Phan tich bai ca ngat nguong – Đề bài: Phân tích Bài ca ngất ngưởng cửa Nguyễn Công Trứ. Bài phân tích của một học sinh lớp 11 trường THPT Đặng Trần Côn. Nguyễn Công Trứ (1778 – 1858) xuất thân dòng dõi Nho gia, quê ở làng Uy Viễn, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. Nhìn vào cuộc đời Nguyễn Công Trứ, chúng ta sẽ thấy rõ hai nét thấm nhuần đến tận chân tơ kẽ tóc đạo trung hiếu quân thần và ý thức rất rõ vể tài đức của mình. Điều đáng quý là ông đem ...
– Đề bài: . Bài phân tích của một học sinh lớp 11 trường THPT Đặng Trần Côn.
Nguyễn Công Trứ (1778 – 1858) xuất thân dòng dõi Nho gia, quê ở làng Uy Viễn, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. Nhìn vào cuộc đời Nguyễn Công Trứ, chúng ta sẽ thấy rõ hai nét thấm nhuần đến tận chân tơ kẽ tóc đạo trung hiếu quân thần và ý thức rất rõ vể tài đức của mình. Điều đáng quý là ông đem hết tài đức cống hiến cho nước, cho dân trên nhiều lĩnh vực hoạt động xã hội, từ văn hoá đến kinh tế, quân sự và đã làm nên sự nghiệp, danh tiếng để đời. Chí hướng, nhiệt huyết ấy đương thời ít người sánh kịp. Tuy nhiên, con đường làm quan của Nguyễn Công Trứ không bằng phẳng mà thăng giáng thất thường, bởi cá tính mạnh mẽ và phong cách ngất ngưởng của ông vượt khỏi khuôn khổ chật hẹp của lễ giáo phong kiến.
Bất ngờ thú vị là ông quan lớn có tài kinh bảng tế thế như vậy mà lại có thêm tài văn chương, tâm hồn nghệ sĩ và cốt cách tài tử phong lưu, biết sống và dám sống. Sau khi cống hiến hết mình cho dân cho nước và công việc đã hoàn thành tốt đẹp thì Nguyễn Công Trứ thường tự thưởng bằng những thú chơi thanh nhã: Nợ tang bồng trang trắng vỗ tay reo… Thảnh thơi thơ túi rượu bầu, hoặc thả hồn mơ màng theo tiếng địch, tiếng đàn du dương, trầm bổng.
Có thể coi Bài ca ngất ngưởng là bản tự thuật ngắn gọn có ý nghĩa tổng kết cuộc đời và tính cách của Uy Viễn tướng công. Nguyễn Công Trứ đã phô trương thái độ ngang tàng, một lối sống chân thật, dám khẳng định bản lĩnh cá nhân vượt ra ngoài khuôn khổ Nho giáo. Cảm xúc phóng túng được tác giả gửi vào thể ca trù có hình thức tương đối tự do, vừa là thơ vừa là ca, là nhạc:
Vũ trụ nội mạc phi phận sự,
Ông Hi Văn tài bộ đã vào lồng.
Khi Thủ khoa, khi Tham tán, khi Tổng đốc Đông,
Gồm thao lược đã nên tay ngất ngưởng.
Lúc bình Tây, cờ đại tướng,
Có khi về Phủ doãn Thừa Thiên.
Đô môn giải tổ chi niên,
Đạc ngựa bò vàng đeo ngất ngưởng.
Kìa núi nọ phau phau mây trắng,
Tay kiếm cung mà nôn dạng từ bì.
Gót tiên theo đừng đỉnh một đôi dì,
Bụt cũng nực cười ông ngất ngưởng.
Được mất dương dương người thái thượng,
Khen chê phơi phới ngọn đông phong.
Khi ca, khi tửu, khi cắc, khi tùng,
Không Phật, không Tiên, không vướng tục.
Chẳng Trái, Nhạc cũng vào phường Hàn, Phú,
Nghĩa vua tôi cho vẹn đạo sơ chung.
Trong triều ai ngất ngưởng như ông Ị
Tình thần của bài thơ toát lên thái độ ngất ngưởng. Thái độ ấy không chi thể hiện ở tựa đề mà còn ở bốn lần tác giả nhắc lại tính từ ngất ngưởng như một sự trùng lặp cố ý, tạo thành điệp khúc đúng vào chỗ đúc kết ý trên và mở ra ý dưới.
