18/06/2018, 15:48

Nước Mỹ thời lập quốc

xây dựng pháo đài đầu tiên tại Jamestown 1607 vietnam.usembassy.gov “Trời và đất chưa bao giờ hoà hợp với nhau tốt hơn để tạo nên một nơi như thế cho sự cư trú của con người” John Smith 1607 I/ Bản đồ: Ghi chú ...

xây dựng pháo đài đầu tiên tại Jamestown 1607

vietnam.usembassy.gov

“Trời và đất chưa bao giờ hoà hợp với nhau tốt hơn để tạo nên một nơi như thế cho sự cư trú của con người”

John Smith 1607 

I/ Bản đồ:

hoaky-bando

Ghi chú                                                              
            

AL – Alabama   AK – Alaska AZ – Arizona  AR – Arkansas
CA – California CO – Colorado CT – Connecticut DE – Delaware
FL – Florida GA – Georgia HI – Hawaï  ID – Idaho
IL – Illinois IN – Indiana IA – Iowa KS – Kansas
KY – Kentucky LA – Louisiana ME – Maine MD – Maryland
MA – Massachusetts MI – Michigan MN – Minnesota MS – Mississippi
MO – Missouri MT – Montana NE – Nebraska NV – Nevada   
NH – New Hampshire NJ – New Jersey NM – New Mxico NY – New York
NC – North Carolina ND – North Dakota OH – Ohio OK – Oklahoma
OR – Oregon PA – Pennsylvania RI – Rhode Island SC – South Carolina
SD – South Dakota TN – Tennessee TX – Texas UT – Utah 
VT – Vermont VA – Virginie WA – Washington WV – West  Virginia
WI – Wisconsin WY – Wyoming    

DC – District of Colombia

II/ Những người Mỹ đầu tiên

Lúc đỉnh cao của thời kỳ băng hà vào khoảng giữa năm 34.000 và năm 30.000 trước công nguyên, thì phần lớn lượng nước trên thế giới đều được ẩn chứa trong những lớp băng lục địa bao la. Vì vậy, biển Bering nông hơn cả mực nước biển ngày nay hàng trăm mét, và khi đó có một vùng đất nối mang tên Beringia xuất hiện giữa châu á và Bắc Mỹ. Người ta cho rằng, tại đỉnh của nó, Beringia rộng tới 1.500 km. Vùng đài nguyên ẩm ướt và không cây cối được bao phủ bởi thảm cỏ và các loài thực vật đã hấp dẫn các loài thú lớn, mà theo đó con người thời tiền sử săn bắt cho sự sinh tồn của mình.

Những con người đầu tiên đến Bắc Mỹ chắc chắn đã làm như vậy mà không biết rằng họ đã băng qua biển cả để tới một lục địa mới. Chắc chắn họ đã săn đuổi các loài thú như tổ tiên họ đã làm suốt hàng nghìn năm dọc bờ biển Siberia và sau đó vượt ngang vùng đất nối ấy.

Thời đó, ở Alaska, những người Bắc Mỹ đầu tiên đó đã mất hàng nghìn năm để mở đường xuyên qua những tảng băng hà khổng lồ đi về phía nam, tới nơi mà ngày nay là nước Hoa Kỳ. Người ta vẫn tiếp tục tìm thấy những bằng chứng về cuộc sống thời tiền sử ở Bắc Mỹ. Tuy nhiên, có ít sự kiện được ghi nhận đáng tin cậy trước năm 12.000 trước công nguyên; chẳng hạn, việc phát hiện gần đây một chòi canh săn bắn ở miền Bắc Alaska có thể có niên đại chừng thời gian đó. Những mũi lao được gia công rất khéo cùng những hiện vật khác tìm thấy ở gần Clovis, bang New Mexico cũng được xác định niên đại như vậy.

Các chế phẩm nhân tạo tương tự được tìm thấy tại nhiều nơi ngang dọc Bắc Mỹ và Nam Mỹ chứng minh rằng, sự sống đã có thể được xác lập khá ổn định và tốt đẹp ở nhiều nơi thuộc bán cầu Tây vào thời gian trước năm 10.000 trước công nguyên.

Khoảng chừng thời gian đó, voi mamút đã bắt đầu bị tuyệt diệt và bò rừng đã thay thế voi mamút làm nguồn cung cấp chính đồ ăn và da sống cho những người Bắc Mỹ thời xa xưa ấy. Theo thời gian, vì ngày càng nhiều hơn những loài thú săn lớn bị diệt vong do bị săn bắn quá độ hay vì những nguyên nhân tự nhiên nên các loài cây, quả mọng và các loại hạt ngày càng đóng vai trò quan trọng hơn trong bữa ăn của người Mỹ thời tiền sử. Dần dần, với việc tìm kiếm thức ăn, những nỗ lực đầu tiên cho việc canh tác nông nghiệp nguyên thủy đã xuất hiện. Những người da đỏ ở khu vực mà ngày nay là miền trung tâm nước Mexico đã đi trước trong việc này khi họ trồng ngô, bí và đậu, có lẽ vào thời gian khoảng năm 8.000 trước công nguyên. Dần dần, kiến thức này được truyền lên phía Bắc.

