25/05/2017, 00:53

Phân tích bài Xuất dương lưu biệt của Phan Bội Châu – Văn mẫu lớp 11

Đánh giá bài viết Phân tích bài Xuất dương lưu biệt của Phan Bội Châu – Bài làm của một học sinh chuyên Văn trường THPT Lê Quý Đôn Bình Định “Thi dĩ ngôn chí” – thơ để nói chí, tỏ lòng. Cho nên tầm vóc của loại thơ này rốt cuộc, phụ thuộc vào tầm vóc của chí. Mà chí khí ...

Đánh giá bài viết Phân tích bài Xuất dương lưu biệt của Phan Bội Châu – Bài làm của một học sinh chuyên Văn trường THPT Lê Quý Đôn Bình Định “Thi dĩ ngôn chí” – thơ để nói chí, tỏ lòng. Cho nên tầm vóc của loại thơ này rốt cuộc, phụ thuộc vào tầm vóc của chí. Mà chí khí không phải là những bột phát nhất thời, càng không thể là những chí hướng vay mượn. Chí cần phải được đảm ...

Phân tích bài Xuất dương lưu biệt của Phan Bội Châu – Bài làm của một học sinh chuyên Văn trường THPT Lê Quý Đôn Bình Định

“Thi dĩ ngôn chí” – thơ để nói chí, tỏ lòng. Cho nên tầm vóc của loại thơ này rốt cuộc, phụ thuộc vào tầm vóc của chí. Mà chí khí không phải là những bột phát nhất thời, càng không thể là những chí hướng vay mượn. Chí cần phải được đảm bảo bằng nghiệp. Có thể có những sự nghiệp không thành, nhưng sự dang dở ấy cũng chứng tỏ về một chí lớn đã dấn thân, không phải thứ chí suông. Chính nó là sự đảm bảo cho thơ. Vì thế. thơ sẽ chỉ còn là những lời lẽ khoa trương sáo rỗng, là sự cường điệu đao to búa lớn rẻ tiền, nếu như không có một chí lớn, hơn thế nếu như chí lớn ấy không gắn với một cốt cách lớn, một cuộc đời lớn.

Tiếng thơ bộc lộ trực tiếp các chí lớn xưa nay thường gắn với những bậc hào kiệt, những đấng trượng phu. Thơ của họ là lời tuyên ngôn của cuộc đời họ. Trước khi họ tạc con người mình vào trong thơ, thì họ đã tạc con người mình vào sông núi. Người đời thường ví họ như chim hồng, chim hộc và đối lập với những chim sẻ, chim ri. Và trong thơ của mình, họ hiện ra đúng như những cánh đại bàng vẫy vùng trong mênh mông trời biển. Tư thế của họ là tư thế kì vĩ, tư thế vũ trụ, chẳng “Hoành sóc giang san cáp kỉ thu’ (Cấp ngang ngọn giáo bảo vệ giang sơn đã mấy. thu – Phạm Ngũ Lão), thì cũng “Kỉ độ long tuyền đới nguyệt ma” (Bao phen mang gươm báu mài dưới trăng – Đặng Dung), chẳng "Trường khiếu nhắt thanh hàn thái hư” (Kêu to một tiếng làm lạnh cả hư không – Không Lộ thiền sư) thì cũng “Bay thẳng cánh muôn trùng Tiêu Hán, Phá vòng vây bạn với Kim ô” (Nguyễn Hữu cầu)… như thế dã chứa đựng trong đó hào khí của cả giống nòi.

Nằm trong mạch ngôn chí trực tiếp ấy, Xuất dương lưu biệt của Phan Bội Châu là hùng tâm tráng chí của một trong những người con ưu tú nhất của nòi giống Việt Nam.

Thực ra cái quan niệm làm trai ở trong bài thơ này không phú cua riêng Phan Bội Châu. Nó là quan niệm chung về chí làm trai của nhà Nho thuở trước. Và ít nhất ta cũng thấy nó từng vang lên rất mãnh liệt trong thơ văn Nguyễn Công Trứ. Song, điều đáng nói chính là ở chỗ, không phải Phan Bội Châu đang ném ra cuộc đời một quan niệm lí thuyết như một người có ý đồ lập thuyết, mà ông là người đã sống cái quan niệm ấy một cách đủ đây trước khi viết thành thơ. Có lẽ vì thế mồ Xuất dương lưu biệt không chỉ chứa đựng một lẽ sống mà trước hết là chứa đựng chân dung một con người – một con người lỗi lạc, kiệt xuất:

Hai câu đề:

Làm trai phải lạ ở trên đời,

Há để càn khôn tự chuyển dời.

Tôi không nghĩ chữ “lạ” trong bản dịch này đã thể hiện được hết cái tinh thần của chữ “kì”. Bởi chữ “kì” muốn nói đến cái điều: làm trai phải làm được những điều kì lạ, kiệt xuất, phi thường. Một mình chữ “lạ” không tải hết ý của Phan tiên sinh. Tôi cũng không nghĩ rằng người dịch dùng ba chữ "ở trên đời” là đã diễn được thực ýcủa nguyên tác. “Đời” là một không gian tưởng là rộng nhưng hóa ra lại hẹp, bởi nó có xu hướng co vào cái phạm vi của thế giới người thôi. Trong nguyên văn, Phan Bội Châu không dùng những chữ ấy. Chỉ đến câu thứ hai ta mới thấy yêu tố không gian xuất hiện. Và lập tức bậc tu mi nam tử theo quan niệm của Phan Sào Nam đã hiện ra trong tương quan kì vĩ nhất: không gian vũ trụ. Đấng nam nhi sinh ra ở trong vũ trụ này là đối mặt với càn khôn (trời đất), nghĩa là với tất cá những gì lớn lao nhất trong vũ trụ này, chứ không riêng gì thế  giới người. Vậy là ngay từ hai câu đề, hình ánh khái quát về một bậc hào kiệt đã hiện lên đầy ấn tượng: Đó không phải là kẻ sống thụ động phó mặc đường đời mình cho trời đất, và cũng không phó mặc cõi đời này cho sự xoay vần của trời đất. Đấng nam tử phải là người chủ động đổi thay cả càn khôn. Cái chí dọc ngang trời đất, chọc trời khuấy nước, cải tạo vũ trụ đó mới là điều xứng với một đời làm nam nhi. Quan niệm con người của Phan Bội Châu ở đây là quan niệm con người vũ trụ rất quen thuộc của văn chương Nho giáo trung đại.

