Phân tích 13 câu đầu bài thơ Vội vàng của Xuân Diệu – Văn mẫu lớp 11
Phân tích 13 câu đầu bài thơ Vội vàng của Xuân Diệu – Văn mẫu lớp 11 4.79 (95.81%) 382 votes Phân tích 13 câu đầu bài thơ Vội vàng của Xuân Diệu – Bài làm 1 của một bạn học sinh giỏi Văn trường THPT Đống Đa Hà Nội Tôi muốn tắt nắng đi Cho màu đừng nhạt mất; Tôi muốn buộc gió lại, Cho ...
Phân tích 13 câu đầu bài thơ Vội vàng của Xuân Diệu – Văn mẫu lớp 11 4.79 (95.81%) 382 votes Phân tích 13 câu đầu bài thơ Vội vàng của Xuân Diệu – Bài làm 1 của một bạn học sinh giỏi Văn trường THPT Đống Đa Hà Nội Tôi muốn tắt nắng đi Cho màu đừng nhạt mất; Tôi muốn buộc gió lại, Cho hương đừng bay đi. Của ong bướm này đây tuần tháng mật, Này đây ...
Phân tích 13 câu đầu bài thơ Vội vàng của Xuân Diệu – Bài làm 1 của một bạn học sinh giỏi Văn trường THPT Đống Đa Hà Nội
Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất;
Tôi muốn buộc gió lại,
Cho hương đừng bay đi.
Của ong bướm này đây tuần tháng mật,
Này đây hoa của đồng nội xanh rì,
Này đây lá của cành tơ phơ phất;
Của yến anh này đây khúc tình si,
Và này đây ánh sáng chớp hàng mi.
Mỗi sáng sớm thần Vui hằng gõ cửa;
Tháng giêng ngon như một cặp môi gần.
Tôi sung sướng.
Xúc cảm vội vàng dường như đã được thể hiện ở khổ đầu tiên của bài thơ : khổ thơ năm chữ duy nhất trong bài thơ mà phần lớn là những câu thơ tám chữ. Thể loại thơ tám chữ gợi cho ta nghĩ đến cách nói vốn có của ca trù và cách sử dụng của Xuân Diệu cùng thể hiện một nét mới của thơ mới. Còn cách đặt những câu thơ ngắn trong trường hợp này làm nên giọng điệu gấp gáp giống như một hơi thở hối hả của một con người đang tràn đầy cảm xúc. Mặt khác, Xuân Diệu đã đặt ở đầu tiên những câu lẻ hai chữ “ tôi muốn ”, và chủ đề trữ tình lập tức xuất hiện. Nhà thơ thể hiện cái tôi công khai, ngang nhiên không lẩn tránh hay giấu giếm, cái tôi đầy thách thức, đi ngược lại với thơ ca trung đại, nơi rất ít dám thể hiện cái Tôi. Cách nhà thơ công nhiên khiêu khích thẩm mĩ thơ của thời đại trước, chính là để thể hiện cái tôi trong một khao khát lớn lao, cái tôi muốn đoạt quyền tạo hoá để làm những việc mà chỉ tạo hoá mới làm được như “ tắt nắng đi “ và “buộc gió lại “. Nhưng trong cách diễn đạt của nhà thơ thì “tắt nắng” và “buộc gió” không phải là ý muốn cuối cùng, vì những câu chẵn của khổ thơ đều bắt đầu bằng một chữ “cho”.
Cho màu đừng nhạt mất,
……
Cho hương đừng bay đi.
Khát vọng ngông cuồng kia cũng xuất phát từ mong muốn giữ lại cái đẹp đẽ cho sự sống. Những câu thơ gợi cảm giác lo âu rằng cái đẹp sẽ giảm hương sắc đi, màu nắng sẽ bớt rực rỡ nếu nắng cứ toả, và làn hương kia sẽ bớt nồng nàn nếu gió cứ bay. Nhưng mong muốn càng trở nên thiết tha hơn khi nhà thơ dùng đến hai lần chữ “đừng” – chứa đựng một nguyện vọng thiết tha. Từng chữ một của bốn câu thơ đều nói lên nỗi ham sống đến vô biên, tột cùng đến trở nên cuồng si, tham lam, muốn giữ lại cho mình và cho đời vẻ đẹp, sự sống ở trong tạo vật.
Câu thơ thứ năm đang từ nhịp điệu gấp gáp của những dòng năm chữ, thì đột ngột đổ tràn ra trong những dòng tám chữ. Một sự chuyển đổi rất đẹp của bài thơ, làm trải ra trước mắt người đọc một bức tranh xuân tuyệt diệu. Trong bốn dòng thơ ấy đầy ắp những tiếng “này đây” rải ra khắp các dòng thơ, vừa trùng điệp vừa biến hoá. Những câu thơ gợi hình dung về một con người đang mê man, đắm đuối, cuống quýt trước mùa xuân đang trải ra cuộc đời. Đó không chỉ là một bức tranh xuân, xuân sắc, xuân tình mà còn là cách để tác giả nói đến cái mê đắm về một mùa xuân của tuổi trẻ, của tình yêu. Vì vậy, không có một loài vật nào khác ngoài “ong bướm, yến anh”, bởi nó gợi ra vẻ lả lơi, tình tứ,và “bướm lả ong lơi “ gợi ý niệm về mùa xuân và tình yêu. Khúc nhạc của tình yêu, và hơn thế, “của tình si”, gợi nên sự mê đắm. Bên cạnh đó, chữ “của” trở đi trở lại cùng với “này đây” như một cặp không thể tách rời. Đó là cách để Xuân Diệu biểu hiện cảm xúc trước thiên nhiên luôn có sự kết đôi, mọi vật quấn quýt lấy nhau, là của nhau không thể tách rời. Tất cả đều mang vẻ đẹp của sự trẻ trung và sức sống. “ Hoa “ nở trên nền “ xanh rì “ của đồng nội bao la, “lá ” của “ cành tơ ” đầy sức trẻ và nhựa sống. Cảm giác non tơ, mơn mởn ấy lại được tôn lên trong sự hiệp vần “ tơ phơ phất ” ở sau. Và như thế, cuộc sống hiện ra trong hình ảnh của một vườn địa đàng, trong xúc cảm của một niềm vui trần thế. Giá trị nhân văn của những câu thơ và cả bài thơ chính là ở đó.
