Phân tích bài thơ Đất nước của Nguyễn Đình Thi
Phân tích bài thơ Đất nước của Nguyễn Đình Thi – Bài làm 1 Nguyễn Đình Thi sáng tác bài thơ Đất nước bắt đầu từ năm 1948 và hoàn thành vào năm 1955, sau chiến thắng Điện Biên Phủ. Bài thơ gồm hai phần. Phần đầu được hình thành trên cơ sở những đoạn trích từ hai bài Sáng mát trong như sáng năm ...
Phân tích bài thơ Đất nước của Nguyễn Đình Thi – Bài làm 1 Nguyễn Đình Thi sáng tác bài thơ Đất nước bắt đầu từ năm 1948 và hoàn thành vào năm 1955, sau chiến thắng Điện Biên Phủ. Bài thơ gồm hai phần. Phần đầu được hình thành trên cơ sở những đoạn trích từ hai bài Sáng mát trong như sáng năm xưa (1948) và Đêm mít tinh (1949). Phần sau được viết năm 1955. Đất nước được nhìn qua một không gian – thời gian độc đáo: mùa thu với mốc ...
– Bài làm 1
Nguyễn Đình Thi sáng tác bài thơ Đất nước bắt đầu từ năm 1948 và hoàn thành vào năm 1955, sau chiến thắng Điện Biên Phủ. Bài thơ gồm hai phần. Phần đầu được hình thành trên cơ sở những đoạn trích từ hai bài Sáng mát trong như sáng năm xưa (1948) và Đêm mít tinh (1949). Phần sau được viết năm 1955. Đất nước được nhìn qua một không gian – thời gian độc đáo: mùa thu với mốc son lịch sử là sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ngày 2 tháng 9 năm 1945. Tuy được viết trong những thời gian khác nhau nhưng cảm hứng thơ vẫn liền mạch và bài thơ là một tác phẩm nghệ thuật hoàn chỉnh.
Nguyễn Đình Thi đã đúc kết những cảm xúc và suy ngẫm của mình về đất nước trong suốt chín năm kháng chiến chống Pháp. Cảm hứng thơ của tác giả kéo dài theo suốt hành trình kháng chiến, được nối kết với lịch sử oai hùng bốn ngàn năm dựng nước, giữ nước và liên tưởng mở rộng tới tương tai tươi sáng của cách mạng. Đó chính là cảm hứng về một đất nước vất vả đau thương, tươi thắm vô ngần được triển khai theo hướng từ cụ thể đến khái quát.
Trong bài thơ này, Nguyễn Đình Thi đã thể hiện cảm xúc và suy nghĩ của mình về đất nước bằng hình ảnh mùa thu xưa, mùa thu nay và hình ảnh đất nước đau thương, bất khuất, anh hùng trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Thông qua đó, nhà thơ bày tỏ tình yêu đất nước, lòng căm thù giặc, niềm tự hào, niềm tin son sắt vào tương lai tươi sáng của dân tộc và đất nước.
Bài thơ chia làm hai đoạn: đoạn thứ nhất từ đầu đến …vọng nói về, đoạn thứ hai là phần còn lại. Mạch cảm xúc và suy tưởng cũng là kết cấu cơ bản của bài thơ. Khởi đầu là cảm xúc về một sớm mùa thu ở chiến khu Việt Bắc gợi nhớ về mùa thu đã xa của Hà Nội. Nỗi nhớ về mùa thu xưa dẫn dắt cảm xúc về mùa thu nay, mùa thu cách mạng với niềm tự hào của người công dân được làm chủ đất nước. Cảm xúc nâng cao, mở rộng về đất nước trong đau thương, căm hờn đã vùng lên chiến đấu bất khuất và chiến thắng vẻ vang : Rũ bùn đứng dậy sáng lòa.
Mở đầu bài thơ là cảm giác lâng lâng của tác giả trước vẻ đẹp của thiên nhiên, đất trời mùa thu Việt Bắc, gợi nhớ về những ngày thu đã xa của Hà Nội mến yêu:
Sáng mát trong như sáng năm xưa,
Gió thổi mùa thu hương cốm mới.
Chỉ bằng vài nét gợi tả mà tác giả đã thể hiện được không gian, thời gian, màu sắc, hương vị của mùa thu : không khí mát trong, gió thổi phảng phất mùi hương cốm mới, kết tinh của hương vị đất trời, cây cỏ mùa thu. Hình ảnh mùa thu trong quá khứ và thực tại đan xen trong tâm tưởng của nhà thơ.
Mùa thu Hà Nội với những nét đặc trưng của khung cảnh thiên nhiên và con người hiện ra thật cụ thể, sinh động:
Tôi nhớ những ngày thu đã xa
Sáng chớm lạnh trong lòng Hà Nội
Những phố dài xao xác hơi may
Người ra đi đầu không ngoảnh lại
Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy.
Làn gió heo may se lạnh thổi dọc lòng những con phố nhỏ, làm xao xác hàng cây, với những thềm nắng lá rơi đầy. Ẩn sau những câu thơ tả cảnh là Hà Nội thanh lịch có bề dày bốn nghìn năm lịch sử với Hồ Tây, Hồ Gươm, đền vua Lê, Tháp Bút, đền Ngọc Sơn, cầu Thê Húc… Những di tích, danh lam thắng cảnh ấy là niềm tự hào to lớn của bao thế hệ người Hà Nội. Mùa thu Hà Nội giống như một bức tranh với đường nét mềm mại, màu sắc và ánh sáng hòa hợp gây ấn tượng sâu đậm, chất chứa tâm trạng. Trên cái nền phong cảnh ấy nổi bật lên hình ảnh những chiến sĩ hào hoa, dũng cảm, tạm xa Thủ đô thân yêu để lên đường kháng chiến. Người ra đi đầu không ngoảnh lại đầy ý chí và quyết tâm nhưng lòng thì vẫn vấn vương, vẫn cảm nhận được bằng cả tâm hồn cái sắc vàng xao xuyến : Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy. Câu thơ vừa thực vừa ảo. Tình thơ vương bao nhiêu lưu luyến bên trong. Nhịp thơ ngập ngừng, bâng khuâng như lòng người bâng khuâng, quyến luyến. Thấp thoáng đâu đó trong câu thơ là bóng dáng khách chinh phu dứt áo ra đi vì nghĩa lớn : Tráng sĩ nhất khứ bất phục phản (Tráng sĩ một đi không trở lại). Cái không khí chớm lạnh, cái sắc nắng thu vàng một màu li biệt càng làm tăng thêm phong vị cổ điển của câu thơ, cảnh thu Hà Nội đẹp nhưng buồn vắng đến nao lòng.