Cho đến năm 3.000 trước công nguyên, loại ngô nguyên thuỷ đã được trồng ở các vùng lưu vực sông ở khu vực bang New Mexico và Arizona. Sau đó, những hình thức đầu tiên của công tác thủy lợi đã xuất hiện, và cho tới năm 300 trước công nguyên, đã hình thành những hình thức của quần cư làng đầu tiên.

Tới những thế kỷ đầu sau công nguyên, người Hohokum sống ở các khu vực quần cư gần những vùng ngày nay là Phoenix, Arizona, tại đây họ đã xây dựng những ngôi nhà hình cầu và những cái gò hình kim tự tháp gợi nhớ tới những công trình được phát hiện ở Mexico, cũng như một hệ thống kênh và thủy lợi nữa. 

III/ Những người xây dựng đồi gò và những làng Pueblos

Nhóm người da đỏ đầu tiên đã xây dựng những khu đồi gò ở khu vực ngày nay là Hoa Kỳ, các đồi gò này thường được gọi là Adenans. Họ bắt đầu xây cất những khu nghĩa địa và các công sự bố phòng vào khoảng năm 600 truớc công nguyên. Một số gò đồi còn lại từ giai đoạn đó có hình những con chim hay những con rắn lớn, có lẽ chúng được dùng cho những mục đích tôn giáo mà ngày nay người ta vẫn chưa hiểu biết trọn vẹn.

Người Adenans xuất hiện để rồi bị thu hút và bị thay thế bởi những nhóm người khác nhau mang cái tên chung là người Hopewellian. Một trong những trung tâm quan trọng nhất của nền văn hoá của họ được tìm thấy ở miền nam Ohio, nơi những dấu tích của vài ngàn ngọn đồi gò như thế vẫn còn sót lại. Người ta tin rằng người Hopewellian là những doanh nhân rất tài khéo, họ đã sử dụng và trao đổi các công cụ và nguyên liệu ở suốt một khu vực rộng lớn hàng trăm cây số.

Cho đến khoảng năm 500 sau công nguyên, người Hopewellian cũng rời bỏ đi nhường vị trí cho một nhóm đông đảo các bộ lạc mang tên người Mississippi hoặc văn hoá Gò Ðền. Thành phố Cahokia ở phía đông thành phố St.Louis, bang Missouri được coi là đã có số dân chừng 2 vạn người vào thời kỳ thịnh đạt nhất ở đầu thế kỷ XII. Tại trung tâm thành phố có một gò đất lớn, phẳng ở trên đỉnh, cao 30 mét và đáy rộng 37 hécta. Có tới 80 cái gò đồi khác được tìm thấy ở xung quanh.

Những đô thị như Cahokia sống phụ thuộc vào việc kết hợp săn bắt, cướp phá, buôn bán và làm nông nghiệp để có đồ ăn thức uống và các đồ dùng khác. Do chịu ảnh hưởng của những xã hội thịnh vượng phát triển xuống miền nam, các đô thị này phát triển thành những xã hội có tôn ti, thứ bậc phức tạp, có chiếm hữu nô lệ và thực hành sự hiến tế bằng con người.

ở vùng mà hiện nay là miền tây nam Hoa Kỳ, người Anasazi, tổ tiên của người da đỏ Hopi, đã bắt đầu xây dựng những khu làng bằng đá và gạch không nung vào khoảng năm 900. Những cấu trúc giống như khu chung cư độc nhất vô nhị đáng kinh ngạc này thường được xây dọc theo các bờ mặt của vách đá; nổi tiếng nhất là “lâu đài vách đá” ở Mesa Verde, Colorado, có hơn 200 phòng. Một nơi khác là phế tích làng Bonito dọc sông Chaco ở bang New Mexico đã từng bao gồm hơn 800 phòng.

Có lẽ những người giàu nhất trong số những người da đỏ châu Mỹ thời kỳ tiền Columbus đã sống ở miền tây bắc ven Thái Bình Dương, nơi có sự phong phú tự nhiên của cá và nguyên liệu sống đã làm cho các nguồn cung cấp thực phẩm rất dồi dào và các làng tồn tại lâu dài có thể có ngay từ năm 1.000 trước công nguyên. Sự xa hoa của các cuộc tụ họp “phát tán của cải” tiếp tục là một tiêu chuẩn đánh giá sự phung phí quá độ và lễ hội có lẽ không gì so sánh nổi trong lịch sử nước Mỹ thời kỳ lập quốc. 

IV/ Những nền văn minh Mỹ bản địa

ở mức nào đó thì nước Mỹ khi chào đón những người châu Âu đầu tiên hoàn toàn không phải là một chốn hoang vắng. Ngày nay người ta cho rằng khi đó đã có những người sống ở bán cầu Tây như ở Tây Âu: khoảng 40 triệu người.