Nếu như bốn câu thơ trên có vẻ như đã cân xứng, hoàn chỉnh rồi, thì câu thơ thứ chín xuất hiện bằng ba chữ “ và này đây ”, như thể một người vẫn còn chưa thoả, chưa muốn dừng lại, trong cảm xúc đầy tiếc nuối muốn giăng bày cho hết niềm vui được sống. Nhưng đây không còn là những hình sắc cụ thể như “lá, hoa, ong bướm “ mà trừu tượng hơn là ánh sáng, niềm vui, thời gian – những vật thể không hữu hình. Đó cũng là cách để nhà thơ bộc lộ quan điểm thẩm mĩ mới mẻ và thú vị . Thiên nhiên đã thôi không còn là chuẩn mực của vẻ đẹp trong quan niệm của Xuân Diệu. Vẻ đẹp của thiên nhiên chỉ được coi là đẹp khi mang dáng dấp của vẻ đẹp con người. Ánh sáng đẹp vì gợi ra liên tưởng về “hàng mi” của một đôi mắt đẹp. Niềm vui đẹp vì gợi ra liên tưởng về một vị thần, đại diện cho con người. Và xúc cảm thẩm mĩ được nâng lên trong câu thơ về tháng giêng, gợi nên vẻ đẹp của sự táo bạo, cuồng nhiệt, làm người đọc thơ phải sửng sốt.
Tháng giêng ngon như một cặp môi gần.
Mùa xuân hiện ra trong sức gợi cảm kì lạ bởi một vẻ đẹp như đang đợi chờ , đang sẵn sàng dâng hiến. Vì thế, mùa xuân như sinh ra cho con người tận hưởng, cho hạnh phúc đến với con người, làm nên một khía cạnh khác nữa của tinh thần nhân văn của bài thơ. Ở đó, cái quí giá, đẹp đẽ nhất của con người lại là chính con người. Vì vậy, con người là thực thể cao nhất, chứ không phải là thiên nhiên, là tôn giáo hay một chuẩn mực đạo đức nào. Con người trong câu thơ này đã được tôn lên làm chuẩn mực thẩm mĩ, làm cho người đọc ngạc nhiên, sửng sốt. Tác giả đưa ra ý niệm về một tháng trẻ trung nhất của một mùa trẻ trung nhất trong năm : “ tháng giêng “. Nhưng sự bất ngờ lại đến từ chữ thứ ba – “ngon”, điều mà ít ai có thể ngờ. Và càng không ai có thể nghĩ rằng tác giả lại so sánh với “cặp môi gần”. Nhưng có được sự so sánh ấy thì thời gian trừu tượng mới trở nên gần gũi, do vậy mùa xuân hiện lên trong cảm xúc của một tâm hồn đang thèm khát tận hưởng. Vẻ đẹp của mùa xuân như đã bị hoàn toàn chiếm hữu.
Hình ảnh so sánh ấy như một người đang đợi chờ, sẵn sàng dâng hiến cho tình yêu. Và hẳn phải có một tình yêu thật nồng nàn với cuộc đời thì tác giả mới tạo ra được một hình ảnh lạ kì đến thế.
“Tôi sung sướng”
Những tiếng tất yếu được thốt lên sau tất cả những gì viết ở trên. Nhưng sau ba chữ ấy lại là một dấu chấm ở giữa câu, khiến cho niềm sung sướng ấy như bị ngắt lại, chặn lại giữa chừng để trở thành một niềm vui dở dang, không trọn vẹn. Bởi sau dấu chấm là một chữ “ nhưng “ dự báo một cảm xúc hoàn toàn mới lạ. Cái ám ảnh của sự vội vàng xuất hiện ở nửa sau . Nhà thơ dường như không thể tận hưởng hết được mùa xuân vì cái cảm giác hoài xuân ngay khi mùa xuân chưa hết. Và cảm xúc của nhà thơ đã đi sang một phía ngược lại, xuất hiện một phản đề :
Nhưng vội vàng một nửa.
Ai đã được nghe hai câu đầu của sự phản đề cũng đều có ấn tượng sâu sắc.
Xuân đương đến nghĩa là xuân đương qua
Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già.
Sự mới mẻ, táo bạo, sự phát hiện lớn nhất của hai câu thơ lại được nằm ở hai chữ tưởng như rất bình thường “ nghĩa là “, khiến cho câu thơ mang dáng dấp của một đẳng thức nghệ thuật. Tác giả đã mạnh bạo đặt một dấu bằng ở hai vế tưởng như trái ngược nhau :“đang tới” đối với “đang qua”, “non” nghịch với “già”. Cách nói đầy ấn tượng như thế làm nên sự trôi mau vô cùng của thời gian. Điều ấy càng có ý nghĩa với một người mà sự sống đồng nghĩa với tuổi xuân, được thể hiện với đẳng thức thứ ba :
Và xuân hết nghĩa là tôi cũng mất.