Nếu hai câu đề gợi ra hình ảnh nam tử trong không gian kì vĩ, thì hai câu thực đã phát triển hình ảnh ấy trong một chiều kích khác: thời gian. Thời gian ở đây cũng là thời gian thuộc tầm cỡ vĩ mô:

Trong khoảng trăm năm cần có tớ,

Sau này muôn thuở há không ai?

Ở câu đề tuy khẩu khí cá nhân đã rõ, nhưng quan niệm vẫn là quan niệm chung. Đến đây thì con người cá nhân Phan Bội Châu đã xuất hiện ngay trên bề mặt câu chữ. Ông đã ý thức về vai trò lịch sử của mình thật kiêu hùng đầy tự tôn, tự tin. Mình phải trở thành một nhân vật không thể thiếu trong cái khoảng thời gian một trăm năm nay. Nói một cách khác, ông tự lĩnh nhận sứ mạng của mình: một con người cần thiết của thế kỉ. Đối diện với càn khôn, đối diện với cả thế kỉ, tầm vóc của bậc nam tử này thật là tầm vóc vũ trụ. Không phải ông muốn chiếm lấy một chỗ đứng trong thời gian như một kẻ vĩ cuồng háo danh. Mà chính là làm nên cái việc trọng đại, kiệt xuất là xoay chuyển càn khôn để làm đổi thay bộ mặt của thế kỉ. Chữ “tớ” là cách dịch thoát của chữ “ngã“ (tôi). Dù dịch là tôi, là ta, là “tớ” thì ngã vẫn cứ là cái ý thức mãnh liệt về cá nhân mình trên cõi thế gian này. Hình ảnh tác giả hiện ra trong mênh mông thời gian, lồng lộng không gian như thế là một vẻ đẹp cá nhân thật nguy nga tráng lệ. Phải thấy rằng, ít có ai đã tự họa mình trong một không gian và thời gian hoành tráng như vậy!

Dầu sao trong bốn câu đầu này mới nói đến điều phải “lạ”, mà chưa nói rõ “việc lạ” cần làm là gì! Bốn câu tiếp theo sẽ dần dần làm sáng lên điều đó. Hai câu luận là một sự nhìn nhận phi thường:

Non sông đã chết sống thêm nhục,

Hiền thánh còn đâu học cũng hoài

Câu trên khẳng định: Non sông đã chết! Khi chủ quyền đã về tay kẻ ngoại bang, thì non sông đã chết. Sống mà không có quyền làm chủ là sống nhục. Bốn chữ “Giang sơn tử hĩ” chất đầy đau đớn và phẫn uất. Câu dưới tiếp tục Hiền thánh đã vắng bóng thì có đọc sách cũng ngu thôi! Tất cả là những lời phủ định dứt khoát, quyết liệt rằng: Còn theo đòi sách vở, còn sống ở trong nước thời buổi này là điều nhục nhã đối với một trang nam nhi. Bởi đó là đã nhắm mắt quay lưng cho “càn khôn tự chuyển đi”, là phó mặc mình cho đời xoay vần. Tất cả những gì thiêng liêng xứng đáng với một bậc nam tử coi như đã chết. Vì thế mà cần phải có hành động xứng đáng. Hành động xứng đáng, hành động kiệt xuất phi thường ấy bây giờ chính là: Xuất dương.

Những câu trên ta thấy cái tôi (ngã) hiện ra trước “càn khôn”, trước “ Bách niên trung”, “Thiên tải hậu” những chiều kích vĩ của không gian và thời gian, ở đây, nó tiếp tục được tô đậm bằng: “Giang sơn” và “Thánh hiền". Con người ấy đối mặt với giang sơn đất nước, đối mặt với toàn bộ nền học  vấn. Cho nên, càng về sau chân dung của con người ấy, cái tôi ấy càng sắc nét với tất cả những gì lớn lao nhất. Cái không gian duy nhất có thể chứa đựng được con người ấy là vũ trụ.

Đến hai câu kết thì những nét bút kì vĩ cuối cùng đã hoàn thiện hành động kiệt xuất của một cuộc đời kiệt xuất:

Muốn vượt biển Đông theo cánh gió,

Muôn trùng sóng bạc tiễn ra khơi.

Sáu câu trên gợi ra những nghĩ suy, những lựa chọn, những chuẩn bị trong tâm lí, trong tư tưởng của một con đại bàng. Ở hai câu này, chúng ta thấy con đại bàng ấy đang tung đôi cánh mênh mông của mình bay thẳng ra trùng dương, đối mặt với hết thảy những giông tố bão bùng. Câu thơ gợi ta nhớ đến tư thế của con chim lớn trong thư Quận He: “Bay thẳng cánh muôn trùng Tiêu Hán, Phá vòng vây bạn với Kim ô”. Nhưng câu thơ của Phan Bội Châu không còn là một hình ảnh ước lệ nữa. Bởi phong trào Đông du mà ông là người chủ trương, bởi việc xuất dương mà ông là người khởi sự chính là những hành động phi thường của những bậc trượng phu sẵn sàng ném đời mình vào muôn trùng sóng bạc ra khơi tìm đường làm sống lại “giang sơn đã chết”, tìm cách xoay chuyển càn khôn.

Bài thơ kết bằng câu thơ đầy hùng tâm tráng chí mà câu thơ dịch chưa thể chuyền tải hết được:

Thiên trùng bạch lãng nhất tề phi.

Như vậy, làm trang nam nhi không phải là bằng mọi cách để lưu danh sử sách, khẳng định cá nhân. Mà cá nhân ấy phải làm nên việc phi thường, ấy là việc kinh bang, tế thế, cứu dân cứu nước. Khát vọng sống cao cả của Phan Bội Châu ở đây, một lần nữa, giúp ta hiểu được cái cốt cách vĩ đại của con người kiệt xuất này.

