơ này hấp dẫn vì các hình ảnh thơ mộng. Đúng vậy, những hình ảnh “thuyền đậu bến sông trăng”, “thuyền chở đầy trăng”... đều là những hình ảnh đẹp đẽ, thơ mộng và rất Huế nữa! Nhưng thực ra, những hình ảnh đó đều đã được ta bắt gặp nhiều trong thơ cổ. Cái thần diệu của hai câu thơ này là ở những câu hỏi tu từ, như có gì vội vã, thúc dục người ta nhưng vẫn rất mơ hồ.
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay ?
“Thuyền ai” là câu hỏi dành cho ai thế? Và tại sao lại phải “về kịp”? Lại “về kịp tối nay” nữa chứ? Tất cả những từ, những chữ ấy đều chứa đựng những điều huyền bí, khiến cho bài thơ như có ma lực, hấp dẫn người ta không dứt.
Có người cho rằng, cả bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ nổi bật lên bởi cái vẻ đẹp mơ hồ, huyền ảo và kín đáo. Cái vẻ đẹp ấy sở dĩ có được là nhờ cảnh tượng nên thơ của xứ Huế, nhưng cũng còn là do câu chuyện tình riêng kín đáo và còn chưa được thể hiện rõ ràng giữa nhà thơ với người con gái xứ Huế.
Và đúng như vậy, thì khổ thơ thứ hai thể hiện một cách tập trung nhất vẻ đẹp ấy.
Hồn thơ say dần, từ chỗ có nhiều hình ảnh thực (khổ 1), đến chỗ mơ hồ (khổ 2), bài thơ kết thúc ở khổ thứ ba với những hình ảnh, cảm xúc thật sự huyền bí:
Mơ khách dường xa khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra
Ở đày sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?
“Khách đường xa” là ai? Sao câu thơ lại lặp lại hình ảnh ấy hai lần? Và hơn nữa, hình ảnh đầy ấn tượng nhưng vô cùng mơ hồ ấy lại đứng cạnh một từ càng mơ hồ, bí ẩn hơn chính nó:
Mơ khách dường xa, khách đường xa
Không ai giải thích nổi, và cuối cùng cũng không cần giải thích. Chỉ biết rằng hình ảnh mơ hồ ấy rất ám ảnh người đọc, và nó cũng như có ma lực khiến ta cảm thấy câu thơ ấy là hay nhất, không thể thay thế.
Những câu thơ sau cũng có vẻ đẹp mơ hồ, huyền ảo nhưng dù sao cũng “hợp lí” hơn:
Áo em trắng quá nhìn không ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Điều bí ẩn nữa lại nằm ở câu thơ cuối:
Ai biết tình ai có đậm đà?
Đó lại là một câu hỏi tu từ, và dầu không thể trả lời, ta vẫn thấy câu hói ấy thống nhất với mạch cảm xúc chung của cả bài thơ: mở đầu và kết thúc đều là câu hỏi tu từ. Cả bài thơ là một câu hỏi lớn không cần ai giải đáp. Đó chính là tình yêu, là tâm hồn Hàn Mặc Tử. Cũng chính là lời yêu nhắn gửi lại cuộc đời này với tất cả những nỗi niềm day dứt khó quên.
Bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ trước hết là một bài thơ tình, cũng là một bài thơ về đất nước, con người, nhưng quan trọng hơn là một bức di thư, gửi gắm niềm yêu thống thiết, bắt đầu từ một mối tình dang dở, nhưng kết thúc ở tình đời bao la. Tình yêu của Hàn Mặc Tử đối với một người con gái xứ Huế, đối với một làng quê xứ Huế, và rộng lớn hơn là đối với tất cả cuộc đời này thật sự đã đạt tới một tình yêu bất tử.
Bài thơ chỉ gồm 3 khổ, tổng cộng 12 câu thất ngôn.
Mở đầu bài thơ có lẽ là lời trách thầm, và cũng là lời nhắn nhủ nhẹ nhàng. Đó là lời tác giả nói với Kim Cúc, hay lời Kim Cúc được tưởng tượng ra để trách móc nhà thơ? Cũng có thể hiểu đó là lời một nhân vật trữ tình phiếm chỉ:
Sao anh không về chơi thôn Vĩ?
Nhìn nắng hàng cau, nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền.
Hình ảnh “nắng mới, hàng cau” cùng với lá vườn mướt “xanh như ngọc” tạo ra một bức tranh chói lòa ánh sáng và rực rỡ sắc màu. Người ta không hết bàng hoàng là vì sao, qua hàng tràm năm, bức tranh làng cảnh Việt Nam vẫn thiếu vắng một hình ảnh rất dân dã, quen thuộc mà lại tươi đẹp đến rực rỡ như hình ảnh “nắng mới - hàng cau” trong bài thơ này?
Câu thơ: “Lá trúc che ngang mặt chữ điền” đã gây nhiều cách hiểu: có người cho đó là gương mặt của người đàn ông vuông vức “chữ điền”, tượng trưng cho người quan chức thời phong kiến; có người lại cho đó là gương mặt đẹp của người xứ Huế nói chung..., nhưng muốn hiểu thế nào thì câu thơ bí ẩn này vẫn mang phong vị và vẻ dẹp cổ kính, có lá trúc, có gương mặt chữ điển, có thể tượng trưng cho quê hương và con người xứ Huế.
Hình ảnh lá trúc còn khiến ta nhớ đến câu thơ của Bích Khê:
Vĩ Dạ thôn, Vĩ Dạ thôn,
Biếc che cần trúc không buồn mà say.
(Huế đa tình)
Hóa ra cần trúc, lá trúc là một nét riêng của Vĩ Dạ thôn. Nó là cảnh thực, nhưng cũng là cảnh ẩn dụ, tượng trưng.