Phân tích 13 câu đầu bài thơ Vội vàng của Xuân Diệu – Bài làm 2
Theo như Hoài Thanh nhận định Tản Đà là người “ đã dạo những bản đàn mở đầu cho một cuộc dạo chơi tân kì đương sắp sửa” thì có lẽ Xuân Diệu là người đã đưa những khúc nhạc ấy đến một vị trí xứng tầm trong lòng bạn đọc khi cho ra đời tập : “Thơ thơ” được xem là đỉnh cao trong phong trào thơ mới. Bài thơ “Vội vàng” được trích từ tập thơ ấy, tiêu biểu cho một phong cách thơ được cách tân rất mới mẻ về nội dung và hình thức của Xuân Diệu. “Một hồn thơ rạo rực băn khoăn trong những câu thơ lời ít ý nhiều như đọng lại bao tinh hoa”
Giữa lúc ta lên tiên cùng Tản Đà, đắm chìm trong mộng tưởng cùng Hàn Mặc Tử,.. thì Xuân Diệu là người đã “đốt cảnh bồng lai và xua ai nấy về hạ giới”. Lòng yêu đời yêu cuộc sống tha thiết đã khiến tâm hồn của thi sĩ bám chặt lấy cuộc sống trần thế, không thoát ly hoàn toàn như các nhà thơ khác. Với đời, ông có một khát khao cháy bỏng:
“Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi”
Nhà thơ sử dụng những câu thơ ngắn với âm điệu nhanh, ngôn ngữ thơ dứt khoát để thể hiện ứơc muốn mãnh liệt muốn níu giữ thời gian. Bởi lẽ thời gian là nỗi ám ảnh nhất trong cuộc đời:
“Ôi đau đớn ! Ôi đau đớn ! Thời gian ăn cuộc đời”
(Bauxtelaire)
Là một hồn thơ rạo rực, tha thiết với đời, ông muốn tận hưởng những khoảnh khắc tươi đẹp nhất của trần thế nhưng ngặt một nỗi:
“Thời gian thấm thoắt thoi đưa
Nó đi đi mãi có chờ đợi ai”
(Tục ngữ)
Vì thế thi nhân rất trân trọng những giây phút tươi đẹp của cuộc đời. Người dùng tất cả giác quan tạo hoá ban tặng để cảm nhận thời gian. Thời gian vốn vô hình, vô vị, vô tình đi vào thơ Xuân Diệu bỗng rất hữu hình, nên thơ qua hình ảnh “nắng”, “gió”. Từ “tôi muốn” được điệp lại kết hợp với những động từ mạnh như “tắt” (nắng), “buộc” (gió) thể hiện một tư thế chủ động muốn đóng băng thời gian vì một lẽ đời tươi đẹp phía trước:
“ Của ong bướm này đây tuần tháng mật
Mỗi buổi sớm thần vui hằng gõ cửa”
Những câu thơ với âm điệu nhẹ nhàng, hình ảnh tươi sáng đã vẽ nên một khung cảnh thiên nhiên đậm sắc, hương, thanh. Vạn vật đang ở độ đương thì tươi ngon nhất, đẹp đẽ nhất. Chim chóc, hoa lá, ong bướm như vực dậy để tận hưởng cảnh xuân tươi tắn, mựơt mà. Cảnh vật không tĩnh lặng mà náo động linh hoạt với những hình ảnh liên tưởng độc đáo của thi sĩ. “Tuần tháng mật” của đôi vợ chồng đắm say trở thành mùa của ong bướm dập dìu rất lãng mạn. Tiếng hót của chim yến chim oanh trở thành “khúc tình si” hút hồn biết bao con người yêu cảnh thiên nhiên tươi đẹp. Và ánh nắng được nhân hoá như một nàng tiên e thẹn với những ánh mi dài cuốn hút vạn vật. Tất cả như chan hoà làm nên một mảnh vườn đẹp nên thơ mà rất trần đời. Từ đó cái đẹp của mùa xuân thiên nhiên còn ẩn dụ như cái đẹp của con người ở độ sắc xuân, đương thì. Qua đó, ta thấy được thi sĩ có sự cảm nhận mùa xuân rất tinh tế và có tài khéo léo vẽ lại những hình ảnh ấy với một thứ sức sống căng tràn, nảy nở. Nói bóng bẩy như Vũ Bằng thì thứ thứ nhựa sống mỡ màng ấy như “ máu căng lên trong lộc của loài nai, như những mầm non háo hức muốn bức ra từ những thân cây”. Thi sĩ chọn thời điểm rạo rực nhất “tháng giêng” , tươi mới nhất ”mỗi buổi sớm”, để miêu tả khiến bức tranh thiên nhiên mùa xuân càng tinh khôi ,xinh đẹp. Không chỉ vậy, nhà thơ còn tạo nên một thiên đường của xúc cảm. Nghệ thuật chuyển đổi cảm giác được dùng rất linh hoạt từ xúc giác ”tuần tháng mật”, thính giác ”khúc tình si”, thị giác “ánh sáng chớp hàng mi”.
Tâm hồn của thi nhân rạo rực, tha thiết, bâng khuâng trước cảnh trần thế xinh đẹp vô cùng đã khơi nguồn nên những hình ảnh sáng tạo độc đáo trong những vần thơ. Vào lúc ấy, hồn thơ, hồn người, hồn của thiên nhiên đất trời như giao hoà để Xuân Diệu viết nên một câu tuyệt bút:
“Tháng giêng ngon như một cặp môi gần”
”Tháng giêng” vốn vô hình bỗng trở nên hũư hình căng đầy một tình yêu trần thế. Một thứ tình cảm rạo rực, cháy bỏng trong tâm hồn thi nhân đã được dồn nén kết tụ trong một từ “ngon” duy nhất rất tài hoa. Câu thơ với điểm nhấn là từ “ngon” được dùng rất đắt thể hiện một quan điểm mĩ học rất mới mẻ về sự cảm nhận thiên nhiên phản phất sắc thái của “nhục thể”. Tuy vậy, ý thơ không gây thô tục mà có phần mới lạ. Nhà thơ cảm nhận rất tinh tế ý vị của thời gian nên có sự chuyển đổi xúc giác sang vị giác. Quả thật, Xuân Diệu bên cạnh có đôi mắt nhìn đời rất tinh tế còn có một tâm hồn rất thiết tha, nhạy cảm với cuộc sống.
Những câu thơ: “Của ong bướm này đây tuần tháng mật”,”Của yến anh này đây khúc tình si” và ” Tháng giêng ngon như một cặp môi gần” mang một quan điểm mĩ học rất mới so với thơ ca truyền thống trước đó. Thơ trung đại con người được các nhà văn, nhà thơ tạo tác trên những chuẩn mực của thiên nhiên. Bút pháp ước lệ tượng trưng luôn gắn liền với việc miêu tả con người:
“Râu hùm, hàm én, mày ngài”
“Làn thu thuỷ, nét xuân sơn”
(Nguyễn Du)
Thế mới thấy thơ Xuân Diệu đã hoàn toàn lột xác và hướng về một nguồn quan điểm mới rất gần với shakespears:
“Con người là kiểu mẫu của muôn loài”
Nhà thơ đã lấy con người làm khuôn mẫu để tạo ra những hình thái thiên nhiên mang một sức hấp dẫn kì lạ, một sự tươi mới chưa từng có. Người cảm nhận thiên nhiên bằng một lăng kính trái hình với thi ca thời xưa . Qua đó, ta thấy thêm tin yêu một hồn thơ mới đã đem đến cho ta một hình ảnh đầy thi vị, một ánh màu mới mẻ trong thơ ca.