Phân tích bài Xuất dương lưu biệt của Phan Bội Châu – Bài làm 2

Trong nền văn học Việt Nam có những nhà thơ còn là những nhà chính trị tài ba, những anh hùng cứu nước. Nếu như chúng ta biết đến Hồ Chí Minh, một người không bao giờ tự xưng là nhà thơ nhà văn nhưng trong quá trình hoạt động cách mạng lại những vần thơ hay, Tố Hữu cũng là một nhà thơ đồng thời là một chiến sĩ đấu tranh cách mạng thì ta cũng không thể nào không nhắc đến Phan Bội Châu. Ông là một nhà cách mạng hết lòng vì sự nghiệp đất nước. Cũng giống như Hồ Chí Minh thì Phan Bội Châu cũng có những sáng tác văn học nhất định. Trong số những sáng tác của ông phải kể đến bài thơ Xuất dương lưu biệt

Bài thơ này được sáng tác vào cuối thế kỉ XIX, phong trào Cần Vương thất bại, thực dân Pháp chiếm toàn phần Đông Dương. Tình hình chính trị của đất nước vô cùng hỗn loạn. Năm 1905 sau khi thành lập hội Duy Tân, hội đã chủ trương cho Phan Bội Châu ra nước ngoài hoạt động cách mạng. Trong bữa cơm chia tay anh em đồng chí để lên đường Phan Bội châu đã làm bài thơ này để thay lời chia tay họ. Bài thơ thể hiện rất rõ ý chí làm trai và ý chí của một người cách mạng.

Hai câu thơ đầu thể hiện rất rõ chí làm trai của Phan Bội Châu nói riêng và của thời phong kiến nói chung:

“Sinh vi nam tử yếu hy kỳ,
Khẳng hứa càn khôn tự chuyển di.”
(Làm trai phải lạ ở trên đời
Há để càn khôn tự chuyển dời)

Nói đến chí làm trai hẳn ai trong chúng ta cũng từng biết đến những quan niệm về chí làm trai của Nguyễn Công Trứ và Phạm Ngũ Lão:

“Chí làm trai nam bắc tây đông
Cho phỉ chí anh hùng trong bốn bể”
Hay
“công danh nam tử còn vương nợ
Luống thẹn tai nghe thuyết Vũ hầu”

Và đến Phan Bội Châu lại tiếp tục nêu lên chí làm trai thời phong kiến. Thế nhưng trước sự ảnh hưởng cái mới của thời đại mình nhà thơ đã kế thừa những quan niệm xưa của cha ông và nêu lên những cái mới trong quan niệm chí làm trai của mình. Làm trai thì phải làm những việc lạ nghĩa là làm những việc hiển hách phi thường. Dám làm những việc kinh thiên động địa xoay chuyển đất trời chứ không thể ngồi im để mặc cho đất trời xoay chuyển mình được. Phải chăng đó chính là khát vọng sống mãnh liệt của chàng trai đầy nhiệt huyết với cuộc đời. Cảm hứng ấy gần gũi với những triết lý nhân sinh của nho giáo nhưng cũng đồng thời mang nét táo bạo mới mẻ hơn. Con người chúng ta luôn phải chiều theo sự xoay chuyển của trời đất những tác giả ở đây lại không thể để cho càn khôn tự chuyển dời được. Chính vì thế mà nhà thơ thể hiện được lý tưởng sống của một con người khỏe khoắn ngang tàng.

Hai câu thực nhà thơ tiếp tục đi vào làm rõ chí làm trai của mình. Càng nói ra càng thấy Phan Bội Châu quả là một vị anh hùng tài năng và đầy khí phách:

“Trong khoảng trăm năm cần có tớ
Sau này muôn thuở há không ai ?”

Thời gian khoảng trăm năm là một đời con người, tác giả khẳng định trong khoảng trăm năm ấy cần có tác giả. Một đời người hay chính là hiện tại ấy phải cần có một anh hùng với chí làm trai mạnh mẽ táo bạo của nhà thơ. Ở đây ta thấy xuất hiện cái tôi cá nhân riêng biệt. Nhưng ở cái tôi ấy ta cảm nhận được cái tôi nhỏ bé, ý thức cá nhân với tư cách là một công dân với tinh thần trách nhiệm với đất nước mình. Đó tuyệt nhiên không phải cái tôi ngạo nghễ ngông nghênh. Cái tôi ấy được nhà thơ xưng là “tớ” thể hiện sự gần gũi. Trong trăm năm ấy một bậc đại trượng phu sống không phải để hưởng hết những lạc thú của cuộc đời mà để cống hiến tài trí của mình cho đất nước. Hiện tại có nhà thơ thì say này chẳng nhẽ lại không có ai là anh hùng thật sự. Nói như thế nhà thơ như khẳng định những bậc anh hùng hào kiệt nước ta đời nào cũng có. Tác giả cũng thể hiện được sự tự hào về bản thân mình. Câu thơ có hình thức là một câu nghi vấn song thực chất nó có tác dụng làm tăng cấp độ ý chí muốn làm những việc lớn để cống hiến hết mình tổ quốc thân yêu.

Không những thế chí làm trai còn gắn liền với vận mệnh đất nước, sự vinh nhục được thể hiện rất rõ:

“Non sông đã mất, sống thêm nhục
Hiền thánh còn đâu, học cũng hoài”

Non sông đã mất thể hiện cảnh tượng nước nhà rơi vào tay giặc, tất cả nhân dân phải chịu ách thống trị nô lệ của giặc, hàng ngày họ phải sống trong cảnh áp bức bóc lột. Đối với một bậc trượng phu khi phải sống trong cảnh nước mắt ấy thì coi như đã chết rồi. Chính vì thế mà ông đưa ra ý tưởng bỏ sách thánh hiền. Đó là một ý tưởng táo bạo nhưng lại mang sự tiến bộ. Đối với nhà thơ thì tình cảnh đất nước như thế không còn học đạo vua tôi, đạo sơ chung. Bởi vì theo nhà thơ sách thánh hiền khi ấy chẳng giúp ích gì được cho cảnh nước mất nhà tan, nếu cứ khư khư ôm giữ thì chỉ là ngu mà thôi. Tuy nhiên không phải nhà thơ phủ nhân hết những lợi ích của sách thánh hiền, nếu nói như thế chẳng khác nào ông cha ta ngu khi đọc sách đó. Mà điều tác giả muốn khẳng định là khi ấy đọc sách thánh hiền không có tác dung và không phù hợp với hoàn cảnh đất nước.

Từ những ý niệm về chí làm trai khi sống là một bậc trượng phu trên cuộc đời, cùng với những diễn biến phức tạp của lịch sử Phan Bội Châu thể hiện nguyện vọng và mong muốn của mình:

“Muốn vượt bể Đông theo cánh gió
Muôn trùng sóng bạc tiễn ra khơi.”