Theo Từ điển tiếng Việt của Viện ngôn ngữ học (2003), từ ngất ngưởng đồng nghĩa với từ ngất nghểu, được dùng để chi người ở tư thế trên cao không vững vàng, lắc lư nghiêng ngả như chực ngã. Trong Bài ca ngất ngưởng, Nguyễn Công Trứ không dừng từ ngất ngưởng theo nghĩa này mà lồng vào đó một thái độ, một quan niệm sống khác người. Tất nhiên, muốn ngất ngưởng được như ông phải có bản lĩnh cứng cội, có lòng tin tuyệt đối vào bản thân và biết coi rẻ sự được mất, khen chê của thế gian theo thói thường. Những chức vụ Nguyễn Công Trứ đã trải qua và cung cách hành xử mà ông đã thể hiện dù khi tại chức hay khi đã về hưu được kể tới trong bài thơ này đều cho thấy ông quả là một tay ngất ngưởng hiếm có. Hơn thế, ngay cách kể về sự ngất ngưởng cũng góp phần tô đậm tính cách ngất ngưởng của ông.
Phong thái ngất ngưởng khác người ấy của Nguyễn Công Trứ vốn có từ trước, kể cả trong thời gian làm quan, hằng ngày ra vào nơi triều chính, nhưng nó bộc phát mạnh mẽ và không cần giấu giếm từ sau khi Đô môn giải tổ chi niên (trả lại ấn tín, vua cho nghĩ hưu, trở về cuộc sống đời thường). Bởi vì thái độ ngất ngưởng như thế không được phép diễn ra trước mắt các ông vua chuyện chế của triều đình nhà Nguyễn.
Mở đầu bài thơ, tác giả viết: Vũ trụ nội,mạc phi phận sự, có nghĩa ỉà mọi việc trong vũ trụ, chẳng có việc nào mà không phải là phận sự của ta. Cách nói phủ định để khẳng định ấy đề cao tâm thế của một nhà Nho chân chính.
Tác giả đặt mình ngang tầm vũ trụ nhưng rồi lại làm ra vẻ khiêm tốn tự nhận: Ông Hi Văn tài bộ đã vào lồng.
Làm quan, ông coi là đã vào lồng, tức là vào khuôn phép nghiêm ngặt, tù túng của Tam cương, Ngũ thường. Mà như thế ỉà mất tự do, là trái với tài đội trời đạp đất của ông. Biết vậy nhưng ông vẫn tham gia triều chính vì đó là phương tiện để ông thể hiện tài năng và hoài bão của minh.
Gách xưng hô trong bài thơ có nét độc đáo. Mới đọc qua ta sẽ tưởng rằng tác giả không phải là Nguyễn Công Trứ vì các đại từ thuộc ngôi thứ ba (ông, tay) được dùng thay cho đại từ ngôi thứ nhất (tôi, ta). Qua đó, nhà thd chứng tỏ rằng mình là một giá trị hỉển nhiên giữa đời, không thể phủ nhận.
Nguyễn Công Trứ vừa mới để cao vai trò bản thân trong Vũ trụ ở câu thứ nhất thì ngay câu thứ hai đã tự trách mình là đem cái tài bộ ấy nhốt vào lổng: Tuy thế, ông không giấu sự khoan khoái, tự hào khi nhắc tới những mốc son của đời mình, dù mỗi sự kiện chĩ được nhắc bằng vài chữ như dửng dưng, không có gì là quan trọng:
Khi Thủ khoa, khi Tham tán, khi Tổng đốc Đông…
Lúc binh Tây, cờ đại tướng,
Có khi về Phủ doãn Thừa Thiên.
Nếu theo đúng lời ông kể trong bài thơ thì ông không chỉ làm quan mà còn làm quan to, không bị giáng chức như trong cuộc đời thực mà còn luôn luôn thăng tiến. Năm 1819, ông đỗ Giải nguyên kì thi Hương; năm 1833 làm Tham tán quân vụ; năm 1835 làm Tổng đốc hai tỉnh Hải Dương và Quảng Yên; năm 1841 thăng Tham tán đại thần chỉ huy quân sự ở vùng Tây Nam Bộ; năm 1848 chính thức làm Phủ doãn Thừa Thiên. Con đường công danh thênh thênh rộng mở cho đến khi ông được vua cho phép giải tổ chi niên.