“Thơ Xuân Diệu là một niềm khát khao giao cảm với đời”
(Nguyễn Đăng Mạnh)
Hình ảnh của cuộc sống đi vào thơ Xuân Diệu như một thứ ánh sáng được khúc xạ qua lăng kính tình yêu rất tinh khôi và giàu sức sống. Càng yêu đời, nhà thơ càng luyến tiếc trước dòng chảy của thời gian. Thời điểm vạn vật đang căng tràn nhựa sống cũng chính là lúc đang đứng trên ranh giới của sự lụi tàn, héo úa. Vì thế từ những câu thơ gãy gọn ở khổ đầu, nhà thơ đi vào khổ hai với những câu thơ dài, âm điệu chậm như bước chân người thư thái dạo ngắm vườn xuân muốn tận hưởng giờ khắc huy hoàng ấy. Thi sĩ từ tốn chỉ cho người đọc những gì tinh hoa, tươi đẹp nhất của trần gian với một thái độ mến yêu, trân trọng” này đây”.
Đọc thơ Xuân Diệu, ta thấy từng dòng chữ rất mới, những tư tưởng tiến bộ thoát ly hoàn toàn những khuôn sáo cổ điển, tuy say mà tỉnh, mộng nhưng thực. Cảnh sắc xuân như xô đẩy câu thơ, khuôn khổ thơ bị xê dịch như “một đống hỗn độn đẹp xô bồ vừa say dậy”(Bích Khê). Đó là điều khiến thơ của thi sĩ từng bước chứng tỏ sức sống mãnh liệt qua thời gian mặc dù người khen rất nhiều người chê cũng không ít.
Tóm lại, đoạn thơ thể hiện một một khát vọng sống thiết tha mãnh liệt rất trần đời. Một hương vị lạ góp phần làm đa dạng sự mới mẻ trong phong trào thơ mới. Dù rằng thơ Xuân Diệu mang một phong cách rất Tây nhưng nhìn chung lầu thơ của ông được xây dựng trên mảnh đất thơ ca truyền thống. Sự tiếp thu những tư tưởng mới, biết hoà nhập nhưng không hoà tan là nét chung rất đáng ngợi ca khâm phục của Xuân Diệu nói riêng và các nhà thơ mới nói chung. Vì thế Xuân Diệu xứng đáng là “nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới” (Hoài Thanh).
Phân tích 13 câu đầu bài thơ Vội vàng của Xuân Diệu – Bài làm 3
Nhắc đến chủ đề thơ viết về tình yêu chúng ta không thể nào không nhắc đến Ông hoàng thơ tình Xuân Diệu. Xuân Diệu chính là người đã đưa phong trào thơ mới phát triển thêm một tầm cao mới, độc đáo hơn, táo bạo hơn, đề cao cái tôi cá nhân hơn. Thơ ông luôn rạo rực, bồi hồi, ngập tràn nhiệt huyết yêu đời, yêu người. Điều đó được khắc họa đặc sắc, sinh động qua khao khát sống vội vàng, sống hết mình trong 13 câu thơ đầu của tác phẩm “Vội vàng”.
Mở đầu bài thơ là một khổ thơ kỳ lạ. Kỳ lạ không phải là ở thể thơ, nhịp thơ mà là ở nội dung của ý thơ. Xuân Diệu dùng thể thơ ngũ ngôn bình dị để thể hiện cái ý thơ kỳ dị, kỳ dị ở đây chính là nội dung khổ thơ thể hiện ước muốn vừa kỳ lạ, vừa ngông cuồng, vừa trái với quy luật tự nhiên của nhà thơ:
“Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi”
Muốn “tắt nắng”, “muốn “buộc gió”, điều này có thể sao? Thật là những ham muốn, những mộng tưởng vô thực có lẽ chỉ có ở thi nhân. Còn ở thế giới thực, làm sao có thể làm trái với quy luật tự nhiên, làm sao có thể vĩnh viễn hóa được những thứ vốn ngắn ngủi, mỏng manh và vượt xa tầm kiểm soát của con người? Người bình thường chắc chẳng ai dám mơ mà có lẽ cũng chưa từng nghĩ tới, nhưng Xuân Diệu thì khác, ông yêu cuộc sống, yêu đời, yêu người, khao khát yêu và được yêu đến mức muốn sống vội vàng, gấp gáp, muốn kiểm soát và vĩnh viễn hóa những điều tốt đẹp.
Bốn câu thơ đầu là khổ thơ năm chữ duy nhất trong bài thơ, nhịp thơ khiến giọng điệu gấp gáp giống như một hơi thở hối hả của một con người đang tràn đầy cảm xúc. Đại từ nhân xưng mà tác giả sử dụng đã là “tôi”, chứ không phải “ta” hay “chúng ta”.Cùng với đó là động từ “ muốn”, nhưng là “tôi muốn” được lặp đi lặp lại liên tục. Nhà thơ đang thể hiện cái tôi công khai, ngang nhiên không lẩn tránh hay giấu giếm, cái tôi đầy thách thức, đi ngược lại với thơ ca trung đại, rất ít dám thể hiện cái Tôi của bản thân mình. Đây cũng chính là một điểm mới, sáng tạo, độc đáo và dũng cảm của nhà thơ trong nền văn thơ hiện lúc bấy giờ. Thông qua đó thể hiện một cách sinh động, chân thực khát khao mãnh liệt đến cháy bỏng về cuộc sống
Thế giới xung quanh được Xuân Diệu cảm nhận theo một cách rất riêng mà không một nhà thơ nào có được. Đó là cảm nhận tinh tế, cháy bỏng nhất của một tâm hồn thơ, một tâm hồn người đầy ham muốn sống, ham muốn yêu, một trái tim tràn ngập tình yêu. Cũng chính vì thế mà thế giới ấy hiện ra trước mắt Xuân Diệu giống như một khu vườn tình yêu đầy hương sắc, ngọt ngào khiến ông muốn ôm lấy, giữ lấy. Như một người tình quyến rũ khiến thi nhân say đắm, yêu thiên nhiên mà thực chất là tình tự với thiên nhiên. Muốn tham lam chiếm hữu tất cả hương sắc của cuộc đời.