Hình ảnh ấy “bể đông theo cánh gió” và “muôn trùng sóng bạc” là hai hình ảnh mang tính chất hào hoa lãng mạn thể hiện được khát khao cao đẹp mãnh liệt của nhà thơ. Phan Bội châu muốn vượt lên thực tại đen tối của đất nước để quyết tâm lên đường làm nghiệp lớn bảo vệ cho đất nước cũng chính là bảo vệ cho sự sống còn và vinh nhục của chí làm trai. Nhà thơ muốn vượt bể Đông để theo cánh gió, cái cánh gió ấy sẽ đưa ông đến những mảnh đất văn minh ở đó ông sẽ học tập và đem những gì mình học được về cứu đất nước. Muôn trùng sóng bạc như đưa chân người anh hùng đi làm chí lớn.

Tóm lại cả bài thơ là một quan niệm chí làm trai của Phan Bội Châu. Đối với ông chí làm trai ấy phải làm được những điều hiển hách được ghi tên trong bảng vàng lưu danh muôn đời. Vận mệnh của chí làm trai gắn liền với vận mệnh của đất nước. Với giọng điệu hào hung trang nghiêm, cách sử dụng từ ngữ hấp dẫn lôi cuốn bài thơ hiện lên như một bài ca hào hùng về chí làm trai. Nó dường như tiếp sức cho Phan Bội Châu đi trên con đường cứu nước.

Phân tích bài Xuất dương lưu biệt của Phan Bội Châu – Bài làm 3

Phan Bội Châu (1867 -1940), tên thật là Phan Văn San,  hiệu là Sào Nam, người làng Đan Nhiệm, nay là xã Nam Hoà, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An. Phan Bội Châu là người khơi dòng chảy cho loại văn chương trữ tình – chính trị. Thơ ông thể hiện một bầu nhiệt huyết luôn sục sôi của một người mà lí tưởng duy nhất là giành lại độc lập tự do cho dân tộc.

Năm 1904, ông cùng các đồng chí của mình lập ra Duy Tân hội. Năm 1905, hội chủ trương phong trào Đông Du, đưa thanh niên ưu tú sang Nhật Bản học tập để chuẩn bị lực lượng nòng cốt cho cách mạng và tranh thủ sự giúp đỡ của các thế lực bên ngoài. Trước lúc lên đường, Phan Bội Châu làm bài thơ Xuất dương lưu biệt để từ giã bạn bè, đồng chí.

Bằng một giọng thơ sôi nổi, đầy hào khí, Lưu biệt khi xuất dương thể hiện được tinh thần chung của thời đại, đã thổi vào không khí cách mạng đầu thế kỉ XX một luồng sinh khí mới. Điều này có một ý nghĩa vô cùng quan trọng cho sự nghiệp cách mạng Việt Nam ở thời điểm cam go nhất.

Làm trai phải lạ ở trên đời,
Há để càn khôn tự chuyển dời.

Hai câu thơ đã thể hiện một lí tưởng đẹp của con người. Con người phải làm chủ bước đi của lịch sử, phải tích cực tham gia vào sự vận động của thế sự. Mở rộng ra nghĩa là con người phải chủ động trước hoàn cảnh. "Làm trai" là khẳng định chí khí của thanh niên nói chung, chứ thực ra, Phan Bội Châu không phải là người có tư tưởng bảo thủ "trọng nam khinh nữ". Chân dung nhân vật trữ tình trong bài Lưu biệt khi xuất dương hiện lên khá rõ qua hai câu đề. Đó là một con người mang tầm vóc vũ trụ, tự ý thức rằng mình phải có trách nhiệm gánh vác những trọng trách lớn lao. Con người ấy dám đối mặt với cả càn khôn, vũ trụ để tự khẳng định mình, tạo nên tâm thế để tiếp tục khẳng định:

Trong khoảng trăm năm cần có tớ,
Sau này muôn thuở, há không ai?

Một lời khẳng định dứt khoát, đầy khí phách về sức mạnh của con người trước càn khôn. ý thức về cái Tôi đã được tác giả tận dụng triệt để bằng cách tạo nên thế đứng đặc biệt : sự ngang hàng giữa "tớ" và “khoảng trăm năm". Đây không phải là sự đề cao cái Tôi một cách bi quan hay cực đoan như ở một số nhà thơ mới sau này mà là sự khẳng định trách nhiệm của mỗi người, nhất là thanh niên, đối với vận mệnh dân tộc. Câu thơ cũng là lời giục giã, đánh thức tinh thần đấu tranh của con người. Là lãnh tụ cách mạng đầy tâm huyết, Phan Bội Châu là người luôn có ý thức kêu gọi mọi người cùng góp sức tranh đấu. Sau khi khẳng định chí nam nhi, nhà thơ lại nói đến trách nhiệm đối với dân tộc của mỗi người. Tấm lòng và nhân cách cao đẹp của một nhà nho, một con người chân chính đã thể hiện ở đây:

Non sông đã chết sống thêm nhục,
Hiền thánh còn đâu, học cũng hoài

Hai câu luận vẫn tiếp tục được viết dưới hình thức đối ngẫu quen thuộc của thơ cổ điển, nó vừa khẳng định khí tiết vừa là quyết tâm của người chiến sĩ. Vào thời buổi đó của đất nước, ra đi tìm đường cứu nước là lí tưởng đúng đắn. Lúc này, khi dân tộc đã mất tự do, chủ quyền đất nước bị xâm hại, thì việc đầu tiên, cần thiết nhất không phải ngồi đó để học văn chương nữa. Câu thơ không có ý chê bai hay bài xích chuyện học đạo thánh hiền mà có ý khuyên con người ta phải nhận định đúng thời cuộc. Nước mất thì nhà tan, thân nô lệ làm sao mà thực hiện được đạo thánh hiền. Câu thơ còn thể hiện nỗi xót xa của nhà thơ. Trên thực tế, khi thực dân Pháp vào xâm lược đất nước ta, văn hoá phương Tây đã tràn vào Việt Nam, mang theo nhiều điều mới mẻ nhưng cũng không ít rác rưởi. Nó đã gây nên sự xáo trộn ghê gớm trong nền đạo đức, luân lí xã hội và trở thành nỗi đau đời của các nhà nho vốn coi trọng "tam cương ngũ thường". Trước tình hình đó, bài thơ Lưu biệt khi xuất dương có ý nghĩa như một hồi chuông thức tỉnh lòng yêu nước, động viên mọi người đứng lên chống giặc ngoại xâm. 

Trong hai câu luận, Phan Bội Châu đặt chí làm trai vào hoàn cảnh thực tế của lịch sử đương thời:

Muốn vượt bể đông theo cánh gió,
Muôn trùng sóng bạc tiễn ra khơi.