Có thể nói bốn câu thơ miêu tả mùa thu Hà Nội là những câu thơ gây ấn tượng nhất trong bài. Nó phản ánh tâm hồn tinh tế và ngòi bút tài hoa của Nguyễn Đình Thi. Dường như nỗi buồn, sự lưu luyến, xao xuyến, nhớ nhung của nhà thơ, vương vấn trong cái chớm lạnh của buổi đầu thu, trong xao xác hơi may, trong khung cảnh thềm nắng lá rơi đầy. Đặt tính từ xao xác trước hơi may là tác giả có ý nhấn mạnh đến nét đáng yêu, đáng nhớ nhất của gió thu và âm thanh tiêu biểu nhất của mùa thu. Nhịp điệu, âm hưởng thơ mang nỗi buồn man mác, hợp với khung cảnh huyền ảo của mùa thu Hà Nội. Nhà thơ đã phác họa nên bức tranh mùa thu Hà Nội với những đường nét mềm mại, màu sắc trong sáng làm xúc động lòng người, để lại ấn tượng khó phai. Đây cũng chính là biểu hiện của tình yêu Hà Nội thiết tha, say đắm và tình yêu ấy khiến cho cảm hứng của thi sĩ thăng hoa.
Đang hồi tưởng về một mùa thu đã xa của Hà Nội, cảm xúc của tác giả bỗng chuyển hướng sang mùa thu hiện tại bằng một câu thơ ngắn, âm điệu dứt khoát như một lời khẳng định:
Mùa thu nay khác rồi
Mùa thu nay là mùa thu thứ hai ở chiến khu Việt Bắc (1948) tràn đầy khí thế sau chiến thắng Thu Đông 1947. Ở đoạn thơ đầu, tiết tấu chậm, âm hưởng trầm lắng hợp với dòng hoài niệm, hợp với cảnh thu buồn và tâm trạng bâng khuâng, da diết. Đến đoạn này, những câu thơ được viết theo thể tự do, nhịp điệu sôi nổi, phóng khoáng; cảm xúc rạo rực, phấn khích, rộn rã, tươi vui:
Tôi đứng vui nghe giữa núi đồi
Gió thổi rừng tre phấp phới
Trời thu thay áo mới
Trong biếc nói cười thiết tha.
Bức tranh mùa thu nay hiện ra với những chi tiết, hình ảnh bình dị, dân dã, khỏe khoắn và tươi sáng. Giữa khung cảnh thiên nhiên hùng vĩ, bao la của núi rừng Việt Bắc, hòa lòng mình vào cuộc kháng chiến thần thánh của toàn dân tộc, tâm trạng của chủ thể trữ tình có sự biến đổi rất rõ. Từ tâm trạng phảng phất buồn khi hoài niệm về mùa thu Hà Nội năm xưa đã chuyển sang tâm trạng hào hứng, sối nổi, tràn ngập niềm vui trước khung cảnh mùa thu ở chiến khu Việt Bắc. “Cái tôi trữ tình” cũng chuyển thành “cái ta” Nhà thơ không chỉ nhân danh cá nhân mà còn nhân danh cộng đồng để nói lên niềm tự hào chính đáng và ý thức làm chủ non sống, đất nước, cảm hứng về mùa thu của Nguyễn Đình Thi gắn liền với cảm hứng về đất nước trong từng thời kì lịch sử, mùa thu đất trời gắn liền với mùa thu cách mạng. Đất nước được nhìn ngắm, suy ngẫm từ một sự kiện lịch sử đáng nhớ: mùa thu 1945 cùng với sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Niềm vui mới to lớn tràn ngập lòng người, tràn ngập đất trời chiến khu Việt Bắc. Hình ảnh trong đoạn thơ này tươi mát, sống động. Từ ngữ được sử dụng rất chọn lọc nhằm nhấn mạnh cái khác của thu nay. Mùa thu với ngọn gió phóng khoáng thổi ào ào làm cả rừng tre phấp phới như bay như mua trên cái nền trong biếc của trời thu thay áo mới, trong biếc ở con mắt nhìn cảnh vật, giữa tiếng nói cười thiết tha rộn ràng của con người.
Đây là nét nghệ thuật độc đáo mà Nguyễn Đình Thi đã đem đến cho những bài thơ viết về mùa thu, thực sự thổi một luồng gió mới vào đề tài mùa thu trong thơ ca Việt Nam. Cái buồn, cái lạnh của thu xưa dường như đã lùi xa. Mùa thu nay đẹp đẽ, trong sáng bởi tâm hồn, đôi mắt của thi nhân đầy phấn chấn và tin tưởng. Sự tinh tế trong cảm xúc của tác giả thể hiện ở sự cảm nhận được nét riêng của không gian mùa thu: tiết trời êm ả, ánh nắng vàng dịu, bầu trời dường như xanh cao hơn, không khí như nhẹ hơn và mọi âm thanh cũng trở nên ngân xa, vang vọng. Từ cảm xúc về mùa thu đất nước dẫn đến tình cảm mến yêu tha thiết và lòng tự hào về đất nước, nhà thơ ngắm nhìn cảnh vật với tâm hồn phơi phới lạc quan, yêu đời. Niềm vui tràn ngập lòng người, tràn ngập đất trời.
Cội nguồn của niềm vui ấy thật to lớn, sâu xa. Đó là do đất nước sau Cách mạng tháng Tám đã về tay nhân dân. Đó là hạnh phúc lớn lao của dân tộc, của đất nước đã dành được chủ quyền thiêng liêng độc lập, tự do. Đoạn thơ với nhịp điệu rộn ràng, hào hứng và những hình ảnh đẹp đẽ, tươi mát đã thể hiện vẻ đẹp muôn màu muôn vẻ của đất nước thân yêu. Nhà thơ như reo như hát lên niềm hạnh phúc bất tận ấy:
Trời xanh đây là của chúng ta
Núi rừng đây là của chúng ta
Những cánh đồng thơm mát
Những ngả đường bát ngát
Những dòng sông đỏ nặng phù sa.
Với nhạc điệu rộn ràng, náo nức, hình ảnh nối tiếp hình ảnh, quấn quýt hòa quyện vào nhau, đoạn thơ tạo nên vẻ đẹp của đất nước Việt Nam sau ngày độc lập. Âm hưởng đoạn thơ mênh mang bởi những âm tiết ngân vang: ta, thơm mát, bát ngát, phù sa… Các dòng thơ liên kết chặt chẽ, bổ sung cho nhau để làm nổi bật ý thơ.
Điệp khúc là của chúng ta cứ ngân nga, vang vọng giữa đất trời, sông núi. Tất cả những gì thân yêu, quen thuộc trên đất nước này đều là của chúng ta. Còn gì sung sướng hơn, tự hào hơn bốn tiếng ấy sau hàng trăm năm nô lệ, dân tộc ta phải đổ bao xương máu mới giành được quyền làm chủ. Cũng nguồn cảm hứng say sưa, dạt dào như thế, nhà thơ Tố Hữu đã thốt lên: của ta, trời đất, đêm ngày ; Núi kia, đồi nọ, sống này của ta ! (Hoan hô chiến sĩ Điện Biên).
Cái thế đứng của nhân vật trữ tình trong đoạn thơ là thế đứng của con người tự do kiêu hãnh ngẩng cao đầu, cảm hứng mở ra, vẽ ra những hình ảnh thân thương của đất nước với chiều rộng, chiều dài và sắc màu của bầu trời, núi rừng, cánh đồng, ngả đường, dòng sông… Trời thu thay áo mới, Những cánh đồng thơm mát, Những ngả đường bát ngát, Những dòng sông đỏ nặng phù sa… càng trở nên bội phần đẹp đẽ vì đã về tay chúng ta.