“Của ong bướm này đây tuần trăng mật
Này đây hoa của đồng nội xanh rì
Này đây lá của cành tơ phơ phất
Của yến anh này đây khúc tình si”
Nhịp thơ đột nhiên biến đổi rõ rệt, đây là một cuyển đổi rất đẹp, rất nghệ thuật, khắc họa được tâm lý của nhân vật “tôi” trữ tình, hay chính là tác giả. Trải ra trước mắt ta bức tranh xuân tuyệt diệu. Bốn dòng thơ ấy đầy ắp những tiếng “này đây” như đang bày ra trước mắt ta từng thứ từng thứ một, sinh động, hấp dẫn. Nhịp thơ vui mừng, như hối hả, ngập tràn nhiệt huyết của một con người đang mê man, đang đắm đuối, đang hưởng thu mùa xuân tươi đẹp của cuộc đời. Đó không chỉ đơn thuần là một bức tranh vẽ cảnh xuân, còn là bức tranh khắc họa mùa xuân rực rỡ của tuổi trẻ, của tình yêu với yến anh, với ong bướm lả lơi tình tứ.
Trong thơ Xuân Diệu, vạn vật trong thiên nhiên luôn có sự kết đôi, mọi vật quấn quýt lấy nhau, thuộc về nhau không thể tách rời. Tất cả đều mang vẻ đẹp của sự trẻ trung và sức sống tròn trịa có đôi có cặp. Nhà thơ sử dụng các tính từ mang tính gợi hình cao để tạo nên hiệu ứng chân thực, gần gũi như thể bản thân người đọc được theo chân ông, được ông chỉ tay giới thiệu từng chút một. “ Hoa “ nở trên nền “ xanh rì “ của đồng nội bao la, “lá ” của “ cành tơ ” đầy sức trẻ và nhựa sống. Mọi thứ đều có cảm giác non tơ, mơn mởn ấy lại được tôn lên trong sự hiệp vần “ tơ phơ phất ” ở sau. Cuộc sống hiện hình trong trạng thái của một thiên đường trên mặt đất, mang lại cảm giác phi thực tế nhưng lại hấp dẫn đến nỗi bản thân tự nguyện để mình chìm vào ảo mộng đẹp.
“Và này đây ánh sáng chớp hàng mi
Mỗi sáng sớm, thần vui hằng gõ cửa”
Không phải “này đây” mà là “và này đây ”, như thể vẫn còn chưa thoả, chưa hết, còn chưa muốn dừng lại. Đây không còn là những hình sắc cụ thể như “lá, hoa, ong bướm “ mà trừu tượng hơn là ánh sáng, niềm vui, thời gian , đều những thứ không hữu hình. Cuộc sống mỗi ngày ở chốn “thiên đường trên mặt đất” ấy mối ngày đều ngập tràn những niềm vui, chỉ cần giữ cho mình niềm yêu đời, khát khao yêu và được yêu, biết quý trọng vẻ đẹp cuộc sống xung quanh, thì mỗi ngày niềm vui sẽ đều tự tìm tới.
Xuân Diệu thực sự xuất sắc trong việc khắc họa vẻ đẹp của thiên nhiên, nhưng vẻ đẹp ấy chỉ có thể hoàn hảo khi có con người, dành cho con người, con người biết hưởng thụ. Sự kết hợp hài hòa giữa vẻ đẹp của thiên nhiên với vẻ đẹp của con người được thể hiện qua “ánh sáng chớp hàng mi”, ảo mộng mà gần gũi, chân thực.
“Tháng giêng ngon như một cặp môi gần”
Hình ảnh so sánh thật thú vị và đầy bất ngờ và độc đáo, táo bạo. Trước Xuân Diệu, chưa từng có ai so sánh thời gian đẹp nhất của mùa xuân với bờ môi thiếu nữ, sau Xuân Diệu, càng chưa có thi nhân nào có sự so sánh độc đáo hơn. Dưới con mắt của kẻ si tình, mùa xuân hiện ra thật đẹp, thật gợi cảm. Không những đẹp, mà còn “ngon”. Mặc dù không chạm được, không ăn được nhưng tác giải lại thấy nó “ngon”. Chính điều này càng khiến cho khao khát chiếm hữu, hưởng thụ của thi nhân trở nên mãnh liệt và hiện thực hóa. Mùa xuân sinh ra cho con người tận hưởng, cho hạnh phúc đến với con người. Hình ảnh so sánh ấy như một người đang đợi chờ, sẵn sàng dâng hiến cho tình yêu. Chính vì thế tác giả sau khi thốt lên mới lại đột nhiên tiếc nuối, khiến nhịp thơ cũng bất ngờ chùng hẳn xuống:
“Tôi sung sướng”
Nhưng vội vàng một nửa”
Sung sướng vì được tận hưởng cái đẹp đến ngây ngất, đến vô thực của mùa xuân, nhưng tại sao lại vội vàng, mà còn là “vội vàng một nửa”? Cõ lẽ, vì người thi nhân nhận thức được rằng:
“Xuân đương đến nghĩa là xuân đương qua
Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già”.
Lúc đầu còn say mê, muốn tham lam chiếm hữu tất cả, muốn “tắt nắng”, muốn “buộc gió” muốn khống chế tự nhiên để giữ cái đẹp, giữ mùa xuân ở mãi bên mình; nhưng con gười vẫn chỉ là con người, không thể làm trái quy luật tự nhiên, cũng không thay đổi được quy luật của đời người. Chính vì thế hồn thơ thi sĩ mới buồn, mới não nề, thất vọng thốt lên rằng:
“Và xuân hết nghĩa là tôi cũng mất”
Sự đối nghịch giữa “đang tới’ và “đang qua”, giữa “non” và “già” tạo nên sự ấn tượng cho hai câu thơ, tạo nhịp gấp gáp, như thể hối thúc nhà thơ càng phải sống sao cho nhanh, cho vội chạy đua với thời gian. Bởi với nhà thơ, sự sống đi liền với mùa xuân, cũng như thời điểm tuyệt nhất của đời người chính là tuổi trẻ, thúc giục phải sống cho hết mình, sống không hối tiếc, yêu và được yêu, hưởng thụ cuộc đời cho thỏa, vì xuân hết thì bản thân cũng không còn là mình nữa.