Khí thế ra đi thật hùng dũng và đầy quyết tâm, tràn trề sức mạnh. Câu thơ cuối cùng khẳng định bầu nhiệt huyết đang sục sôi của người ra đi. Hướng về phía đông (cụ thể là nước Nhật), người ra đi với một quyết tâm rất cao. Bản dịch chưa thể hiện hết được tinh thần của nguyên tác ở ba chữ nhất tề phi. Cái mạnh mẽ và hùng dũng, đầy nhiệt huyết và cũng tràn đầy hi vọng thể hiện ở câu thơ cuối cùng này. Hình ảnh kết thúc bài thơ hào hùng, lãng mạn, thể hiện được tư thế ra đi đầy khí phách của con người trong thời đại mới. Người ra đi đã gửi gắm bao nhiêu hi vọng vào con đường mình đã chọn.

Vẫn tiếp tục thể hiện chí làm trai của văn học truyền thống nhưng Phan Bội Châu đã mang đến cho chí khí ấy một sắc màu, một khí thế mới, hiện đại hơn. Bài thơ không chỉ có ý nghĩa động viên khích lệ thế hệ thanh niên lúc đó mà còn thể hiện một lẽ sống đẹp, là bài học làm người cho thanh niên – tầng lớp hùng hậu và mạnh mẽ nhất – mọi thời đại. Nhân vật trữ tình trong bài thơ là hình tượng đẹp về một nhà nho tiến bộ đầu thế kỉ XX với lí tưởng cứu nước, khát vọng sống, chiến đấu vì dân tộc.

Lời tạm biệt đầy nhiệt huyết, tâm thế ra đi đầy hào hứng và hiên ngang, bài thơ là khúc tráng ca của một thời đại đau thương nhưng đáng tự hào của dân tộc Việt Nam. Và là tấm gương sáng ngời muôn thủa để người đời sau soi mình.

Bài thơ là lời mời gọi lên đường, gửi gắm một khát vọng hoài bão mãnh liệt, khẳng định tình yêu đất nước tha thiết và thôi thúc tinh thần chiến đấu và bảo vệ Tổ quốc của tác giả. Giọng điệu bài thơ tâm huyết sâu lắng mà sôi sục, hào hùng, cùng với bút pháp khoa trương thể hiện niềm lạc quan, nhiệt tình hành động cùng những tư tưởng cách mạng của tác giả. Hình ảnh thơ kỳ vĩ, lớn lao kết hợp với những từ láy gây ấn tượng mạnh đã làm nổi bật được chí vá trời, lấp biển của nhà thơ Phan Bội Châu.

Phân tích bài Xuất dương lưu biệt của Phan Bội Châu – Bài làm 4

Sau khi tham gia thành lập Duy tân hội, đầu năm 1905, theo chủ trương cùa tổ chức, Phan Bội Châu nhận nhiệm vụ xuất dương tới Trung Quốc rồi Nhật Bản, mở đầu phong trào Đồng du, đặt cơ sớ đào tạo cốt cán cho cách mạng trong nước và cầu Nhật giúp Việt Nam đánh Pháp. Lúc này đất nước đã mất chủ quyền ; ngọn lửa của phong trào Cần vương đã tắt, báo hiệu sự bế tắc của con đường cứu nước theo tư tướng phong kiến do các sĩ phu lãnh đạo. Thời cuộc thay đổi đòi hỏi phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc phải có phương hướng, nội dung và hình thức hoạt động mới. Phan Bội Châu lúc này còn tương đối trẻ (38 tuổi), là hình ảnh tiêu biểu của một thế hệ cách mạng mới, quyết tâm vượt mình, vượt qua giáo lí đã lỗi thời của đạo Khổng để đón nhận luồng tư tưởng tiên phong trong giai đoạn, mong tìm ra hướng đi mới cho sự nghiệp khôi phục giang sơn. Phong trào Đông du được nhóm lên cùng với bao hi vọng… Lưu biệt khi xuất dương được viết ra trong bữa cơm ngày Tết mà Phan Bội Châu tổ chức tại nhà mình để chia tay các đồng chí trước lúc lên đường. Về sau, trên Bình sự tạp chí (Hàng Châu, Trung Quốc) số 34 (2-1917), Phan Bội Châu cho đăng bài thơ này dưới nhàn đề Đông du kí chư đồng chí (Gửi các đồng chí khi Đông du) với một vài sửa đổi vể câu chữ (so với bản được lưu hành trước đó) .

Phan Bội Châu tuy văn tài lỗi lạc nhưng không bao giờ xem văn chương là cứu cánh của đời mình. Ông chỉ muốn dùng nó để xốc người đời (đặc biệt là tầng lớp thanh niên) đứng dậy làm cách mạng, cứu nước, cứu dân. Với định hướng này, sáng tác của ông có được một âm hưởng đầy kích thích, khiến người đọc không thể ngồi yên một khi đã được tiếp xúc với nó. Bài Lưu biệt khi xuất dương chính là một ví dụ điển hình.

Bài thơ được mở ra không phải với những tình cảm bịn rịn, nhớ nhung. Hiện lên lồ lộ là lí tướng và hoài bão của một con người đang quyết xoay chuyển càn khôn, vũ trụ:

Sinh vi nam tử yếu hi kì,

Khẳng hứa càn khôn tự chuyển di.

(Làm trai phải lạ ở trên đời,

Há để càn khôn tự chuyển dời.)