Sắc đỏ của phù sa gợi liên tưởng tới những chiến sĩ đã hi sinh trong cuộc chiến đấu bảo vệ non sông. Chữ nặng không chỉ diễn tả lượng phù sa trong nước của dòng sông mà còn đặc tả bề dày của dòng chảy bốn nghìn năm lịch sử. Nước không chỉ đỏ nặng phù sa màu mỡ mà còn cuồn cuộn dòng máu quật cường. Những liên tưởng sâu xa ấy khiến cho cảm xúc thơ trở nên trầm lắng, thiết tha. Ý thơ đi từ những hình ảnh cụ thể, hữu hình, đến sự cảm nhận cái vô hình là truyền thống, là hồn thiêng đất nước. Nhà thơ suy ngẫm về chiều sâu, về bề dày của lịch sử để từ đó đúc kết thành chân lí:
Nước chúng ta
Nước những người chưa bao giờ khuất
Đêm đêm rì rầm trong tiếng đất
Những buổi ngày xưa vọng nói về.
Không chỉ những sự vật hữu hình như bầu trời, cánh đồng, núi rừng, dòng sông… mà còn cả những yếu tố vô hình làm nên đất nước. Nước chúng ta – giản đơn ba chữ mà chất chứa tình cảm thiêng liêng pha lẫn tự hào. Câu thơ nước những người chưa bao giò khuất là lời khẳng định như chân lí bất di bất dịch về một thực tế hiển nhiên. Suốt chiều dài lịch sử bốn ngàn năm, trải qua bao phen chống ngoại xâm, có thắng có bại nhưng đất nước này, dân tộc này chưa bao giờ khuất phục trước bạo lực của quân thù. Truyền thống bất khuất ấy truyền từ đời này sang đời khác. Nhà thơ lắng nghe tiếng nói quật cường vọng lên từ lòng đất. Đất, qua tâm hồn nhà thơ và tâm hồn chúng ta, không chỉ xanh tốt những vạt rừng, thơm mát những cánh đồng, bát ngát những ngả đường, đỏ nặng phù sa của những dòng sông mà còn rì rầm tiếng nói đấu tranh bao đời không bao giờ tắt. Câu thơ trở nên trang trọng, trầm lắng khi nói đến tiếng vọng thiêng liêng của ngàn xưa rì rầm trong tiếng đất.
Tiêng đất là tiếng của lịch sử, là tiếng của hồn thiêng sông núi tự ngày xưa đang vọng nói về hiện tại. Mồ hôi, xương máu của tổ tiên, ông cha thấm vào lòng đất đã bao đời, thành tiếng đất luôn nhắc nhở các thế hệ con cháu hãy giữ lấy giang sơn gấm vóc của tổ tiên. Từ đó, nhà thơ suy nghĩ về đất nước trong chiến tranh giải phóng, trong đau thương căm hờn đứng lên chiến đấu bất khuất anh hùng.
Có thể nói ít có hình ảnh nào thể hiện nỗi đau thương tang tóc của dân tộc và đất nước trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp lại cô đọng, hàm súc và gây ám ảnh sâu sắc như những hình ảnh trong hai câu thơ:
Ôi những cảnh đồng quê chảy máu
Dây thép gai đâm nát trời chiều.
Dấu ấn khốc liệt của chiến tranh bao phủ khắp nơi. Đạn bom quân thù cày nát mặt đất, triệt hạ sự sống. Ánh hoàng hôn đỏ hắt xuống khiến những cánh đồng quê như chảy máu. Hàng rào dây thép gai quanh đồn bốt giặc tua tủa chĩa lên như muốn đâm nát trời chiều vốn tĩnh lặng, bình yên. Cả hai chiều không gian đều in đậm bóng dáng sự tàn phá, chết chóc của chiến tranh. Từng chữ, từng câu thơ oằn nặng bởi cảm xúc đau thương, căm giận.
Các hình ảnh trong đoạn thơ này hoàn toàn tương phản với hình ảnh trong đoạn thơ trên. Những cánh đồng quê chảy máu thay cho những cánh đồng thơm mát. Trời chiều bị dây thép gai đâm nát thay thế cho sắc trời thu trong biếc thanh bình. Cuộc sống êm ả xưa kia giờ không còn nữa. Đâu đâu cũng là cảnh tang tóc, đau thương. Bao nhiêu máu xương đã đổ xuống mảnh đất này.
Trên cái nền là đất nước đau thương ấy, nhà thơ khắc họa nổi bật hình ảnh và tâm trạng người chiến sĩ:
Những đêm dài hành quân nung nấu
Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu.
Nhà thơ cảm nhận sâu sắc những rung động tinh tế trong tâm hồn mỗi người lính ra trận. Đó là tâm trạng cháy bỏng yêu thương nhân dân và nung nấu hờn căm quân cướp nước. Mối căm thù sôi sục trong tim, thôi thúc những đêm dài hành quân không nghỉ. Mối căm thù dồn lên mũi lê, đầu súng nhằm thẳng quân thù. Nhưng chính lúc ấy cũng thấp thoáng hiện lên trong nỗi nhớ đôi mắt của người yêu chờ đợi khiến tâm hồn chiến sĩ ta bồn chồn, xao xuyến.
Hay nhất trong phần sau của bài thơ có lẽ là khổ thơ này. Phải là người từng trải, có vốn sống phong phú và trái tim dạt dào tình cảm nhân ái thì tác giả mới có cách diễn đạt tự nhiên về sự hài hòa giữa tình cảm riêng chung, giữa tình yêu đôi lứa và tình yêu đất nước của người chiến sĩ.
Ở đoạn thơ cuối, tác giả dồn hết tâm huyết để tô đậm hình ảnh đất nước từ trong đau thương đã anh dũng đứng lên chiến đấu. Đó là hình tượng cao đẹp về đất nước muôn đời, về sự vươn mình vĩ đại của đất nước và con người Việt Nam trong thời đại mới:
Từ những năm đau thương chiến đấu
Đã ngời lên nét mặt quê hương
Từ gốc lúa bờ tre hồn hậu
Đã bật lên những tiếng căm hờn
Bát cơm chan đầy nước mắt
Bay còn giằng khỏi miệng ta
Thằng giặc Tây thằng chúa đất
Đứa đè cổ đứa lột da.
Nỗi đau xót như thấm sâu vào từng câu, từng chữ, từng hình ảnh tiêu biểu tạo nên ấn tượng sâu đậm trong lòng người đọc. Đặc biệt hình ảnh Bát cơm chan đầy nước mắt, Bay còn giằng khỏi miệng ta nói lên tột cùng tội ác của quân thù và tột cùng sự tủi cực của nhân dân ta trong vòng nô lệ. Nhưng bạo lực của kẻ thù đã không thể bắt chúng ta phải khuất phục:
Xiềng xích chúng bay không khóa được
Trời đầy chim và đất đầy hoa
Súng đạn chúng bay không bắn được
Lòng dân ta yêu nước, thương nhà
Khói nhà máy cuộn trong sương núi
Kèn gọi quân văng vẳng cánh đồng
Ôm đất nước những người ảo vải
Đã đứng lên thành những anh hùng
Từ thực tế kháng chiến gian nan và hào hùng, Nguyễn Đình Thi đã viết nên những câu thơ khái quát về sự mất mát, hi sinh của đất nước cùng quyết tâm giành lại chủ quyền độc lập tự do của dân tộc ta. cả dân tộc đoàn kết thành một khối thống nhất, trán đẫm mồ hôi và mắt ngời hi vọng, rắn rỏi mạnh mẽ bước tới tương lai:
Ngày nắng đốt theo đêm mưa giội
Mỗi bước đường mỗi bước hi sinh
Trán cháy rực nghĩ trời đất mới
Lòng ta bát ngát ánh bình minh.