Mỗi câu chữ trong “Vội vàng” đều là mỗi nét vẽ vô cùng sống động, độc đáo, tái hiện lại cảnh đẹp lãng mạn, tươi đẹp đến nỗi ta có cảm giác vô thực. Dưới con mắt tinh tế, nhạy cảm và đầy nhiệt huyết của nhà thơ, cuộc sống thật tươi đẹp và đáng sống biết bao, nhưng cuộc sống ấy cũng thật ngắn ngủi nên phải sống vội vàng để tận hưởng và không hối tiếc. Đó cũng chính là tư tưởng lạc quan, yêu đời, sống và cống hiến hết mình không bao giờ lỗi mốt chúng ta cần học tập.
Phân tích 13 câu đầu bài thơ Vội vàng của Xuân Diệu – Bài làm 4
Xuân Diệu là ông hoàng của tình yêu, dù đó là tình yêu gì đi chăng nữa thì nó vẫn ngọt ngào đầy xúc cảm. Ông còn được đánh giá là nhà thơ mới nhất trong những nhà thơ mới. Những sáng tác ,những bài thơ của ông đem đến cho người đọc một sự yêu đời, niềm vui về cuộc sống và một niềm khao khát cuộc sống đến mãnh liệt cùng với đó là một hồn thơ mới lạ,mang đến cho độc giả cái nhìn mới mẻ. Trong số đó, tiêu biểu có bài thơ Vội vàng là một trong những bài thơ hay thê hiện tư tưởng đáng quý đó của tác giả, và 13 câu đầu đã để lại những ấn tượng khó quên cho người đọc. Những tư tưởng triết lí cũng thế mà được gửi gắm chân thành tự nhiên.
Để mang niềm yêu cuộc sống đến trào dâng, nhà thơ luôn có cảm xúc vội vàng trước cuộc sống ngắn ngủi. Mọi thứ trên đời mang vị ngọt tới nhưng chỉ một lần rồi thôi,ta đâu có đủ thời gian cho những quả ngọt đó được nếm một lần nữa. Không vội vàng, không chạy tới để ôm trọn những gì đang có thì làm sao mà cảm nhận hết vẻ đẹp của đời. Khổ thơ năm chữ duy nhất trong bài thơ khiến giọng điệu gấp gáp giống như một hơi thở hối hả của một con người đang tràn đầy cảm xúc. Đại từ mà tác giả Xuân Diệu đã đặt ở đầu tiên là tôi, chứ không phải “ta” hay chúng ta và cùng với đó là động từ “ muốn”- “ tôi muốn. Nhà thơ đang thể hiện cái tôi công khai, ngang nhiên không lẩn tránh hay giấu giếm, cái tôi đầy thách thức, đi ngược lại với thơ ca trung đại, rất ít dám thể hiện cái Tôi của bản thân mình. Đây cũng chinh là một điểm mới của nhà thơ trong nền văn thơ hiện lúc bấy giờ.qua đó thể hiện khát khao mãnh liệt về cuộc sống
Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi”
Yêu cuộc sống này cho nên mọi thứ tác giả muốn làm đó có thể là tắt nắng đi, buộc gió lại. Những từ “ tắt” buộc” được sử dụng cho những điều hữu hình cầm nắm được vậy mà tác giả lại dùng cho những sự vật không bao giờ chúng ta có thể làm được. Ta có thể thấy màu vàng của nắng, cảm nhận được hơi ấm từ nó, gió có thể thổi qua , táp vào mặt,mương man da thịt, có thể thấy gió đung đưa bên những cành liễu.. nhưng chẳng bao giờ cầm được nắng nắm được gió. Một điều tưởng chừng như vô lí đó nhưng lại trở thành khát khoa của tác giả. Những thứ đó để làm gì: “ để hương đời đừng nhạt đi, để màu sắc cuộc sống vẫn nguyên vẹn, không úa tàn”Từng chữ một của bốn câu thơ đều nói lên nỗi ham sống đến vô biên, tột cùng đến trở nên cuồng si, tham lam, muốn giữ lại cho mình và cho đời vẻ đẹp, sự sống ở trong tạo vật cả trong nhịp của câu thơ, thể hiện ở chỗ câu thơ đang năm chữ bỗng chuyển xuống 8 chữ.
Đây là một chuyển đổi rất đẹp của bài thơ, làm trải ra trước mắt ta bức tranh xuân tuyệt diệu. Bốn dòng thơ ấy đầy ắp những tiếng “này đây, vừa trùng điệp vừa biến hoá. Những câu thơ gợi ra một con người đang mê man, đắm đuối, cuống quýt trước mùa xuân đang trải ra cuộc đời. Đó không chỉ là một bức tranh xuân, còn là cách để tác giả nói đến cái mê đắm về một mùa xuân của tuổi trẻ, của tình yêu.
Vì vậy, “ong bướm, yến anh”được nhắc tới đây, bởi nó gợi ra vẻ lả lơi, tình tứ,và “bướm lả ong lơi “ gợi ý niệm về mùa xuân và tình yêu. Khúc nhạc của tình yêu, của những đôi tình nhân và hơn thế, “của tình si”, gợi nên sự mê đắm. Bên cạnh đó, chữ “của” trở đi trở lại được tác giả sử dụng cùng với “này đây” như một cặp không thể tách rời. Đây là cách Xuân Diệu biểu hiện cảm xúc trước thiên nhiên luôn có sự kết đôi, mọi vật quấn quýt lấy nhau, là của nhau không thể tách rời. Tất cả đều mang vẻ đẹp của sự trẻ trung và sức sống tròn trịa có đôi có cặp.những mĩ từ được sử dụng mang tính gợi hình cao “ Hoa “ nở trên nền “ xanh rì “ của đồng nội bao la, “lá ” của “ cành tơ ” đầy sức trẻ và nhựa sống. Mọi thứ đều có cảm giác non tơ, mơn mởn ấy lại được tôn lên trong sự hiệp vần “ tơ phơ phất ” ở sau. Cuộc sống hiện ra trong hình ảnh của một vườn địa đàng, trong xúc cảm của một niềm vui trần thế.