Lưu biệt là để lại cho người đưa tiễn một cái gì đó như lời dặn dò hay bài thơ trước lúc rong ruổi đường xa. Ở đây, bản thân bài thơ là lời dặn dò, là tiếng nói khích lệ. Nhà thơ hiểu rằng hơn lúc nào hết, cả người ở lại lẫn người ra đi cần có một niềm tin, nếu chưa phải vào kết quả hành động thì cũng vào cái đúng của hành động mà mình đã lựa chọn. Quan niệm về chí làm trai cùa các nhà nho xưa đã được nhắc lại trên tinh thần này. Không thể nói điều được nhà thơ phát biểu ở hai câu thơ là hoàn toàn mới mẻ. Trước Phan Bội Châu, bao nhiêu con người ưu tú đã nói về chí làm trai với nhiệt tình cháy bỏng và với một hình thức ngôn từ rất gây ấn tượng. Ngay câu thơ thứ nhất của Phan Bội Châu, có thể nói, cũng thoát thai từ hai câu chữ Hán mở đầu bài Chí nam nhi của Nguyễn Công Trứ : "Thông minh nhất nam tử — Yếu vi thiên hạ kì" (Một người trai thông minh ắt phải làm được những việc khiến thiên hạ phải thấy kì lạ). Vậy vấn đề ở đây không phải là xét tính độc đáo của tư tưởng mà là xét mục đích của việc phát biểu tư tưởng trong một hoàn cảnh cụ thể. Nêu lên tín niệm của các trang nam tử muôn đời, thực chất Phan Bội Châu đang muốn nhắc nhở, cật vấn chính bản thân : lẽ nào để trời đất tự xoay vần tới đâu thì tới, còn mình là kẻ đứng ngoài, vô can ? Là câu hỏi nhưng cũng là một lời đáp. Tính hai mặt này của lời thơ đã ngay từ đầu tạo được cho thi phẩm một không khí dồn nén và thúc giục rất rõ rệt. Từng chữ, từng lời cứ bện chặt lấy tâm trí người đọc, khiến họ không thể lảng tránh vấn đề đã được nhà thơ đặt ra một cách tâm huyết.

Hai câu tiếp theo của bài thơ vẫn đi theo mạch đó :

Ư bách niên trung tu hữu ngã,

Khởi thiên tải hậu cánh vô thuỳ.

(Trong khoang trăm năm cần có tớ,

Sau này muôn thuở, há không ai ?)

Câu trước không chỉ đơn giản xác nhận sự có mặt của nhân vật trữ tình giữa thế gian mà còn hàm chứa một tâm niệm : ta hiện diện không phải như một sự kiện ngẫu nhiên, vô ích, và vì vậy, ta phải làm được một điều gì đó có ý nghĩa cho đời. Câu sau có thể diễn ý : Ngàn năm sau lẽ nào chẳng có kẻ nối tiếp công việc của người trước ? Như vậy, hai câu 3 – 4 đã thể hiện thật đậm nét cái tôi đầy trách nhiệm của nhà thơ : thấy việc không thể không làm, không ỷ lại cho ai. Hơn thế, cái tôi ấy thấy rõ lịch sử là một dòng chảy liên tục, có sự góp mặt, sự tham gia gánh vác bổn phận của nhiều thế hệ. Đây có thể xem là một nét mới trong tư tưởng của Phan Bội Châu so với không ít bậc tiền bối vốn nhìn lịch sử như một vòng chu chuyên khép kín, khi đại nghiệp không thành dễ rơi vào tình trạng thở than tuyệt vọng. Tác giả hoàn toàn dự cảm được tính chất khó khăn của sự nghiệp cứu nước mà mình đứng ra đảm trách, nhưng dự cảm đó không làm ông nao núng. Ông có sẵn lòng tin không chỉ vào mình mà còn vào bao kẻ sau mình. Tư tưởng của ông và tính cách của ông là vậy. Ta hiểu vì sao sau này, lúc kiểm điểm cuộc đời, dù cay đắng cho bản thân, Phan Bội Châu vẫn có được lời nói hết sức vô tư, hồn hậu : "Chúc phường hậu tử tiến mau !" (Từ giã bạn bè lần cuối cùng – 1940). Cảm nhận ý nghĩa các câu thơ theo hướng đó, ta dễ nhận ra cái "non” của từ tớ trong ban dịch (nguyên tác là ngã). Phan Bội Châu không phải là kẻ tự thị. Ông phát ngôn nhân danh những kẻ làm trai, những người yêu nước nói chung trong cuộc đời !

Bốn câu đầu bài thơ nghiêng về nói tới cái lẽ thường của đấng nam nhi, dù đọc chúng, người đọc vẫn nhận ra nỗi bức xúc trong tâm trạng tác giả. Sang hai câu 5-6, nỗi bức xúc ấy được biểu hiện trực tiếp hơn, qua việc nhà thơ nêu lên hiện trạng thê thảm của đời sống lúc bấy giờ :

Giang sơn tử hĩ sinh đồ nhuế,

Hiền thánh liêu nhiên tụng diệc si !

(Non sông đã chết, sống thêm nhục,

Hiền thánh còn đâu, học cũng hoài !)

Đúng là những câu thơ đau đớn. Đau đớn cho việc mất nước. Đau đớn cho sự tồn tại trơ trơ nhục nhã của mình khi cơ đồ của dân tộc đã bị đắm chìm. Đau đớn cho cái học, kiểu học mà bản thân từng một thời theo đuổi, giờ đã thành vô ích, vô vị…

Là người chịu ảnh hưởng của Tân thư (tức sách báo tuyên truyền cho tư tưởng dân chủ tư sản phương Tây, tư tưởng cải cách xã hội theo mô hình Âu-Mỹ,… được dịch qua hoặc được viết bằng Hán văn, đưa tới từ Trung Quốc), Phan Bội Châu tuy không phủ nhận hoàn toàn Nho giáo nhưng không còn giữ thái độ sùng kính đối với nó. Cái gì tỏ ra không còn có ích cho sự nghiệp cứu nguy giống nòi thì ông dứt khoát giã từ. Có thể xem đây là hệ quy chiếu mà ông đã dùng để nhìn nhận, đánh giá mọi vấn đề của đời sống xã hội và mọi ứng xử của kẻ sĩ lúc ấy.

Trước đây, Nguyễn Khuyến từng than : "Sách vở ích gì cho buổi ấy – Áo xiêm nghĩ lại thẹn thân già" (Ngày xuân dặn các con). Câu thơ đầy chiêm nghiệm, có niềm tủi thẹn và thoáng nghi ngờ về tính hữu dụng của cái học từ chương "nhai văn nhá chữ" trong bối cảnh đất nước đã lọt vào tay giặc (mà nhà thơ gọi bóng gió là ngày loạn). Với Phan Bội Châu, thái độ không dừng ở mức nghi ngờ. Tình thế đất nước vào buổi ông lên đường đã khác nhiều, hơn nữa, với cá tính mạnh mẽ của một con người ưa hành động, tràn đầy nhiệt huyết, ông đã đưa vào bài thơ của mình những từ, cụm từ đầy cảm hứng phủ định, rất gây ấn tượng : tử hĩ (chết rồi), nhuế (thừa), si (ngu). Phải nói rằng với cách dùng từ ngữ mạnh bạo như thế, thơ ông có khả năng táađộng tới độc giả rất sâu sắc. Đằng sau sự hấp dẫn của cách nói là sự hấp dẫn của cốt cách một con người ! Các từ nhục, hoài trong bản dịch thơ sự thực chưa truyền lại đầy đủ khí lực dồi dào của các từ nhuế, si trong nguyên tác.