Cái hay của đoạn thơ này chính là âm điệu thơ hào hùng, sảng khoái. Tiếng nói trữ tình của nhà thơ mang âm vang tiếng nói của cả dân tộc đang hướng tới tương lai. Nhân dân ta đứng dậy giữ nước không chỉ bằng sức mạnh tình cảm mà còn bằng sức mạnh lí trí, có ánh sáng cách mạng soi dường và niềm tin vào tương lai tươi sáng.
Kết thúc bài thơ là hình ảnh đất nước từ trong đau thương, căm hận và máu lửa chiến tranh đã hiên ngang đứng dậy, tự khẳng định mình trước lịch sử và nhân loại:
Súng nổ rung trời giận dữ
Người lên như nước vỡ bờ
Nước Việt Nam từ máu lừa
Rũ bùn đứng dậy sáng lòa.
Âm hưởng hào hùng, sảng khoái của đoạn thơ được tạo nên từ thể thơ sáu chữ với tiết tấu nhanh, mạnh, dồn dập cùng với hàng loạt hình ảnh đậm chất anh hùng ca lấy từ thực tế của chiến trường Điện Biên Phủ ác liệt mà nhà thơ đã trực tiếp tham gia và được tận mắt chứng kiến: “Tổ trông thấy các anh – Nguyễn Đình Thi kể – mình mẩy đầy bùn, nhưng khi nhảy lên trên mặt đất, các anh hiện lên chói lòa trong ánh nắng”. Tác giả đã tạo nên hình tượng thơ đẹp đẽ, hào hùng từ hình ảnh rất chân thực: trong máu lửa, bùn lầy, giữa tiếng đại bác rền vang rung trời chuyển đất, chiến sĩ ta từ các chiến hào ào ạt xông lên như nước vỡ bờ. Hình ảnh của họ nổi lên trên nền trời như một tượng đài kì vĩ của chủ nghĩa yêu nước và anh hùng cách mạng.
Sau: Năm mươi sáu ngày đêm, khoét núi, ngủ hầm, mưa dầm, cơm vắt, Máu trộn bùn non, Gan không núng, chí không mòn! (Hoan hô chiến sĩ Điện Biên – Tố Hữu), quân dân ta đã chiến thắng, kết thúc vẻ vang cuộc kháng chiến chín năm trường kì gian khổ chống thực dân Pháp, mở ra một trang sử mới, khẳng định vị trí và tên tuổi của đất nước Việt Nam, dân tộc Việt Nam trên trường quốc tế.
Đất nước là một bài thơ góp phần làm nên tên tuổi Nguyễn Đình Thi trong thơ ca Việt Nam hiện đại. Bài thơ này tiêu biểu cho suy ngẫm sâu sắc của tác giả về đất nước. Với cảm hứng thơ lúc trầm lắng lúc sối trào, cùng với nhịp thơ biến đổi vô cùng linh hoạt, hình ảnh đất nước cứ ngời lên trong khổ đau, gian nan, vất vả. Nguyễn Đình Thi là nhà thơ của đất nước trong đau thương. Ý tưởng về một đất nước đau thương mà hào hùng, bất khuất không phải chỉ Nguyễn Đình Thi mới có, nhưng do hình tượng trong thơ ông thấm đẫm cảm xúc bỉ tráng, gắn với những ấn tượng sâu sắc nên Đất nước là một tác phẩm xuất sắc, đủ sức vượt qua mọi thử thách của thời gian để sống mãi trong lòng người đọc.
– Bài làm 2
Nguyễn Đình Thi – Một tâm hồn, một con người đa tài với những tác phẩm, bài viết đủ mọi thể loại. Văn học, soạn nhạc, triết học, lí luận phê bình… mặt nào cũng rất tài hoa. Về thơ ca, ông đã có những đóng góp quan trọng cho nền văn học Việt Nam với giọng thơ sôi nổi, đằm thắm và sâu lắng nhưng lại tao nhã, giản dị gần gũi với mọi người. Tác phẩm nổi bật trong thời kì này là bài thơ Đất nước. Được sáng tác từ 1948-1955, sự kết hợp hai bài thơ Đêm mít tinh và Sáng mát trong như sáng năm xưa đã giúp tác giả hình thành thái độ trân trọng, một cái nhìn đầy đủ về hình ảnh đất nước. Đất nước thực sự là cuốn biên niên sử bằng thơ hào hùng, oanh liệt, vinh quang và rực rỡ của dân tộc.
Mở đầu bài thơ, Nguyễn Đình Thi đã lấy hình ảnh mùa thu đã xa, một mùa thu với những kí ức và hình ảnh đã thuộc về quá khứ.
Sáng mát trong như sáng năm xưa
Gió thổi mùa thu hương cốm mới
Tôi nhớ những ngày thu đã xa
Nguyễn Đình Thi đứng trước mùa thu của hiện tại và hồi tưởng về mùa thu quá khứ. Với hình ảnh thu trong lành, mát trong của sáng sớm, với gió mùa thu mang theo hương cốm, tác giả khiến người đọc cảm nhận một mùa thu quen thuộc, một mùa thu xưa đẹp đẽ. Vẻ đẹp của mùa thu, với tác giả, muôn đời vẫn vậy chẳng đổi thay, nỗi nhớ thương về cùng hoài niệm.
Chỉ với một câu thơ "gió thổi mùa thu hương cốm mới" đà đánh thức trong lòng người đọc hình ảnh mùa thu Hà Nội với vẻ đẹp truyền thống, tao nhã, bền vững và cổ xưa. Một chút gió héo may, một chút hương cốm thơm nức. Một hình ảnh quen thuộc kéo dài từ năm này qua năm khác không đổi thay.
Câu thơ "tôi nhớ những mùa thu đã xa" giống như câu thơ bản lề, chuyển hướng, đẩy tâm sự người đọc hướng về hiện tại:
Sáng chớm, lạnh trong lòng Hà Nội
Những phố dài xao xác hơi may
Người ra đi đầu không ngoảnh lại
Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy
Khổ thơ sau vẫn là nhịp điệu chậm rãi, tràn đầy nhung nhớ. Nguyễn Đình Thi lại nhắc lại hình ảnh "sáng". Nhưng ánh thu Hà Nội của hiện tại đẹp mà buồn, gợi bao sự thương nhớ. Sáng mùa thu chớm lạnh trong lòng Hà Nội, hay đúng hơn là cái chớm lạnh của lòng người trước mỗi đợt, mỗi khoảnh khắc thu về. Cái tinh tế của nhà thơ được thể hiện qua câu chữ "trong lòng Hà Nội". Liệu có phải đây thực ra là nỗi nhớ qua những câu thơ đầy khắc khoải và ám ảnh.