Nhắc đến những sự kiện lớn lao hiển hách trong đời mình mà giọng kể của ông nghe như bỡn cợt, đùa chơi. Đỗ Thủ khoa (đỗ đầu cử nhân khoa thi Hương trường Nghệ An), làm Tham tán quân sự…, những chức vụ ấy nổi sơ qua cũng được, nhưng làm đến Tổng đốc Hải An (Hải Dương và Quảng Yên), một chức quan to đứng đầu mấy tĩnh, hay lĩnh chức đại tướng bình Tây (xứ Tây Nam nước ta) mà chỉ gọi cộc lốc là khi Tổng đốc Đông và bình Tây cờ đại tướng thì quả thật Nguyễn Công Trứ không coi những chức tước ấy là điều vẻ vang đối với mình. Tất cả chỉ là phận sự của đấng nam nhi đứng trong vũ trụ, đốn tay mình thì làm, cái cốt yếu là đã làm thì phải hết lồng hết sức. Nguyễn Công Trứ từng nói một câu nổi tiếng: Làm tổng đốc tôi không lấy làm vinh, làm lính tôi cũng không coi là nhục. Câu tổng kết sự nghiệp: Gồm thao lược đả nên tay ngất ngưởng khẳng định đối với công danh, dù là Tổng đốc, dù là đại tướng, ông cũng coi nhẹ tênh, chẳng có gì quan trọng.
Đó là biểu hiện thứ nhất của thái độ ngất ngưởng.
Tiếp theo là một hành động ngất ngưởng xưa nay chưa từng có: Thường thường, các bậc quan lại giàu sang đi đâu thì cưỡi ngựa, còn Nguyễn Công Trứ lại cưỡi bò vàng và còn cho bò vàng đeo đạc ngựa:
Đạc ngựa bò vàng đeo ngất ngưởng.
Người đời bảo ông ngông nghênh, lập dị. Có kẻ lại cho là ông cao ngạo đặt mình lên trên dư luận. Xét ra có thể còn hơn thế: ông cho bò vàng đeo đạc ngựa cũng là một cách chơi ngông. Hơn nữa, hành động ấy xảy ra ngay sau khi ông về hưu. Vừa nêu rõ thời điểm: Đô môn giải tổ chi niên (giải tổ có nghĩa là cởi dây đeo ấn), thì lại cho ngay bò vàng mình cưỡi đeo đạc ngựa để nó cũng ngất ngưởng như mình. Nếu ai suy diễn điều này thì chắc không khỏi cho rằng hành vi của Nguyễn Công Trứ là xấc xược, phạm thượng. Đó là biểu hiện thứ hai của thái độ ngất ngưởng.
Biểu hiện thứ ba là Nguyễn Công Trứ ngất ngưởng cả với Bụt:
Kìa núi nọ phau phau mây trắng,
Tay kiếm cung mà nên dạng từ bi.
Gót tiên theo đủng đỉnh một đôi dì,
Bụt cũng nực cười ông ngất ngưởng.
Lên thăm chùa ở trên núi mây phủ trắng phau, ông tự cười nhạo mình là Tay kiếm cung mà nên dạng từ bi. Kì thực đó chi là cái dạng thôi (vẻ bên ngoài), bởi theo hầu ông còn có một đoàn gót sen “tiên nữ” đủng đỉnh một đồi dì là các cô ả đào. Không những chẳng nên dạng từ bi chút nào mà còn bất kính nữa. Tuy vậy, ông vẫn rất tự nhiên, khiến Bụt chẳng nỡ chau mày quở trách mà còn nực cười độ lượng trước ông quan thượng già tính khí khác người.
Đến chùa, ông không lễ Phật mà bày tiệc hát ca, có cả ả đào, đàn địch, trống phách hẳn hoi. Ông say mê thưởng thức một bữa tiệc rộn rã đàn ca và cảm thấy mình đã trút sạch tục lụy của cõi đời, tâm hồn lâng lâng bay bổng trên chín tầng mây, phơi phới luồng ấm mát của gió xuân:
Dược mất dương dương người thái thượng,
Khen chê phơi phới ngọn đông phong.
Khi ca, khi tửu, khi cắc, khi tùng,
Không Phật, không Tiên, không vướng tục.
Cá tính thượng thư bốc lên hết cỡ trong roi chầu tài hoa của Nguyễn Công Trứ. Bây giờ thì mọi sự đời: cái được, cái mất, tiếng khen, tiếng chê… ông đều coi là cỏ rác. Hồn ông lâng lâng trên cõi gió mây trong lành, cao khiết. Lời thơ vút lên hào hứng: Được mất/dương dương /người thái thượng, Khen chê /phơi phới / ngọn đông phong.