Phải hành động, phải hành động – tự mạch thơ toát lên lời giục giã. Hai câu cuối đến như một cơn gió mạnh, bốc nhà thơ thoát khỏi những tủi thẹn, day dứt, đau buồn. Việc lạ (kì) mà nhân vật trữ tình nung nấu thực hiên được khởi đầu từ điểm này chăng :

Nguyện trục trường phong Đông hải khứ,

Thiên trùng bạch lãng nhất tề phi.

(Muốn vượt bể Đông theo cánh gió,

Muôn trùng sóng bạc tiễn ra khơi)

Người có hiểu biết về phong trào Đông du hẳn sẽ nhận ra tính tự nhiên, hợp lô gích của việc nhà thơ liên tưởng tới Đông hải cùng hình ảnh thiên trùng hạch lãng. Nhật Bản – niềm hi vọng mới của các sĩ phu yêu nước như Phan Bội Châu – ở phía đông, giữa biển khơi, cách nước ta muôn dặm hải trình. Chính vì vậy, sang Nhật cũng đồng nghĩa với chuyện vượt bể. Tuy nhiên, trong hai câu thơ, các hình ảnh chủ yếu mang ý nghĩa biểu tượng. Câu thơ dịch không hoàn toàn bám sát ý nguyên tác, đã chuyển một khát vọng, một dự cảm, một liên tưởng bất chợt thành sự tường thuật – miêu tả thực tế, do vậy, chưa truyền đạt được phong độ hào hùng, niềm hăm hở dấn thân cùng trí tưởng tượng bay bổng của nhà thơ. Tâm thế cùng tư thế của nhân vật trữ tình lúc này là muốn lao ngay vào một trường hoạt động mới mẻ, sôi động ; bay lên làm quẫy sóng đại dương hay bay lên cùng những đợt sóng trào sôi vừa thoáng hiện trong tâm tưởng.

Trong bài thơ, có rất nhiều từ, cụm từ chỉ các đại lượng không gian, thời gian lớn cùng một số hình ảnh kì vĩ thể hiện bối cảnh mang tính chất vũ trụ đã được sử dụng : càn khôn, giang sơn, hách niên trung, thiên tải hậu, Đông hải, trường phong, thiên trùng hạch lãng,… Nhớ lại các bài như Tỏ lòng của Phạm Ngũ Lão, Nổi lòng của Đặng Dung, Chim trong lồng của Nguyễn Hữu Cầu,… ta thấy đây là bối cảnh khá đặc trưng của thơ tỏ chí thời trung đại. Như vậy, bối cảnh vũ trụ hoàn toàn không phải là hiện tượng cá biệt ở một vài bài thơ nào đó, bởi con người trong thơ xưa về cơ bản chưa phải là con người cá nhân cá thể mà là con người vũ trụ. Tuy nhiên, với trường hợp bài Lưu biệt khi xuất dương, vẫn có thể nói rằng bối cảnh ấy có tác dụng tô đậm các phẩm chất rất riêng và nổi bật của nhân vật trữ tình : tự tin, dám đối thoại cùng trời đất, lịch sử ; ý thức rõ về cái vinh, cái nhục ở đời ; có khát vọng khẳng định cái tôi trong hành động dấn thân vì đất nước, dân tộc,… Nói tóm lại, phải có bối cảnh ấy thì chí "vá trời lấp biển" của nhà thơ mới được khắc tạc ấn tượng đến như thế.

Lưu biệt khi xuất dương là bài thơ từ biệt mà cũng là bài thơ mời gọi lên đường. Nó hoàn toàn tương xứng với tầm vóc của một con người được cả dân tộc ngưỡng vọng và tin tưởng vào thời điểm lịch sử khi đó.

Phân tích bài Xuất dương lưu biệt của Phan Bội Châu – Bài làm 5

Phan Bội Châu (1867-1940) là một nhà yêu nước và cách mạng lớn của dân tộc ,trong ông luôn sục sôi ý chí tìm ra con đường cứu nước mới cho dân tộc.

Tuy văn tài lỗi lạc nhưng ông không xem văn chương là con đường sự nghiệp của mình, ông chỉ muốn dùng nó để lên tiếng cho cách mạng, cho dân tộc đang sống trong đói khổ lầm than, để những người thanh niên yêu nước đứng dậy làm cách mạng cứu nước, cứu dân. Tinh thần yêu nước ấy được thể hiện rõ trong tác phẩm “Lưu biệt khi xuất dương” (1905)được ông sáng tác trước lúc lên đường sang Nhật . Tác phẩm được viết bằng chữ Hán, theo thể thất ngôn bát cú Đường luật. Mang hình thức cổ điển, khí thơ và cảm hứng lại rất hiện đại, đó là sản phẩm tinh thần của một nhà nho tiến bộ. Bài thơ thể hiện một lí tưởng sống cao đẹp, đồng thời là một bài học về đạo làm người ,một bài ca hùng tráng về chí nam nhi của nhân vật trữ tình mang vẻ đẹp lãng mạn và hào hùng .

Thật xứng đáng với vẻ đẹp ấy ,Phan Bội Châu mở đầu bài thơ không phải là những lời chia tay ,nhớ thương bịn rịn của người đi kẻ ở lại ,mà đó là những câu thơ mang lí tưởng hoài bão của con người đang sục sôi ý chí muốn làm chủ vũ trụ ,muốn xoay chuyển càn khôn đất trời :

 “Làm trai phải lạ ở trên đời 

Há để càn khôn tự chuyển dời”

(Sinh vi Nam tử yếu hi kì 

Khẳng hứa càn khôn tự chuyển đi )