Ở đây, còn gợi thêm một hình ảnh nữa về đặc trưng của Hà Nội: "Con phố dài" và, thêm một nét tinh tế nữa của nhà thơ, đó là việc sử dụng từ láy "xao xác". Tất cả đều gợi ra sự vắng vẻ, hiu quanh. Sự "xao xác" của lá thu hay là nỗi tâm sự đong đầy. Hình ảnh gió xao xác kết hợp với hình ảnh con phố dài đã tạo ra sự thu hút, sự sâu thẳm.
Và, thật đột ngột, mạch cảm xúc của tác giả thay đổi, với hình ảnh người ra đi. Câu thơ thứ ba như một cái hất đầu ngạo nghễ, một sự quyết tâm đầy kiêu hãnh với chí lớn mang trong người. Nhưng câu thơ cuối lại là một tình cảm sâu lắng, trực tiếp, cảm xúc được dàn trải đều qua trang giấy qua cách ngắt nhịp của tác giả.
Có người nói, hình ảnh của Hà Nội đã thu lại trong câu thơ cuối: "thềm nắng lá rơi đầy". Câu thơ đẹp và giàu sắc thái thẩm mĩ. Bức tranh thu Hà Nội thấm đầy nắng, gợi nên sắc thái quyến rũ trong tâm trí người ra đi. Mà có khi làm sao mà đi nổi khi một Hà Nội đẹp thế, quyến rũ như thế cứ níu chân chẳng cho đi, làm sao không khỏi mềm lòng.
Đó là mùa thu của quá khứ, còn mùa thu của bây giờ, của hiện tại rực rỡ hơn, tươi mát hơn. Và tự hào hơn trong lòng tác giả
Mùa thu nay khác rồi
Tôi đứng vui nghe giữa núi đồi
Gió thổi rừng tre phấp phới
Trời thu thay áo mới
Trong biếc nói cười thiết tha
Một lời khẳng định đầy kiêu hãnh, gợi mở cho người đọc hướng về hình ảnh mùa thu trong sự đổi mới với mùa thu xưa. Chữ "khác" dường như không chỉ là sự khác biệt về thời gian, không gian như xưa, nay mà còn là sự khác biệt trong nhận thức và tư tưởng của con người. Vì một lẽ đơn giản là muôn đời thu vẫn thế, vẫn gió heo may cùng hương cốm. Vấn đề là cảm nhận của con người mà thôi. Mùa thu xưa là mùa thu của dân tộc nô lệ. Kiếp người khổ đau, vì vậy mà thu có vẻ ảm đạm và thê lương. Khi đã độc lập, mùa thu như rạng rỡ hơn, chan hòa hơn. Giữa sự thay đổi của đất trời, của cuộc đời mới, mỗi người cũng hòa vào tiếng vui chung. Con người giao hòa với đất trời và vũ trụ. Con người lắng nghe được âm hưởng vui mừng của niềm vui độc lập, đó là niềm hạnh phúc tột độ.
Ở đây, không gian thu được mở rộng khoáng đạt hơn. Với tiếng gió thổi rừng tre phấp phới. Vẫn là gió thu, nhưng không phải lặng lẽ, buồn bã, mà là tiếng gió (thổi vào rừng tre) phấp phới. Như muốn gửi trọn niềm vui của con người vào thiên nhiên, vũ trụ.
Hình ảnh rừng tre tượng trưng cho sức mạnh Việt Nam, vẻ đẹp của Việt Nam, niềm vui của thu độc lập. Tất cả như muốn cất lên tiếng reo ca tột độ.
Và trong xúc cảm thăng hoa, Nguyễn Đình Thi có những câu thơ hết mực tài hoa:
Trời thu thay áo mới
Trong biếc nói cười thiết tha
Mùa thu như được nhân hóa. Và người đọc cảm thấy mùa thu như một thiếu nữ điệu đà, thướt tha đang khoác tấm áo mới rạng rỡ, tươi tắn và dịu dàng. Phải chăng tấm áo ấy là của sự độc lập, tự do của dân tộc.
Mùa thu ở đây vừa có nét tươi trong trẻo của một mùa thu muôn đời, lại vừa có sự phấn khởi, vui mừng. Câu thơ đã gợi ra tất cả xúc cảm, sâu lắng, huyên náo… tạo ra sự giao hòa giữa niềm vui của con người và niềm vui của đất trời trong ngày độc lập.
Và cảm xúc của nhà thơ như trải dài qua khổ thơ:
Trời xanh đay là của chúng ta
Núi rừng đây là của chúng ta
Những cánh đồng thơm mát
Những ngả đường bát ngát
Những dòng sông đỏ nặng phù sa
Các câu thơ như cuốn vào nhau. Với cách ngắt nhịp mạnh mẽ, ngắn, tạo ra âm hưởng hùng tráng, tràn đầy niềm tự hào.
Nguyễn Đình Thi bây giờ như đang là một hướng dẫn viên, giới thiệu và tỏ bày với mọi người về cảnh sắc quê hương. Đây là núi rừng, trời xanh, kia là cánh đồng, ngả đường, xa hơn nữa là dòng sông.
Tất cả như đang phơi bày vẻ đẹp, sự mỹ lệ vốn có của bản thân. Hay nói đúng hơn, đây là sự háo hức, tất cả sự hãnh diện, vinh dự với tư cách là "người làm chủ". Tác giả nhấn mạnh vào quan hệ từ "của" như muốn khẳng định sự sở hữu và quyền tự chủ của bản thân.
Ở đây đã có sự thay đổi về cách xưng hô, có sự hòa nhập giữa cái tôi của Nguyễn Đình Thi, của người nghệ sĩ với cái chung của cả dân tộc. Nguyễn Đình Thi không chỉ nói tiếng nói chung của mình mà còn nói tiếng nói chung của cả dân tộc, của mọi người bằng hai tiếng "chúng ta” đầy kiêu hãnh.
Vào thời Pháp thuộc, không hề có chuyện quan niệm "chúng ta". Tất cả đều đặt dưới sự kiểm duyệt gắt gao của bọn thực dân. Chỉ có thời đại mới, chỉ có xã hội và cái chung "của chúng ta", chỉ có thời đại mới, chúng ta mới có thể hít thở không khí mát lành của thu tự do, chứ không còn bức bối ngột ngạt như trước. Nguyễn Đình Thi như muốn, khẳng định tính ưu biệt của xã hội mới.
Cảm xúc dâng trào khi nghĩ về sự tự do, độc lập, niềm vui mừng hân hoan bỗng nhiên trầm lắng trong sự suy tưởng.
Nước chúng ta
Nước những người chưa bao giờ khuất
Đêm đêm rì rầm trong tiếng đất
Những buổi ngày xưa vọng nói về
Nhịp thơ bỗng thay đổi, mang xúc cảm trầm lắng, ẩn chứa thái độ thành kính thiêng liêng, hướng người đọc trở về quá khứ lịch sử của quê hương.