Tâm hồn Nguyễn Công Trứ bay bổng trên cao, trong âm điệu rộn rã của giọng ca, tiếng đàn tiếng trống. Câu thơ: Khi ca / khi tửu / khi cắc / khi tùng ngoài ý nghĩa liệt kê còn thêm sắc thái biểu cảm rõ nét, diễn tả tài tình tư thế ngả nghiêng thoải mái của Uy Viễn tướng công trong cuộc chơi tưởng chừng bất tận. Dù cuộc vui bày ra ngay nơi cửa Phật và có cả một đôi dì tham dự nhưng Nguyễn Công Trứ vẫn cảm thấy mình trong sạch, thanh cao: Không Phật t không Tiên / không vướng tục.
Đây là đoạn mà ý thơ rõ nhất và cũng là đoạn hay nhất của bài thơ. Nếu như hai câu trước trải dài, nhịp điệu thênh thênh, thanh thoát như tấm lòng không còn vướng chút bụi trần thì hai câu sau là nhịp ca, nhịp trống, nhịp phách, nhịp rượu chúc mừng, rồi dồn lên, dồn lên rối rít và chấm dứt ở một chữ mang thanh trắc đục {tục). Chấm dứt câu thơ mà cũng là nện mạnh dùi xuống mặt trống để tự thưởng, tự hào, tự khẳng định cái tài tình, cái khoáng đạt của tâm hồn mình, khí phách mình.
Nguyễn Công Trứ ngông nghênh tự đặt mình ngang hàng với những nhân vật lỗi lạc ngày xưa (Trái Tuân thời Hán và ba ngưội thời Tống: Nhạc Phi, Hàn Kì, Phú Bật – những danh tướng có sự nghiệp hiển hách). Kết cấu câu: Chẳng Trái, Nhạc cũng vào phường Hàn, Phú thể hiện rõ ràng thái độ đó. Riêng mấy câu thơ ấy cũng đủ bộc lộ cốt cách và tâm tính cao ngạo của Uy Viễn tướng công, giúp người đọc hiểu được phần nào thái độ ngất ngưởng và Bài ca ngât ngưởng của ông.
Kết thúc bài thơ phóng khoáng, bay bổng này, Nguyễn Công Trứ không quên nhắc tại điệp khúc nhàm chán của đạo sơ chung, mặc dù câu đó chĩ được đặt giữa một câu tự đánh giá rất cao về bản thân và một câu như muốn thách thức với cả triều đình nhà Nguyễn:
Nghĩa vua tôi cho vẹn đạo sơ chung.
Trong triều ai ngất ngưởng như ông!
Điều đáng nói là tuy tôn trọng ý thích bản thân nhưng Nguyễn Công Trứ không sa vào thái độ hư vô chủ nghĩa. Trước sau ông vẫn là một nhà Nho coi trọng tư tưởng hành đạo, có tinh thần nhập thế tích cực và luôn tâm niệm: Nghĩa vua tôi cho vẹn đạo sơ chung, ông sống và làm việc hết mình, đồng thời biết thưởng thức, nếm trải những thú vui ở trên đời. Mọi hành động của Nguyễn Công Trứ đều toát ra tinh thần tự do, phóng khoáng.
Thái độ ngất ngưởng bất cần mọi sự đã tìm được ở thể ca trù một âm điệu hoàn toàn thích hợp: câu ngắn, câu dài tùy ý, vần liền từng cặp xen lẫn thanh bằng, thanh trắc đều đặn, niêm luật tự đo, đối không bắt buộc. Âm điệu được chi phối bởi trạng thái tâm hồn nhà thơ : lúc cười cợt, lúc tự hào, sảng khoái. Cách nói nôm na kiểu khẩu ngữ đã đem lại cho bài thơ một vẻ đẹp sinh động lạ thường.
Giọng điệu Bài ca ngất ngưởng thể hiện nét độc đáo trong tính cách tác giả: tự hào gần như tự phụ, thậm chí ồn ào. Có hai điều Nguyễn Công Trứ không hề che giấu là công tích lớn lao mà ông coi như chuyện thường tình, còn thú chơi ngông thì lại đề cao tột bực.
Theo: Thu Hương