Những con số ước tính về số người Mỹ bản địa sống tại mảnh đất ngày nay là Hoa Kỳ vào giai đoạn thực dân hoá dữ dội của người châu Âu dao động từ 2 tới 18 triệu, phần lớn các nhà sử học chọn con số thấp hơn. Một điều chắc chắn là cái hậu quả tàn khốc của bệnh tật mà người châu Âu mang tới cho cư dân bản xứ ngay từ buổi đầu tiếp xúc. Ðặc biệt, bệnh đậu mùa đã triệt hạ toàn bộ nhiều cộng đồng và nó được nhìn nhận là nguyên nhân trực tiếp hơn cả trong sự suy giảm ghê gớm trong dân số người da đỏ vào những năm 1.600 so với vô số các cuộc chiến tranh và đụng độ với dân định cư châu Âu.

Các tập tục và văn hoá của người da đỏ thời gian đó đa dạng một cách lạ thường, như người ta đã tìm hiểu thì người da đỏ có được vùng lãnh thổ rộng lớn và nhiều môi trường khác nhau mà mọi tập tục và văn hoá ấy đã được thay đổi để thích ứng. Tuy có sự đa dạng ấy, song cũng có thể có một số khái quát về chúng.

Phần đông các bộ lạc, đặc biệt ở vùng miền Ðông có rừng rú và miền Trung Tây, đã kết hợp những cách kiếm sống như săn bắt, hái lượm, trồng ngô và những sản phẩm khác để có đủ thức ăn. Nhiều khi phụ nữ lại đảm nhiệm việc trồng trọt và phân phối thức ăn, trong khi đó đàn ông đi săn bắn và tham gia chiến đấu.

Theo sự đánh giá chung thì xã hội người da đỏ ở miền Nam Mỹ gắn bó chặt chẽ với đất đai. Việc hợp sức với thiên nhiên và môi trường đã được đồng nhất hoá thành những tín ngưỡng tôn giáo. Ðời sống người da đỏ được định hướng căn bản theo thị tộc và cộng đồng, trẻ em được trao quyền tự do và sự khoan dung nhiều hơn phong tục châu Âu khi đó.

Tuy một số bộ lạc Bắc Mỹ có phát minh ra một kiểu chữ tượng hình để lưu giữ những văn bản nhất định, nhưng nền văn hóa của người da đỏ chủ yếu vẫn là truyền khẩu với việc đánh giá cao cách thuật lại những câu chuyện cổ và các giấc mơ. Rõ ràng là có nhiều mối quan hệ buôn bán giữa các nhóm khác nhau và có những bằng cớ xác đáng tồn tại cho thấy các bộ lạc kế cận nhau đã duy trì những mối bang giao sâu nặng và hình thức nữa, bao gồm cả tính chất hữu hảo và thù địch. 

V/ Những người châu Âu đầu tiên

Những người châu Âu đầu tiên đến Bắc Mỹ – là đầu tiên chí ít cũng theo bằng chứng đáng tin cậy – là người Nauy vốn đi về phía Tây xuất phát từ Greenland, tại nơi mà Erik Ðỏ đã lập ra một khu định cư vào khoảng năm 985. Người con trai của ông là Leif được cho là đã thám hiểm miền bờ biển Ðông Bắc khu vực bây giờ là nước Canada vào năm 1001 và ít nhất đã sống ở đó một mùa đông.

Trong khi các khúc ca dân gian Bắc Âu (saga) kể rằng các thuỷ thủ người Viking đã phiêu lưu thám hiểm miền bờ biển Ðại Tây Dương của Bắc Mỹ xuôi tới tận vùng Bahamas, thì những lời ca ngợi ấy vẫn chưa hề được chứng minh. Tuy nhiên, vào năm 1963, những phế tích của một số ngôi nhà của người Nauy có niên đại từ thời đồ đá được phát hiện ở L’Anse – aux – Meadows tại miền bắc Newfoundland, đã củng cố cho một số khẳng định mà khúc ca dân gian của người Nauy đã đưa ra.

Năm 1497, đúng 5 năm sau khi Christopher Columbus đổ bộ lên quần đảo Caribbean để đi tìm lộ trình phía Tây tới châu á, một thuỷ thủ người Venetia tên là John Cabot đã tới Newfoundland theo sứ mệnh của vua Anh. Tuy bị quên lãng rất nhanh nhưng chuyến hành trình của Cabot về sau này đã được dùng để cung cấp cơ sở cho các yêu sách của Anh quốc về phía Bắc Mỹ. Ðiều đó cũng mở đường tới những khu vực đánh cá sản lượng cao ở ngoài khơi khu vực George’s Banks mà các ngư dân châu Âu, đặc biệt là ngư dân Bồ Ðào Nha, chẳng bao lâu sau đã tới đó thường xuyên.

Tất nhiên Columbus chưa bao giờ nhìn thấy đất liền nước Mỹ, nhưng những cuộc thăm dò, thám hiểm đầu tiên nước Mỹ đã được mở đầu từ những khu vực đất đai do người Tây Ban Nha sở hữu mà chính ông là người đã trợ giúp xác lập. Cuộc thám hiểm đầu tiên trong số đó được tiến hành năm 1513 khi một nhóm các nhà khảo sát dưới sự chỉ huy của Juan Ponce de Leon đổ bộ tại bờ biển Florida gần thành phố St.Augustine ngày nay.