Khi con người ta vui mừng, hân hoan về một chiến thắng thì bao giờ, sau đó cũng sẽ là những giây phút trầm mặc suy nghĩ về cái giá của chiến thắng đó.
Tứ thơ của Nguyễn Đình Thi về đất nước tạo nên một chiều sâu không cùng. Đất nước ở đây không chỉ được cảm nhận ở hiện tại mà được nhìn nhận trong chiều sâu quá khứ. Quá khứ là bệ phóng, điểm tựa của hiện tại. Theo ông, đất nước ở đây là đất nước của những con người bất tử, chưa bao giờ khuất phục. Chữ "rì rầm" kết hợp với từ "vọng" tạo ra sự hô hứng, cộng hưởng kì diệu. Như thể người cảm nhận được cái cao cả, thiêng liêng, sự gần gũi và thân thiết.
Nguyễn Đình Thi như muốn nêu lên bài học lịch sử cha ông, đạo lý của cha ông được ghi tạc lại trong tâm khảm mỗi con người Việt Nam, ngỡ như lời trò chuyện, tâm tình, thú vị của những người xưa. Tạo nên xúc cảm thiêng liêng thành kính nhưng lại thân thiết và gần gũi. Khổ thơ như khúc nhạc trầm trong bản Instrumental (hòa tan) của Đất nước.
Khi suy nghĩ về tự do, độc lập, về bài học lịch sử của cha ông, Nguyễn Đình Thi hướng dòng suy nghĩ của mình về quá khứ đấu tranh của dân tộc, với những khốc liệt vốn có của nó:
Ôi những cánh đồng quê chảy máu
Dây thép gai đâm nát trời chiều
Những đêm dài hành quần nung nấu
Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu
Những câu thơ tràn ngập cảm xúc đau thương sâu lắng. Hai câu đầu, có thể coi là hai câu đặc sắc thể hiện tài hoa của nghệ sĩ. Thơ của Nguyễn Đình Thi không chỉ giàu hình ảnh mà đầy ắp tính nhạc và hội họa. Các hình ảnh thơ mang giá trị hiện thực cao, sử dụng biện pháp tu từ đặc sắc: cánh đồng quê chảy máu, dây thép gai đâm nát trời., gợi ra một nỗi đau khôn cùng.
Vẻ đẹp bình yên của làng quê đã bị lãng quên, cái yên ả của không gian không còn. Thay vào đó là hình ảnh dây thép gai với tội ác chồng chất của kẻ thù và cánh đồng máu đầy sự đau thương. Câu thơ diễn tả sự khốc liệt của chiến tranh và tội ác ghê ghớm của quân thù, bộc lộ một nỗi đau lên đến tận cùng. Nỗi đau càng lớn, niềm căm thù càng sâu sắc.
Cái tài của tác giả là tự gửi vào thơ chất điện ảnh và hội họa đặc tả. Đọc thơ, người đọc như thấy trước mắt mình là cả hiện thực khốc liệt của những năm tháng khổ đau một cách tường tận và chi tiết. Ngòi bút của Nguyễn Đình Thi như một máy quay phim tài ba và đặc biệt giúp cho người đọc nhận ra một bức tranh ngập đầy máu của chiến tranh.
Nỗi đau của con người và màu của ráng chiều đổ xuống gợi nên một màu tang tóc, đau thương. Màu máu đỏ là thay thế hoàn toàn cho sắc xanh của bầu trời, màu vàng óng của cánh đồng lúa.
Nhưng ở hai câu sau, mạch cảm xúc có sự chuyển đổi. Tác giả nói tới hình ảnh của người chiến sĩ ra trận từ trong đau thương, đã quyết tâm nung nấu một ý chí mạnh mẽ. Câu thơ giàu chất hiện thực và chất lãng mạn. Vẽ nên hình ảnh sống động của người lính kiên cường bất khuất, lại vừa sâu lắng và lãng mạn của bài thơ.
Và ở khổ thơ tiếp, Nguyễn Đình Thi đã lí giải sâu xa về sức sống, tinh thần ý chí chiến đấu của người dân.
Từ những nam đau thương chiến đấu
Đã ngời lên nét mặt quê hương
Từ gốc lúa bờ tre hồn hậu
Đã bật lên những tiếng căm hờn
Câu thơ ngắt nhịp khỏe, rắn rỏi, thể hiện sâu sắc niềm tự hào, kiêu hãnh của tác giả về sức sống và vẻ đẹp của cả dân tộc. Từ "ngời" và "bật" được dùng rất hay, sự trỗi dậy, hồi sinh kỳ diệu, sự tỏa sáng, sức sống của dân tộc.
Vẻ đẹp quê hương, sức sống dân tộc được khơi nguồn sâu xa từ năm tháng thương đau. Từ hình ảnh con người bình dị, chân lấm tay bùn đã vươn lên thành anh hùng dũng cảm trong hành động, kiên định trong ý chí. Tứ thơ gợi ra chiều sâu của suy tưởng ở khổ thơ tiếp:
Bát cơm chan đầy nước mắt
Bay còn giằng khỏi miệng ta
Thằng giặc Tây thằng chúa đất
Đứa đe cổ, đứa lột da
Đã khắc họa trực tiếp tội ác của kẻ thù với niềm căm thù, nỗi đau tột cùng của nhân dân. Hình ảnh "bát cơm chan đầy nước mắt" là hình ảnh mang tính biểu tượng. Mồ hôi hòa quyện với nước mắt. Câu thơ gợi ra nỗi đau. Sự xót xa của con người trong nô lệ, Cách xưng hô đối lập giữa một bên là chính nghĩa: ta, cùng với một bên là sự phi nghĩa: bọn thằng, đứa… như bao căm thù và uất hận được dồn lại.
Nhưng cho dù chiến tranh có khốc liệt như thế nào, dù quân thù tàn bạo đến dâu, chúng ta vẫn mang trong mình một khí phách anh hùng.
Xiềng xích chúng bay không khóa được
Trời đầy chim và đất đầy hoa
Súng đạn chúng bay không bắn được
Lòng dân ta yêu nước thương nhà
Cấu trúc "không", "đầy" như muốn phủ định lại những gì mà quân đội Pháp đang cố gắng làm ở Việt Nam và khẳng định khí phách ngạo nghễ rất cao của dân tộc.
Nhịp thơ mạnh mẽ, đanh thép làm cho câu thơ trở nên giàu sức biểu tượng. Sự đối lập giữa hai hình ảnh thơ "xiềng xích" và "trời đầy chim, đất đầy hoa" đã thể hiện tinh thần lạc quan của nhân dân, khí phách anh hùng của dân tộc bất chấp sự tàn khốc của chiến tranh và quân thù. Thể hiện sự tin tưởng vào chiến thắng sau này.
Nguyễn Đình Thi đã chạm đến mạch nguồn sâu xa của truyền thống dân tộc và đã khẳng định rằng: dân tộc Việt Nam không chỉ có khí phách anh hùng mà còn có khát vọng tự do và hòa bình.