Trong khổ thứ hai, nhà thơ dặc tả cảnh sông nước mây trời xứ Huế, và cũng bộc lộ một niềm hoài vọng bâng khuâng:
Gió theo lối gió mây đường mây,
Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay;
Thuyền ai đậu bến sông trảng đó
Có chở trăng về kịp tối nay ?
Có thể hiểu cảnh tượng này như trên bờ sông Hương. Nhưng có cảnh nơi nào mà lại “có nền, có nếp” như ở đây:
Gió theo lối gió mây đường mây,
Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay;
Trước hết cần hiểu hai câu thơ này theo lối tả thực: Đây là cảnh tượng trời mây bên bến sông. Cái cảnh ấy vừa có nét đẹp hoang sơ, dân dã, vừa có nét “cung đình”. Gió, mây và dòng nước đều được nhân hóa để trở nên có hồn, sinh động.
Nhưng cái hay của hai câu thơ vẫn còn là bí ẩn. Gió, mây, sông nước còn như ẩn chứa điều gì kín đáo, khó nói thành lời. Có thể thấy ở đây những ý nghĩa ẩn dụ không toàn phần - tức là “ẩn dụ một nửa”, “bán ẩn dụ”. Tác giả không lấy cảnh để nói tình một cách đơn thuần như những ẩn dụ thường thấy trong ca dao:
Thuyền về có nhớ bến chăng?
Bến thì một dạ khăng khăng đợi thuyền.
Ở đây, tác giả vừa tả thật, vừa ẩn dụ. Sở dĩ phải viết như vậy vì tình cảm của Hàn với Kim Cúc chưa có gì để mà tả thật, cũng chưa có gì để mà ẩn dụ. Cho nên phải thật sự kín đáo, thật sự tế nhị và tự trọng.
Hai câu tiếp theo cũng kín đáo và mơ hồ như thế:
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay ?
Hai câu hỏi tu từ liên tục, vội vã.
Có người cho rằng, hai câu thơ này hấp dẫn vì các hình ảnh thơ mộng. Đúng vậy, những hình ảnh “thuyền đậu bến sông trăng”, “thuyền chở đầy trăng”... đều là những hình ảnh đẹp đẽ, thơ mộng và rất Huế nữa! Nhưng thực ra, những hình ảnh đó đều đã được ta bắt gặp nhiều trong thơ cổ. Cái thần diệu của hai câu thơ này là ở những câu hỏi tu từ, như có gì vội vã, thúc dục người ta nhưng vẫn rất mơ hồ.
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay ?
“Thuyền ai” là câu hỏi dành cho ai thế? Và tại sao lại phải “về kịp”? Lại “về kịp tối nay” nữa chứ? Tất cả những từ, những chữ ấy đều chứa đựng những điều huyền bí, khiến cho bài thơ như có ma lực, hấp dẫn người ta không dứt.
Có người cho rằng, cả bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ nổi bật lên bởi cái vẻ đẹp mơ hồ, huyền ảo và kín đáo. Cái vẻ đẹp ấy sở dĩ có được là nhờ cảnh tượng nên thơ của xứ Huế, nhưng cũng còn là do câu chuyện tình riêng kín đáo và còn chưa được thể hiện rõ ràng giữa nhà thơ với người con gái xứ Huế.
Và đúng như vậy, thì khổ thơ thứ hai thể hiện một cách tập trung nhất vẻ đẹp ấy.
Hồn thơ say dần, từ chỗ có nhiều hình ảnh thực (khổ 1), đến chỗ mơ hồ (khổ 2), bài thơ kết thúc ở khổ thứ ba với những hình ảnh, cảm xúc thật sự huyền bí:
Mơ khách dường xa khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra
Ở đày sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?
“Khách đường xa” là ai? Sao câu thơ lại lặp lại hình ảnh ấy hai lần? Và hơn nữa, hình ảnh đầy ấn tượng nhưng vô cùng mơ hồ ấy lại đứng cạnh một từ càng mơ hồ, bí ẩn hơn chính nó:
Mơ khách dường xa, khách đường xa
Không ai giải thích nổi, và cuối cùng cũng không cần giải thích. Chỉ biết rằng hình ảnh mơ hồ ấy rất ám ảnh người đọc, và nó cũng như có ma lực khiến ta cảm thấy câu thơ ấy là hay nhất, không thể thay thế.
Những câu thơ sau cũng có vẻ đẹp mơ hồ, huyền ảo nhưng dù sao cũng “hợp lí” hơn:
Áo em trắng quá nhìn không ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Điều bí ẩn nữa lại nằm ở câu thơ cuối:
Ai biết tình ai có đậm đà?
Đó lại là một câu hỏi tu từ, và dầu không thể trả lời, ta vẫn thấy câu hói ấy thống nhất với mạch cảm xúc chung của cả bài thơ: mở đầu và kết thúc đều là câu hỏi tu từ. Cả bài thơ là một câu hỏi lớn không cần ai giải đáp. Đó chính là tình yêu, là tâm hồn Hàn Mặc Tử. Cũng chính là lời yêu nhắn gửi lại cuộc đời này với tất cả những nỗi niềm day dứt khó quên.
Bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ trước hết là một bài thơ tình, cũng là một bài thơ về đất nước, con người, nhưng quan trọng hơn là một bức di thư, gửi gắm niềm yêu thống thiết, bắt đầu từ một mối tình dang dở, nhưng kết thúc ở tình đời bao la. Tình yêu của Hàn Mặc Tử đối với một người con gái xứ Huế, đối với một làng quê xứ Huế, và rộng lớn hơn là đối với tất cả cuộc đời này thật sự đã đạt tới một tình yêu bất tử.