Cùng với công cuộc chinh phục nước Mexico vào năm 1522, người Tây Ban Nha đã củng cố vị trí vững chắc của mình ở Tây bán cầu. Những phát hiện tiếp theo đã bổ sung thêm cho tri thức của người châu Âu về miền đất mà bây giờ được gọi là nước Mỹ (America) theo tên của nhà hàng hải người Italia là ông Amerigo Vespucci, người đã viết một bài tường thuật nổi tiếng về các cuộc hành trình của mình tới “Tân Thế giới”. Cho tới năm 1529, những tấm bản đồ đáng tin cậy của vùng bờ biển Ðại Tây Dương từ Labrador đến Tierra del Fuego đã được vẽ, tuy nhiên người ta đã phải mất hơn một thế kỷ nữa trước khi niềm hy vọng phát hiện ra “Tuyến đường biển Tây Bắc” tới châu á mới hoàn toàn bị gác bỏ.

Trong số những cuộc thám hiểm đầu tiên quan trọng nhất của người Tây Ban Nha có cuộc thám sát của Hernando De Doto, một nhà cựu chinh phục từng tháp tùng Francisco Pizzaro trong cuộc chinh phục Peru. Rời Havana năm 1539, đoàn thám hiểm của De Soto cập bờ ở Florida và vượt qua miền đông nam nước Mỹ tới tận vùng sông Mississippi để tìm kho báu.

Một người Tây Ban Nha khác, ông Francisco Coronado, đã xuất phát từ Mexico năm 1540 để đi tìm kiếm bảy đô thị huyền thoại của xứ Cibola. Những lộ trình của Coronado đã đưa ông tới vùng Grand Canyon và Kansas, nhưng ông đã thất bại trong việc tìm ra vàng hay kho báu mà người của ông đã ra sức tìm kiếm.

Tuy nhiên, đoàn thám hiểm của Coronado đã để lại cho cư dân vùng mà họ đã đi qua một món quà phi thường cho dù là không chủ ý: có rất nhiều ngựa do đoàn thám hiểm của ông thả ra đã làm biến đổi cuộc sống ở vùng Ðại Ðồng Bằng (The Great Plains) này. Chỉ trong vòng vài thế hệ, những người da đỏ ở vùng đồng bằng đã trở thành các bậc thầy của nghệ thuật cưỡi ngựa, nhờ đó họ mở rộng đáng kể tầm và phạm vi các hoạt động của mình.

Trong khi người Tây Ban Nha đẩy mạnh hoạt động lên từ miền nam thì phần phía bắc của nước Mỹ ngày nay chậm chạp được khám phá thông qua các cuộc hành trình của các nhà thám hiểm như Giovanni da Verrazano. Vốn là một người Italia quê ở Florenzia đi biển thuê cho người Pháp, Verrazano đã đổ bộ ở Nam Carolina năm 1524, sau đó ông dong buồm tiến lên miền Bắc dọc theo bờ Ðại Tây Dương, vượt qua vùng mà ngày nay là hải cảng New York.

Mười năm sau, một người Pháp tên là Jacques Cartier đã lên đường ra khơi với niềm hy vọng – giống như những người châu Âu khác trước ông – tìm ra con đường biển tới châu Âu. Các cuộc thám hiểm của Cartier dọc sông St. Lawrence đã đặt cơ sở cho những yêu sách của nước Pháp đối với Bắc Mỹ, những yêu sách này còn kéo dài tới tận năm 1763.

Tiếp theo sự sụp đổ của thuộc địa Quebec đầu tiên của họ vào những năm 1540, những người theo giáo phái Huguenot1 Pháp đã cố gắng định cư ở vùng bờ biển phía bắc Florida hai thập niên sau đó. Do đánh giá, nhìn nhận người Pháp như một mối đe doạ cho con đường giao thông của mình dọc hải lưu Gulf Stream, nên người Tây Ban Nha đã phá tan khu kiều dân này năm 1565. Thật trớ trêu và mỉa mai là thủ lĩnh của lực lượng quân đội Tây Ban Nha, ông Pedro Menendez, chẳng mấy lâu sau đã thiết lập một đô thị cách đó không xa là thành phố St.Augustine. Ðây là khu vực định cư thường xuyên và lâu dài đầu tiên của người châu Âu ở vùng đất mà ngày nay là nước Mỹ.

Số của cải khổng lồ đổ về Tây Ban Nha từ các thuộc địa ở Mexico, quần đảo Caribbean và Peru, đã kích thích mối quan tâm lớn lao ở nhiều cường quốc châu Âu khác. Theo dòng thời gian, những quốc gia ven biển có nền hàng hải mới nổi lên như Anh bắt đầu quan tâm đến Tân Thế giới. Nước Anh được lôi kéo vào đó một phần bởi những cuộc đột kích thành công do Francis Drake chỉ huy vào các tàu chở châu báu của Tây Ban Nha.