Ở hai khổ tiếp theo, Nguyễn Đình Thi đã miêu tả cuộc chiến đấu của nhân dân ta:
Khói nhà máy cuộn trong sương núi
Kèn gọi quân văng vẳng cánh đồng
Ôm đất nước những người áo vải
Đã đứng lên thành những anh hùng
Ngày nắng đốt theo đêm mưa dội
Mỗi bước đường mỗi bước hi sinh
Trán cháy rực nghĩ trời đất mới
Lòng ta bát ngát ánh bình minh
Đó là niềm tin và hi vọng chiến thắng mạnh mẽ trong lòng tác giả.
Nhịp thơ như giục giã, vẫy gọi mỗi con người trên con đường ra trận, tạo ra âm hưởng hào hùng của những con người anh hùng trong một đất nước anh hùng.
Đó còn là sự tự hào của tác giả, những câu thơ đậm chất lãng mạn và sử thi. Thể hiện một cảm xúc tươi mới đầy tin tưởng. Tràn đầy âm hưởng hào hùng. Hai hình ảnh "nắng đốt" và "mưa dội" là quá trình gian khổ thăng trầm của dân tộc. Song từ trong gian khổ, khó khăn ấy, dân tộc vẫn đứng lên.
Hai câu thơ kết giàu hình ảnh tráng lệ. Hình ảnh "trán cháy rực" và "bát ngát ánh bình minh” gợi lên nét vẽ rạng ngời về những đứa con của Tổ quốc. Dù có hi sinh, vất vả thì vẫn quyết tâm giành lại độc lập. Hình ảnh rất độc đáo, diễn tả sự thăng hoa của cảm xúc, niềm tin được thắp sáng. Người đọc hình dung được hình ảnh ngọn lửa của thất vọng. Câu thơ cuối tràn đầy kiêu hãnh, niềm vui, khát vọng bùng nổ hi vọng. Sự bát ngát của trời đất là sự bát ngát của niềm tin con người.
Và giờ đây, qua bao nhiều khó khăn, khốc liệt, bao hi sinh, đất nước ta đã được độc lập.
Súng nổ rung trời giận giữ
Người lên như nước vỡ bờ
Nước Việt Nam từ máu lửa
Rũ bùn đứng dậy sáng lòa
Hai câu đầu tái hiện sinh động không khí của cuộc chiến, cùng với khí phách anh hùng của con người Việt Nam.
Câu thơ thứ nhất ngập tràn tiếng rung, khiến người đọc cảm nhận được sự dữ dội. Động từ "rung" được dùng khá chính xác, không chỉ là sự rung chuyển, khuynh đảo mạnh mẽ mà còn diễn tả niềm căm thù tột cùng đối với quân thù.
Nguyễn Đình Thi đã sử dụng biện pháp nhân hóa và so sánh tài tình. Ông khiến cho người đọc, ngay lập tức sau khi đọc song hai câu đầu, cảm nhận được sự khốc liệt và sự mạnh mẽ, khí thế của quân đội ta phải ngập trời đất.
Đến tận cuối bài thơ, tác giả mới gọi tên Việt Nam với sự tự do, tự chủ, sự kiêu hãnh. Ông cảm nhận được hình ảnh đất nước trong lòng.
Từ máu lửa và bùn đen đã bật dậy và sáng lòa, rực rỡ huy hoàng. Câu thơ giàu giá trị biểu tượng và tính khái quát, cộng với tính nghệ thuật rất cao. Nhịp thơ 2/2/2. Vận động khỏe khoắn, sự vươn lên của dân tộc bởi một sức sống kì vĩ và bất tử.
Bài thơ kết thúc bằng ánh sáng, thể hiện niềm tin và khát vọng mạnh mẽ, vinh quang. Đất nước đã ghi lại và vẽ nên một hình ảnh đất nước Việt Nam với bao thăng trầm, khói lửa để đến được ngày độc lập. Đất nước xứng đáng dược coi là cuốn biên niên sử nước ta bằng thơ. Đây là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa sử thi và sáng tạo nghệ thuật tài năng của Nguyễn Đình Thi.
– Bài làm 3
Nguyễn Đình Thi là nhà thơ có nhiều đóng gió to lớn cho sự nghiệp phát triển của đất nước, ông là nhà thơ yêu nước và đã hình dung ra một đất nước anh hùng trong thơ ca của mình để từ đó nhân dân ta có những sáng tác hào hùng về những quãng thời gian đó, tự hào và nổi bật lên đó là bài thơ đất nước.
Thơ của Nguyễn Đình Thi dạt dào tình cảm và đó là những tình cảm về tình yêu quê hương đất nước, đất nước trong thơ ca của ông là một đất nước chịu nhiều đau thương nay biết vươn lên đấu tranh để tạo nên những khoảng thời gian sáng lòa trong giây phút hào hùng của dân tộc, thơ của ông mang những cung bậc cảm xúc riêng và nó thấm đẫm tư tưởng và những niềm tự hào sâu sắc, đất nước nó là một chủ đề mà biết bao nhưng thi sĩ đã sáng tác nhưng đối với thơ ca của Nguyễn Đình Thi nó lại có những điểm độc đáo và riêng biệt, bài thơ này là những suy nghĩ và trăn trở về một đất nước, từ đó tác giả đã có những cảm xúc dạt dào và nó sâu lắng trong tâm hồn của tác giả, ông đang hình dung lại những hình ảnh về một đất nước sâu lắng từ xưa đến nay, hình ảnh đó đã vang dội và làm sáng lòa lên một đất nước hào hùng nhưng phải chịu nhiều đau thương, những nỗi niềm đó đã được thể hiện một cách sâu sắc và thầm kín:
Sáng mát trong như sáng năm xưa
Gió thổi mùa thu hương cốm mới
Tôi nhớ những ngày thu đã xa
Sáng chớm lạnh trong lòng Hà Nội
Những phố dài xao xác hơi may
Người ra đi đầu không ngoảnh lại
Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy.
Một nỗi nhớ nghẹn ngào trong thơ ca của tác giả khi ông thể hiện những hình ảnh đó thật sinh động và mang những cũng bậc cảm xúc riêng, đó là những hình ảnh đất nước đã biết vươn lên từ những đau thương của chiến tranh để có những giây phút lắng đọng trong tâm hồn của con người tác giả đang hình dung lại hàng loạt những hình ảnh đó để nói lên những cảm xúc ngọt ngào trong tâm hồn của mình, những hình ảnh về màu thu Hà Nội đã được tác giả thể hiện một cách sinh động và vô cùng hấp dẫn, hình ảnh hương cốm và những làn gió thu ngào ngạt đủ để cho tác giả nhớ thương tới vùng quê hương của mình, những con phố dài lê thê cùng với hương cốm bay ngào ngạt trong những khoảng không gian của mùa thu đã làm cho tác giả đang nhớ mong về thời gian của mình, tác giả dường như đang gợi nhớ lại những kỉ niệm mà trong đó có những hình ảnh gợi tả cảm giác và những nỗi nhớ mong sâu lắng. Hình ảnh về mùa thu làm cho tâm hồn của tác giả có những se lạnh và buồn trong tâm hồn đó là những khoảng thời gian mà tác giả đang nhớ mong lại trong khoảng thời gian của mình, những hình ảnh đó đã tạo nên những nỗi nhớ mong da diết:
Mùa thu nay khác rồi
Tôi đứng vui nghe giữa núi đồi
Gió thổi rừng tre phấp phới
Trời thu thay áo mới
Trong biếc nói cười thiết tha!