Câu thơ thứ chín xuất hiện bằng ba chữ “ và này đây ”, như thể một người vẫn còn chưa thoả, chưa muốn dừng lại. Đây không còn là những hình sắc cụ thể như “lá, hoa, ong bướm “ mà trừu tượng hơn là ánh sáng, niềm vui, thời gian – những vật thể không hữu hình. Không chỉ sử dụng những hình ảnh mang tính biểu tượng cao, cách mà Xuân Diệu gieo vào lòng người còn là những thứ mà con người cần phải quý trọng. Vẻ đẹp của thiên nhiên chỉ được coi là đẹp khi mang dáng dấp của vẻ đẹp con người. Đó chính là vẻ đẹp của “hàng mi” của một đôi mắt đẹp. Nhưng có lẽ nét độc đáo của 13 câu thơ chính là 2 câu thơ mang tính so sánh cao
Tháng giêng ngon như một cặp môi gần.
Hình ảnh so sánh thật thú vị và đầy bất ngờ, thời gian đẹp nhất của mùa xuân lại được coi như một cặp môi gần,vừa mang đến sự đam mê, sự lôi cuốn mà còn là sự say đi .
Dưới con mắt của kẻ si tình, mùa xuân hiện ra thật đẹp, thật gợi cảm. Nó còn được tác giả đi liền với từ “ ngon” mặc dù không ăn được, không chạm được nhưng lại “ ngon. Mùa xuân như sinh ra cho con người tận hưởng, cho hạnh phúc đến với con người, thời gian trừu tượng mới trở nên gần gũi, do vậy mùa xuân hiện lên trong cảm xúc của một tâm hồn đang thèm khát tận hưởng. Vẻ đẹp của mùa xuân như đã bị hoàn toàn chiếm hữu.
Hình ảnh so sánh ấy như một người đang đợi chờ, sẵn sàng dâng hiến cho tình yêu. Chính vì thế tác giả mới thốt lên nhưng lại chùng xuống và có vẻ tiếc nuối:
“Tôi sung sướng”
Nhưng vội vàng một nửa.
Và rồi ở những câu tiếp theo, tác giả nêu ra tại sao lại sung sướng nhưng lại vội vàng:
Xuân đương đến nghĩa là xuân đương qua
Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già.
Cái mới của bài thơ và cả quan niệm của Xuân Diệu trong bài thơ được thấy rõ và phát hiện. Tưởng chừng nó giống như một qyi luật bình thường ai cũng biết nhưng đặt trong trường hợp này,nó lại là cả một quá trình chiêm nghiệm và nhận thức.Tác giả đã để hai vế tưởng như trái ngược nhau lại trở thành ngang hàng :“đang tới” đối với “đang qua”, “non” nghịch với “già”. Đây là cách nói đầy ấn tượng tạo nên sự trôi mau gấp rút vô cùng của thời gian. Điều này càng có ý nghĩa với một người mà sự sống đồng nghĩa với tuổi xuân, được thể hiện với đẳng thức thứ ba,vừa có cảm giác sợ hãi,lại tiếc nuối nhưng cũng có cảm giác như hối thúc phải sống sao cho không phí hoài tuổi trẻ, bởi xuân hết thì tôi cũng không còn nữa..
Và xuân hết nghĩa là tôi cũng mất.
Bằng những nét vẽ vô cùng sống động, độc đáo,Xuân Diệu đã tái hiện lại khung cảnh hết sức lãng mạn, một thiên đường dưới mặt đất. Dưới con mắt tinh tế, nhạy cảm của nhà thơ cuộc sống thật tươi đẹp và đáng sống biết bao, nhưng cuộc sống ấy cũng thật ngắn ngủi nên phải sống vội vàng để tận hưởng hết niềm vui và hạnh phúc của cuộc sống. Qua đây tác giả cũng thể hiện và gửi gắm tư tưởng lạc quan yêu đời mà tác giả đã tạo ra cho thế hệ trẻ, cần phải sống,đam mê hết mình để cống hiến cho tuổi trẻ.
Phân tích 13 câu đầu bài thơ Vội vàng của Xuân Diệu – Bài làm 5
Bốn câu đầu là ham muốn khát khao giao cảm với đời của cái tôi cá nhân:
“Tôi muốn tắt nắng đi cho màu đừng nhạt mất
Tôi muốn buộc gió lại cho hương đừng bay đi”.
Câu thơ mở đầu bằng đại từ nhân xưng “tôi” được nhắc lại hai lần. Nếu như văn học trung đại thủ tiêu cái tôi cá nhân, hòa cái tôi trong cái ta chung của cộng đồng thì văn học hiện đại đặc biệt là thời kỳ Thơ mới (1932-1945) đã trả lại cái bản ngã của mỗi con người. Cái tôi Thơ mới bước lên vũ đài để khẳng định cá tính riêng cùng những khao khát bản thân về cuộc sống, tình yêu, khát vọng, hoài bão…Có thể nói sự thắng thế của phong trào thơ mới đã tạo ra một cuộc nổi loạn của cái tôi mà bốn câu thơ đầu bài Vội vàng là một điển hình.