Năm 1578, ông Humphrey Gibert, tác giả luận thuyết về việc tìm kiếm con đường Tây Bắc, đã nhận được giấy phép độc quyền lập thuộc địa cho “những miền đất ngoại đạo và dã man” ở Tân Thế giới của các nước châu Âu khác vẫn chưa yêu sách tới từ tay Nữ hoàng Elizabeth. Sẽ phải mất năm năm trước khi mọi nỗ lực của ông có thể được bắt đầu. Khi ông bị mất tích trên biển cả, người em trai cùng cha khác mẹ của ông Walter Raleigh đảm nhiệm tiếp tục sứ mạng.

Năm 1585, Raleigh thiết lập khu kiều dân Anh đầu tiên ở Bắc Mỹ trên đảo Roanoke ngoài khơi bờ biển Bắc Carolina. Sau đó khu này bị bỏ và nỗ lực thứ hai được tiến hành hai năm sau đó cũng bị thất bại. Lại phải mất 20 năm truớc khi người Anh cố gắng lần nữa. Lần này tại Jamestown vào năm 1607, khu định cư thành công và Bắc Mỹ bước vào một kỷ nguyên mới. 

VI/ Những thuộc địa đầu tiên

Những năm đầu thế kỷ XVII đã chứng kiến sự mở đầu cơn sóng nhập cư khổng lồ từ châu Âu sang Bắc Mỹ. Kéo dài suốt hơn ba thế kỷ, dòng nhập cư này từ sự nhỏ giọt chừng vài trăm người Anh đến lập nghiệp tại thuộc địa đến cơn lũ hàng triệu người mới tới. Bị thúc ép, bị bắt buộc bởi nhiều động cơ, lý do mạnh mẽ và khác nhau, họ tới Tân Thế giới và xây dựng một nền văn minh mới ở phần phía bắc của lục địa này.

Những dân nhập cư người Anh đầu tiên tới miền đất ngày nay là Hoa Kỳ đã vượt Ðại Tây Dương mãi lâu sau khi các thuộc địa Tây Ban Nha thịnh vượng đã được lập ra ở Mexico, ở vùng Tây ấn và Nam Mỹ. Giống như tất thảy những người phiêu lưu trước đây tới Tân Thế giới, họ đến đây trên những chiếc tầu nhỏ, chật cứng người. Trong suốt các chặng hành trình kéo dài từ 6 tới 12 tuần, họ phải sống bằng những khẩu phần ăn rất đạm bạc. Nhiều người chết vì bệnh tật, các con tàu thường xuyên bị các cơn bão tấn công và một số tàu đã mất tích ngoài biển.

Phần lớn dân di cư châu Âu rời bỏ quê hương bản quán để tránh các cuộc đàn áp chính trị, để đi tìm tự do thực hành tôn giáo của họ hoặc để tìm kiếm phiêu lưu và những vận may mà họ đã không có được ở quê hương. Vào khoảng giữa năm 1620 và 1635, những khó khăn kinh tế tàn phá nước Anh. Nhiều người không thể tìm được việc làm. Thậm chí có những thợ thủ công tài khéo, tay nghề cao cũng chỉ có thể kiếm được rất ít tiền, khó bảo đảm được một cuộc sống dù là chật vật. Nông dân thất thu mùa màng đã thêm phần tai hoạ cho cảnh gieo neo khốn cùng ấy. Thêm nữa, cuộc cách mạng công nghiệp đã tạo ra ngành công nghiệp dệt. Ngành dệt mới nảy sinh này đã đòi hỏi sự cung cấp gia tăng chưa từng có về lông cừu để duy trì các cỗ máy dệt hoạt động. Các địa chủ đã rào các khu đất canh tác và sa thải nông dân để dành đất chăn nuôi cừu. Cuộc bành trướng thuộc địa đã trở thành lối thoát cho đám nông dân bị đuổi việc đó.

Cái nhìn thoáng qua đầu tiên của những kẻ bỏ quê đi lập nghiệp dõi tới vùng đất mới là viễn cảnh của những cánh rừng rậm rạp. Những người định cư chắc không thể nào sống sót nếu như không có sự giúp đỡ của người da đỏ thân thiện, họ dạy cho người định cư cách trồng những giống cây bản địa như bí ngô, bí, đậu và ngô. Hơn nữa, những cánh rừng nguyên sinh bạt ngàn kéo dài đến gần 2.100 cây số dọc miền ven biển phía đông đã minh chứng về một nguồn phong phú các loài thú săn và củi đốt. Các khu rừng này cũng cung cấp rộng rãi nguyên liệu dùng để dựng nhà, đóng đồ, đóng tàu thuyền và chế tạo những loại hàng hoá sinh lợi để xuất khẩu.

Tuy miền lục địa mới được thiên nhiên ban phát cho những nguồn sản vật giàu có, nhưng mối giao thương với châu Âu vẫn quan trọng sống còn vì là nguồn cung cấp hàng hoá mà những người định cư không thể sản xuất được. Miền bờ biển đã phục vụ những người nhập cư thật đắc lực. Toàn bộ chiều dài của bờ biển đã cung cấp vô số những luồng lạch và hải cảng. Chỉ có hai vùng: Bắc Carolina và Nam New Jersey là thiếu các cảng cho tàu viễn dương tới neo đậu.