Trời xanh đây là của chúng ta
Núi rừng đây là của chúng ta
Những cánh đồng thơm mát
Những ngả đường bát ngát
Những dòng sông đỏ nặng phù sa
Tác giả không muốn ra đi khỏi vùng đất yêu thương này trong tâm hồn của tác giả đã thấm đượm những cảm xúc khó quên nó mang đậm màu sắc và những hình ảnh của quê hương đủ để cho tác giả không ngừng nguôi nhớ về những quãng thời gian ở đây, nó đã mang đậm trong tâm hồn của tác giả bởi những hình ảnh quen thuộc và cũng đậm đà bản sắc của một vùng quê đang tha thiết yêu thương, và mang đậm tình yêu và nỗi nhớ về một miền quê tha thiết, tác giả đã thể hiện những điều đó qua những cung bậc tình yêu ngọt ngào của mình đối với miền đất cổ kính này. Khi đi về một miền đất mới tác giả cũng không ngừng nguôi nhớ về màu thu Hà Nội nhưng đó chỉ còn là trong kí ức những từ ngữ mà tác giả thể hiện nó thật khác, mùa thu ở Việt Bắc và mùa thu Hà Nội đã có những khác nhau và tác giả đã nói về những nỗi khác nhau đó, mùa thu ở Việt bắc không còn mùi hương cốm bay ngào ngạt nữa mà nay chỉ còn thấy đồi núi và rừng cây, cánh đồng và dòng sông:
Những buổi ngày xưa vọng nói về!
Ôi những cánh đồng quê chảy máu
Dây thép gai đâm nát trời chiều
Những đêm dài hành quân nung nấu
Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu.
Từ những năm đau thương chiến đấu
Ðã ngời lên nét mặt quê hương
Trong một miền đất mới đã thể hiện được những cảm xúc của tác giả chuyển lên vùng đất này tác giả đang sâu lắng trong tâm hồn những hoài niệm và tình cảm đó đã thắm thiết qua từng trang sách của ông, tình yêu thương về một miền mất mới đã làm cho chúng ta có những cảm xúc đặc biệt và vùng đất này là một vùng đất đã thấm đậm những cảm xúc mới một niềm tin về một đất nước anh hùng đã được thể hiện sâu động trong từng tác phẩm, những cung bậc khác nó cũng thể hiện được chi tiết và cảm xúc mà tác giả muốn thể hiện, những cánh đồng bát ngát, những rừng cây bạt ngàn và cả một tâm hồn hứa sẽ hy sinh để bảo vệ cho đất nước của chúng ta, mỗi hình ảnh là một niềm tin bất tận về những đau đớn trong hoàn cảnh của đất nước, niềm tin yêu đó đã tạo nên những điều ngọt ngào và sâu lắng hơn trong tim mỗi người, vùng chiến đấu mới có rất nhiều những gian nan và nguy hiểm nhưng chúng ta cần cố gắng và anh dũng để bảo vệ nền độc lập của dân tộc, những phấn đấu mạnh mẽ đó tạo nên cho chúng ta những hoài niệm cổ và nó mang đậm dấu ấn sâu sắc, những niềm tin yêu và những điều bất tận trong tâm hồn của mỗi nhà thơ:
Khói nhà máy cuộn trong sương núi
Kèn gọi quân văng vẳng cánh đồng
Ôm đất nước những người áo vải
Ðã đứng lên thành những anh hùng.
Ngày nắng đốt theo đêm mưa dội
Mỗi bước đường mỗi bước hy sinh
Trán cháy rực nghĩ trời đất mới
Lòng ta bát ngát ánh bình minh.
Súng nổ rung trời giận dữ
Người lên như nước vỡ bờ
Nước Việt Nam từ máu lửa
Rũ bùn đứng dậy sáng lòa.
Đất nước ta đã trải qua những thời kì đau thương và giờ đây khi những người anh hùng của đất nước đã đứng lên chúng ta có quyền tự hào và có những âm điệu khác thể hiện được những nỗi nhớ thương đó, hình ảnh về một đất nước anh hùng về một đất nước mến thương đã thể hiện được trong tim của tác giả, tác giả đã hình dung và dùng lời thơ sắc đá của mình để nói về một đất nước anh hùng và trải qua những điều thật đau thương nhưng không chịu gục ngã, chúng ta vẫn chiến đấu kiên cường để bảo vệ một đất nước mến thương với những gian nan mà chúng ta đã trải qua chúng ta có thể tự hào về một dân tộc mình, một dân tộc đã kiên trì và bền bỉ để vươn lên nó làm cho chúng ta đủ để tự hào về truyền thống quý báu của dân tộc, những nỗi niềm mà tác giả thể hiện nó đã mang đậm dấu ấn và những nét đặc sắc trong tâm hồn của tác giả không chỉ hôm nay nó ảnh hưởng tới con người và còn những ngày tiếp theo nữa.
Đất nước trong đau thương chiến tranh đã được tác giả thể hiện rất sinh động, những cánh đồng chảy máu những dây thép gai đâm chảy máu, những hình ảnh đau thương đó đã làm cho chúng ta thêm lòng căm thù sâu sắc với những kẻ đã gây ra những mất mát đau thương này, chúng ta căm thù những quân giặc đã cướp đi sự bình yên thanh bình trong cuộc sống của chúng ta, mỗi người đều có ý thức và trách nhiệm phải bảo vệ vùng đất quê hương của mình, những hình ảnh đó đã thúc dục cho chúng ta lòng yêu nước nồng nàn và ý chí quyết tâm đánh thắng kẻ thù xâm lược đó là những điều mà dân tộc ta đang phấn đấu và quyết tâm bảo vệ đất nước trong từng ngày từng giờ và khi đất nước đã trải qua những điều đó thì chúng ta có thể rất tự hào về vùng đất mà đã sinh ra những vị anh hùng sẵn sàng xả thân vì đất nước. Trải qua chiều dài lịch sử và những đau thương chúng ta có thể tự hào và có những đóng góp sức lực của mình cho một vùng đất đã từng ngày từng bước trải qua những đắng cay và nó tạo nên cho chúng ta những nỗi niềm tự hào riêng và thật sâu đậm.
Đất nước ta xuất phát từ những lòng yêu nước và khi trải qua những đau thương đó dân tộc ta luôn tự hào khi có những người anh hùng và một đất nước đã đứng lên sau bao tổn thương mạnh mẽ về cả mặt thể xác và tinh thần, niềm tự hào đó là vô bờ bến, trong khoảng không gian rộng lớn của trời đất bao la chúng ta ngày càng yêu mến quê hương của mình hơn khi đất nước đã rũ bùn đứng dậy sáng lòa trước những chông gai và những thử thách.
Đất nước trong thơ của Nguyễn Đình Thi đã mang đậm những dấu ấn sâu sắc, chúng ta ngày càng tự hào về một dân tộc anh hùng và cũng phải chịu nhiều đau thương.