Điệp ngữ “tôi muốn” nhắc lại hai lần ở đầu câu thơ đã chia đoạn thơ thành hai cặp câu với những ước muốn rất cụ thể mà ngông cuồng: nhà thơ muốn tắt nắng và buộc gió. Thoạt nghe ta thấy phi lý bởi làm sao có thể tác động đến sự vật vô hình như thế? Huống hồ nắng vốn đẹp vốn sáng, gió vốn mát vốn nhẹ, toàn những thứ làm đẹp thêm cuộc sống vậy mà thi sĩ lại muốn “tắt”, muốn “buộc” lại. Phải chăng Xuân Diệu cũng giống như Chế Lan Viên, muốn “chắn nẻo xuân sang” để giam giữ tâm hồn mình trong tháp ngà văn chương? Nhưng đọc đến câu thơ thứ hai, thứ tư, ta mới hiểu cái ước nguyện tưởng ngông cuồng mà lại chân thành đến tội nghiệp. Xuân Diệu muốn tắt nắng để “cho màu đừng nhạt mất:, muốn buộc gió để “hương đừng bay đi” với sắc thái van nài, khẩn khoản qua các động từ “cho, đừng”. Hóa ra nhà thơ muốn lưu giữ những màu, những hương của cuộc đời cho riêng mình nên mới trở nên ngông cuồng và bồng bột như thế. Nhịp thơ vì thế mà rạo rực, gấp gáp chứ không phải là những nhịp ngắt chậm đều của những tâm hồn sầu, buồn khát trong Thơ mới.
Bốn câu thơ có thể coi là tuyên ngôn của nghệ sĩ Xuân Diệu.
Bảy câu thơ tiếp theo vẽ ra một thiên đường trên mặt đất, một mảnh vườn tình ái, vạn vật đương lúc dạy tình, đầy quyến rũ, đầy mời gọi bước chân con người.
“Của ong bướm này đây tuần tháng mật”…
Tháng riêng ngon như một cặp môi gần”
Điệp ngữ “này đây” lặp đi lặp lại trong 7 câu thơ mở ra một thế giới đầy xuân sắc, xuân tình như một bàn tiệc đầy màu sắc mà ở đó tất cả dường như thừa thãi. Chúng hiện diện ngay trước mặt nhà thơ, ngay lúc này, trong kiếp này chứ không phải một cõ Thiên Thai, Bồng Lai tiên cảnh xa xăm. Mỗi một câu thơ lại mở ra một hình ảnh, màu sắc, âm thanh, cảm giác thú vị. Đôi mắt thi sĩ lại tìm kiếm, đôi tay thi sĩ lại vồ vập để cảm nhận những khung cảnh đang dần mở ra:
"Này đây hoa đồng nội xanh rì
Này đây lá của cành tơ phơ phất”
Bước tránh xuân với những hoa đồng nội, lá non búp nõn là sự mượt mà căng tròn nhựa sống. Màu “xanh rì” là một màu xanh mơn mởn non tơ, êm như nhung lụa và trên sóng cỏ đó là những bông hoa đồng nội đầy màu sắc. Hình ảnh “cành tơ phơ phất” gợi lên cái trạng thái mềm mại, lay động nhẹ nhàng của cây lá trước gió xuân.
“Của yến anh này đây khúc tình si”
Không chỉ mở ra thế giới của màu sắc, mảnh vườn xuân còn ríu ran những thanh âm của tiếng chim ca. “Yến – anh” vốn là những loài chim biểu tượng cho tình yêu đôi lứa, chim chóc cũng đang cất lên những khúc ca gọi bạn bầy, cũng là khúc tình si mê đắm của lứa đôi.
“Và này đây ánh sáng chớp hàng mi
Mỗi buổi sớm thần Vui hằng gõ cửa”.
Trong thơ xưa, thiên nhiên là chuẩn mực của cái đẹp. Cái đẹp của con người luôn được so sánh với cái tuyệt mĩ của tự nhiên. Nhưng với Xuân Diệp, “nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới”. Ông lại coi con người mới là chuẩn mực, thiên nhiên muốn đẹp phải được soi chiếu với vẻ đẹp con người. Ánh sáng bình minh tràn đầy sức sống được tỏa ra từ cái chớp mắt trên hàng mi thiếu nữ.
Bên cạnh những phút giây mê đắm là những khoảnh khắc ngưng lại của lý trí:
“Tôi sung sướng nhưng vội vàng một nửa
Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân”.
Câu thơ với nhịp ngắt đột ngột, kết cấu đối lập tương phản gợi lên hai thái cực khác nhau trong cảm xúc: một bên là sự sung sướng say mê, một bên là sự Vội vàng, lo lắng, cuống quýt. Dấu chấm giữa câu thơ chia đôi trạng thái tình cảm: trước cụm từ tôi sung sướng là mảnh vườn xuân đầy ái ân, còn sau đó là những dồn dập của Vội vàng.
Đọc những câu thơ trên, ta không khỏi liên tưởng đến những bước họa mùa xuân của mỹ thuật thời Phục hung, ta lại muốn nghe bản giao hưởng bốn mủa của Bét-tô-ven. Thơ Xuân Diệu đẹp cả hình ảnh, giai điệu và thôi thúc con người đừng ngại ngần mà hãy bước chân vào bữa tiệc đời xung quanh mình. Cả đoạn thơ là một thông điệp: không phỉ đi tìm thiên đường đâu xa mà chính sự sống này tự nó đang bày ra trước mắt tất cả sức hấp dẫn vốn có. Ta cảm nhận được hay không phụ thuộc vào thái độ sống của ta. Đoạn thơ thứ nhất là một căn cứ vững chắc, tạo tiền đề cho những luận điểm tiếp theo mà Xuân Diệu sẽ triển khai ở những câu thơ dưới đây. Chính quan niệm mới mẻ, tích cực, tiến bộ ấy đã góp phần làm nên vị trí của Xuân Diệu trong phong trào Thơ mới.
Từ khóa tìm kiếm
- phân tích 13 câu đầu bài thơ vội vàng
- phân tích 13 câu đầu bài vội vàng
- cảm nhận bài thơ vội vàng 13 câu đầu
- phân tích 11 câu đầu bài vội vàng
- phan tich 13 cau dau tac pham voi vang
- vội vàng là bài thơ tiêu biểu cho phong cách trẻ trung nồng nàn đến độ đam mê của nhà thơ phân tích 13 câu thơ đầu để làm rõ quan niệm nhân sinh mà tác giả gởi gắm
- Phan danh gia cua 13 cau dau bai tho voi vang
- nghị luận văn học vội vàng 13 câu đầu
- mo bai bai tho voi vang 13 cau dau hay nhat
- cái mới của xuân diệu trong đoạn của ong bướm này đây tuần tháng mật