Những dòng sông hùng vĩ như Kennebec, Hudson, Delaware, Susquehanna, Potomac và rất nhiều con sông khác nối các vùng giữa bờ biển và dãy núi Appalachian với biển. Tuy nhiên chỉ một con sông là St. Lawrence do người Pháp quản lý ở Canada chảy vào vùng Hồ lớn và miền trung tâm của lục địa. Những cánh rừng rậm, sự chống đối của một số bộ lạc da đỏ và những cản trở khó vượt qua của dãy núi Appalachian đã làm nản lòng những người muốn lập khu định cư ở xa hơn miền đồng bằng ven biển. Chỉ có những người đặt bẫy thú lấy da và các nhà buôn mới mạo hiểm tiến vào khu vực hoang sơ. Suốt trong một trăm năm đầu tiên, những người định cư xây dựng các khu ở của mình một cách chặt chẽ dọc bờ biển.

Những lý do, suy tính về chính trị đã ảnh hưởng tới nhiều người khiến họ di cư tới Mỹ. Vào những năm 1630, vai trò trọng tài của vua Anh Charles đệ Nhất đã tạo động lực cho việc di cư tới Tân Thế giới. Cuộc khởi nghĩa và những thắng lợi tiếp theo của những kẻ đối lập với Charles đệ Nhất dưới sự lãnh đạo của Oliver Cromwell vào những năm 1640 đã đưa những người ủng hộ vua Charles đệ Nhất trong nội chiến Anh quốc – “Những thần dân của nhà vua” – được giao nhiệm vụ tới thử vận may ở Virginia. Tại các vùng nói tiếng Ðức ở châu Âu, mọi chính sách đàn áp của các vị hoàng thân hẹp hòi khác nhau, đặc biệt là lý do tôn giáo – cùng sự tàn phá gây ra bởi một loạt các cuộc chiến tranh lâu dài đã gây sự bùng nổ của phong trào di cư sang Mỹ vào các thế kỷ XVII và XVIII sau đó.

Những người định cư đến ồ ạt vào thế kỷ XVII đã đòi hỏi việc quy hoạch và quản lý chặt chẽ cũng như những chi phí đáng kể và có rủi ro. Dân định cư phải di chuyển gần 5.000 cây số băng qua biển cả. Họ cần đồ dùng, quần áo, hạt giống, dụng cụ, vật liệu xây dựng, gia súc, vũ khí và đạn dược.

Khác với các chính sách thực dân hoá của các quốc gia khác và các giai đoạn khác, việc di tán từ nước Anh không trực tiếp được chính phủ bảo trợ, mà do các nhóm những cá nhân riêng rẽ cung cấp tiền với động cơ chính là lợi lộc. 

VII/Jamestown

Thuộc địa đầu tiên trong số các thuộc địa của Anh bắt đầu hoạt động ở Bắc Mỹ là khu Jamestown. Trên cơ sở một ân chiếu mà vua James đệ Nhất ban cho công ty Virginia (hay công ty London), một nhóm gồm khoảng 100 người đã lên đường tới vịnh Chesapeake vào năm 1607. Nhằm tránh đụng độ với người Tây Ban Nha, họ đã chọn một khu vực cách vịnh chừng 60 cây số ở phía trên dòng sông James.

Ðược lập nên từ những người thị dân và những người phiêu lưu vốn quan tâm tới việc tìm vàng hơn là canh nông, nhóm người này không được chuẩn bị về khí chất, tinh thần hoặc một khả năng để lao vào một cuộc sống hoàn toàn mới mẻ ở vùng đất hoang dã. Trong số họ có đại uý John Smith xuất hiện với tư cách nhân vật chủ chốt. Bất chấp các cuộc cãi vã, kiệt sức vì đói và những cuộc tấn công của người da đỏ, khả năng của ông biết củng cố kỷ luật đã cấu kết, duy trì được nhóm định cư nhỏ bé này với nhau suốt năm đầu tiên.

Năm 1609, Smith trở về nước Anh. Khi ông vắng mặt, cả khu kiều dân sa sút trong tình trạng vô chính phủ. Suốt mùa đông từ năm 1609 đến năm 1610, phần lớn những kiều dân đó không chống chọi nổi bệnh tật. Cho tới tháng 5-1610, chỉ có 60 người còn sống trong số 300 người định cư đến đây. Cũng vào năm đó, thị trấn Henrico (ngày nay là thành phố Richmond) đã được thành lập ở xa hơn nữa thượng lưu sông James.

Tuy nhiên điều đó xảy ra không lâu trước khi một bước phát triển diễn ra đã cách mạng hoá nền kinh tế của vùng Virginia. Năm 1612, ông John Rolfe bắt đầu việc lai giống cho cây thuốc lá nhập từ vùng Tây ấn với cây thuốc lá bản địa và đã sản xuất ra loại thuốc lá mới hợp với khẩu vị người châu Âu. Chuyến tàu biển đầu tiên chở thứ thuốc lá này đã tới London năm 1614. Trong suốt một thập niên, loại thuốc lá này đã trở thành nguồn thu nhập chính của Virginia.