Hai câu thơ là một lí tưởng đẹp của con người. Con người phải làm chủ bước đi của lịch sử, phải chủ động trước hoàn cảnh. "Làm trai" là khẳng định chí khí của thanh niên ,sống là phải “lạ” ,làm nên sự nghiệp lớn để lại tiếng thơm muôn đời ,đem lại cho đất nước cuộc sống ấm no ,không thể sống tầm thường ích kỉ ,chỉ cảm thụ cuộc sống riêng mình.trước Phan Bội Châu đã có bao nhiêu con người ưu tú nói về chí làm trai với lòng nhiệt thành cháy bỏng – “Nam nhi vị liễu công danh trái / Tu thỉnh nhân gian thuyết Vũ hầu”(Phạm ngũ lão ) .Song,hai câu thơ của cụ Phan vừa như một câu hỏi tu từ khẳng định chí làm trai giữa trời đất vừa là lời đối thoại rằng không lẽ đấng nam nhi lại để mạc cho trời đất tự chuyển dời ,tới đâu thì tới ,còn “chúng ta” là kẻ đứng ngoài không phận sự hay sao ? Chỉ hai câu đề ta cũng thấy được một lối sống cao đẹp tiến bộ đầy bãn lĩnh ,sẵn sàng thách thức càn khôn vũ trụ mang vẻ đẹp của khí phách hào hùng người chí sĩ Phan Bội Châu . Khí phách ấy lại vang lên mạnh mẽ hơn trong hai câu thơ tiếp theo :

“Trong khoảng trăm năm cần có tớ 

Sau này muôn thuở há không ai ?”

Nhân vật trữ tình ý thức dược trách nhiệm của mình trước đồng loại,trước đất trời bao la . “Trong khoảng trăm năm” này cần có một người sẵn lòng phục vụ cách mạng ,phục vụ những lí tưởng cao đẹp mang lại yên bình cho đồng loại . “Trăm năm” ẩn dụ cho một đời người ,một cuộc sống mà “tớ” có trách nhiệm gánh vác .Cái tôi của tác giả mang đầy trách nhiệm ,”tớ” đang hiện diện hôm nay phải làm được một điều j đó có ý nghĩa cho đời , “tớ” thấy việc không thể không làm ,không thể ỷ lại cho ai .Cái tôi về trách nhiệm ấy lại cho ta thấy được lịch sử là một dòng chảy liên tục ,có sự chung tay góp sức của nhiều thế hệ .”Sau này muôn thuở há không ai?” -câu thơ vừa đặt ra cho ông cũng như cho những người thanh niên yêu nước của dân tộc trước cảnh nước nhà .Song ,ông cũng đặt một niềm tin về thế hệ mai sau của dân tộc sẽ làm nên chuyện lạ ,sẽ làm nên non sông này ngàn đời tươi đẹp .Giọng thơ đĩnh đạc hào hùng mang niềm tin của nhân vật trữ tình ,đồng thời khẳng địnhvai trò của cá nhân ông ,thúc giục những chí sĩ yêu nước lên đường .

Cái chết vinh quang hay cuộc sống tủi nhục lại được nhân vật trữ tình thể hiện trong hai câu tiếp theo :

Non sông đã chết sống thêm nhục,

Hiền thánh còn đâu học cũng hoài.

Câu thơ mang nỗi đau đớn ,xót xa của tác giả . Lúc này, khi dân tộc đã mất tự do, chủ quyền đất nước bị xâm hại, thì việc đầu tiên, cần thiết nhất không phải học văn chương cử tử nữa. Câu thơ không có ý chê bai hay bài xích chuyện học đạo thánh hiền mà chỉ có ý khuyên con người ta phải sống với thời cuộc. Nước mất thì nhà tan, dân chúng lầm than, đói khổ, đạo đức xã hội suy đồi khiến những con người có trách nhiệm với dân tộc phải suy nghĩ mà đau lòng .Với nghệ thuật đối lập được ông sử dụng một cách tài tình -gắn sự sống chết công danh của bản thân với sự mất còn vinh nhục của đất nước .Hình ảnh này vừa mang vẻ đẹp lãng mạn – sự nhận thức sâu sắc về thời cuộc -lại mang khí phách hào hùng của đấng nam nhi khi lòng nhiệt huyết đưa dân tộc ra khổi kiếp sống lầm than đang len lỏi khắp da thịt ông .

“Muốn vượt bể Đông theo cánh gió,

Muôn trùng sóng bạc tiễn ra khơi.”

Việc “lạ” của nhân vật trữ tình đang nung nấu sắp khởi hành .Tư thế hăm hở ,mang long quyết tâm về cuộc xuất dương cứu nước ,nhà thơ thoát ra khỏi tủi thẹn ,day dứt của hai câu thơ trước để sang hai câu thở cuối ,rồi lên chiếc thuyền sắp ra khơi .Những “cánh gió” “sóng bạc”mang vẻ đẹp lãng mạn về những sóng gió ,thăng trâm phía trước .Nhưng những hình ảnh này lại được ông khắc họa bằng giọng thơ hào hùng ,bay bỗng .Tâm thế của nhân vật trữ tình lúc này là muốn lao ngay vào một con đường hoạt động mới ,;bay lên quẫy sóng đại dương ,bay lên cùng những đợt sóng trào sôi thoáng hiện trong tâm trí ông .ông không xem đó là những cách trở ,những vật cản trên con đường sự nghiệp cách mạng của mình ,mà trái lại ông xem chúng như bạn đường ,là đối tượng để mình đua sức đua tài .Nhiệt huyết cứu nước cứu đồng loại đã lấn át nỗi lo âu trong ông .Khí thế ra đi thật hùng dũng và đầy quyết tâm, tràn trề sức mạnh.Hình ảnh kết thúc bài thơ hào hùng, lãng mạn, thể hiện được tư thế ra đi đầy khí phách của con người trong thời đại mới. Người ra đi đã gửi gắm bao nhiêu hi vọng vào con đường mình đã chọn.Bài thơ là cuộc chia tay từ biệt nhưng cũng là tiếng hô gọi ,là bàn tay vẫy gọi những lý tưởng cách mạng mới những con người yêu nước của thế hệ thanh niên tràn đây nhựa sống và phía xa xa kia là cánh cửa cuộc sống ấm no hạnh phúc của muôn dân.

Nhân vật trữ tình trong bài thơ là hình tượng đẹp về một nhà nho tiến bộ đầu thế kỉ XX với lí tưởng cứu nước, khát vọng sống, chiến đấu vì dân tộc, lòng tin và ước mơ về một tương lai tươi sáng.Những hình ảnh kì vĩ về vũ trụ bao la càng làm rõ vẻ đẹp lãng mạn hào hùng của người lên đường – chí sĩ yêu nước Phan Bội Châu.

Từ khóa tìm kiếm

  • non sông đã chết sống thêm nhục Hiền thánh còn đâu học cũng hoài gợi cho bạn câu tục ngữ nào
  • Phân tích lưu biêt xuât duơg phan bôi châu trinh quynh

Bài viết liên quan

0