Tuy nhiên, sự thịnh vượng đã không tới nhanh vì tỷ lệ tử vong do bệnh tật và vì những cuộc đột kích của người da đỏ đã trở nên cao khác thường. Trong thời gian từ năm 1607 đến năm 1624 có chừng 14.000 người di trú tới thuộc địa này, song vào năm 1624 chỉ còn có 1.132 người còn sống ở đó. Theo lời khuyến nghị của một tiểu ban hoàng gia, nhà vua đã giải tán công ty Virginia và biến công ty đó trở thành khu kiều dân thuộc hoàng gia năm đó. 

VIII/ Massachusetts

Trong thời gian xảy ra những biến động tôn giáo vào thế kỷ XVI, một nhóm người gồm cả đàn ông và đàn bà được gọi là các tín đồ Thanh giáo đã đòi hỏi cải cách giáo hội chính thức của Anh quốc ngay từ nội bộ. Về căn bản họ yêu cầu mọi nghi thức và cấu trúc có liên quan tới công giáo Lamã phải được thay thế bởi những hình thức tín ngưỡng và thờ cúng của Tin lành giáo giản dị hơn. Bằng việc đòi phá huỷ sự thống nhất của giáo hội quốc gia, những ý tưởng cải cách tôn giáo của họ đã đe dọa chia rẽ mọi người và ngầm phá hoại uy tín, chính quyền hoàng gia.

Năm 1607, một nhóm nhỏ những người Phân lập – giáo phái cấp tiến của các tín đồ Thanh giáo vốn không tin Giáo hội chính thức có thể được cải cách – đã lên đường tới thành phố Leyden, Hà Lan, nơi người Hà Lan ban cho họ sắc lệnh bảo vệ người tị nạn chính trị. Tuy nhiên những người Hà Lan theo đạo Calvin đã hạn chế chỉ cấp cho họ những công việc lao động được trả lương thấp. Một số thành viên của hội đồng giáo phái đã bất mãn với sự kỳ thị này và quyết định di cư sang Tân Thế giới.

Năm 1620, một nhóm những tín đồ Thanh giáo ở Leyden đã giành được giấy phép công nhận đặc quyền đất đai từ công ty Virginia, và 101 người bao gồm đàn ông, đàn bà và trẻ con đã lên đường tới Virginia trên con tàu Mayflower. Một trận bão đã đưa họ trôi dạt xa hơn lên phía bắc và họ đã đổ bộ lên vùng New England tại Mũi Cá tuyết (Cape Cod). Tin rằng họ đã nằm ngoài mọi phạm vi pháp lý của bất kỳ chính quyền có tổ chức nào, những người định cư đã soạn ra một hiệp ước mang tính hình thức bày tỏ sự trung thành với “những luật lệ công bằng và bình đẳng” do các nhà lãnh đạo đã được họ lựa chọn soạn thảo và trình bày. Ðó chính là Hiệp ước Mayflower.

Vào tháng 12, tàu Mayflower cập cảng Plymouth; những người hành hương bắt đầu xây dựng khu định cư của mình trong mùa đông. Gần một nửa số kiều dân này bị chết vì lọt vào những nơi nguy hiểm và vì bệnh tật, nhưng những người da đỏ thuộc bộ lạc Wampanoag láng giềng đã cung cấp cho họ kiến thức và đã giúp họ tồn tại: đó là cách trồng ngô. Ðến mùa thu năm sau, những người hành hương đã thu hoạch một vụ ngô bội thu và mối giao thương đang phát triển đã dựa vào buôn bán lông thú và gỗ xẻ.

Một làn sóng người nhập cư mới đã ập tới miền bờ biển của vịnh Massachusetts vào năm 1630, họ mang theo ân chiếu của vua Charles đệ Nhất cho phép lập thuộc địa. Nhiều người trong số họ là tín đồ Thanh giáo mà những nghi lễ tôn giáo của họ đã bị cấm đoán ngày càng ngặt nghèo ở nước Anh. Thủ lĩnh của họ, ông John Winthrop, đã công khai bắt đầu thiết lập “thành phố trên đồi” ở Tân Thế giới. Ông hàm ý đó là nơi mà các tín đồ Thanh giáo sẽ sống trong sự hoà hợp chặt chẽ với các đức tin tôn giáo của họ.

Công ty vịnh Massachusetts phải đóng một vai trò quan trọng trong việc phát triển toàn bộ vùng New England, một phần là do Winthrop và các đồng sự tín đồ Thanh giáo của ông đã có thể mang theo ân chiếu. Vả lại quyền lực của chính quyền công ty có thẩm quyền ở Massachusetts chứ không phải ở Anh quốc.

Theo những điều khoản của ân chiếu thì quyền lực dựa vào Ðại hội đồng (the General Court) bao gồm các “công dân tự do”, họ cần phải là thành viên của giáo hội Thanh giáo. Ðiều này bảo đảm rằng các tín đồ Thanh giáo sẽ là lực lượng lãnh đạo chính trị chủ đạo cũng như lực lượng tôn giáo ở thuộc địa. Lực lượng đó là Ðại hội đồng và cơ quan này sẽ bầu ra thống đốc. Trong hầu hết thời gian 30 năm sau đó, vị thống đốc là John Winthrop.

Tính chính thống, khe khắt của các điều luật Thanh giáo đã không phải khiến mọi người thích thú. Một trong số những người đầu tiên thách thức Ðại hội đồng một cách công khai là một tu sỹ trẻ tên là Roger Williams, người đã phản đối việc thuộc địa chiếm đất của người da đỏ và phản đối các mối quan hệ với Giáo hội Anh quốc.

Sau khi bị trục xuất khỏi công ty vịnh Massachusetts, ông mua đất của người da đỏ thuộc bộ lạc Narragansett tại vùng mà bây giờ là Providence, Rhode Island, vào năm 1636. Tại đó ông tạo dựng thuộc địa Mỹ đầu tiên, nơi sự ly khai hoàn toàn khỏi giáo hội và nhà nước cũng như tự do tôn giáo đã được thực hành.

Những người mà được mệnh danh là các tín đồ dị giáo như ông Williams không phải là những kẻ duy nhất rời bỏ Massachusetts. Những tín đồ Thanh giáo chính thống khi đi tìm kiếm các vùng đất màu mỡ hơn và những cơ hội tốt đẹp hơn cũng chẳng bao lâu sau rời công ty vịnh Massachusetts. Ví dụ như, những tin tức về độ phì nhiêu màu mỡ của khu vực thung lũng sông Connecticut đã thu hút sự chú ý của các chủ trại đang ở trong tình trạng gặp khó khăn vì đất đai bạc màu, khô kiệt. Cho tới năm 1630, nhiều người đã sẵn sàng đối đầu với hiểm hoạ người da đỏ tấn công để chiếm vùng đất bằng phẳng, sâu rộng và màu mỡ. Các cộng đồng mới này thường bỏ tư cách thành viên giáo hội như là một điều kiện tiên quyết để bầu cử, do đó có thể mở rộng quyền bầu cử tới số lượng người đông đảo hơn.

Cũng vào thời gian này, những khu kiều dân khác bắt đầu xuất hiện dọc vùng bờ biển New Hampshire và Maine, vì ngày càng nhiều hơn số người nhập cư đi tìm đất đai và tự do của Tân Thế giới dường như có thể dành cho họ. 

IX/ Hà Lan mới (New Netherland) và Maryland

Vào năm 1609, công ty Tây ấn Hà Lan thuê ông Henry Hudson khảo sát khu vực xung quanh nơi bây giờ là thành phố New York và con sông mang tên ông cho tới tận điểm mà có lẽ là phía bắc thành phố Albany, New York. Những cuộc hành trình tiếp theo của người Ha Lan đã đặt cơ sở cho những yêu sách của họ và những khu kiều dân đầu tiên của người Hà Lan ở khu vực này.

Giống như người Pháp ở phía bắc, mối quan tâm đầu tiên của người Hà Lan là buôn bán lông thú. Ðể thực hiện mục đích này, người Hà Lan gây dựng những mối quan hệ gần gũi với năm bộ tộc của người Iroquois, những người vốn là chiếc chìa khoá dẫn tới vùng đất trung tâm cung cấp lông thú. Vào năm 1617, các kiều dân Hà Lan đã xây dựng một pháo đài ở giao điểm hai con sông Hudson và Mohawk nơi bây giờ là thành phố Albany.

Khu định cư trên đảo Manhattan bắt đầu hình thành vào những năm 1620. Vào năm 1624, người da đỏ địa phương đã mua hòn đảo này với cái giá được thông báo là 24 đôla. Ðảo này lập tức được đổi tên là New Amsterdam.

Ðể thu hút người định cư tới vùng sông Hudson, người Hà Lan đã khuyến khích phát triển một kiểu quý tộc phong kiến được biết đến với cái tên hệ thống “chủ đất phong”2 (Patroon). Những khu bất động sản lớn đầu tiên trong số đó được thiết lập năm 1630 ở dọc theo triền sông Hudson.

Theo hệ thống chủ đất phong thì bất kỳ cổ đông nào, hay chủ đất phong nào mà có thể đem được 50 người lớn tới khu đất của anh ta trong thời hạn hơn bốn năm thì sẽ được cấp một lô đất rộng 25 cây số ở ven sông, đặc biệt là các đặc quyền đánh cá và săn bắn, và cũng được ban quyền lợi pháp lý dân sự cho các mảnh đất của mình. Ðổi lại, anh ta cung cấp vật nuôi, công cụ và nhà ở. Những người thuê đất trả tiền thuê cho chủ đất phong và giao cho ông ta quyền lựa chọn mua bán đầu tiên đối với những hoa mầu thừa dư.

Xuôi về phía nam, một công ty thương mại Thụy Ðiển có các quan hệ với người Hà Lan đã toan tính lập khu định cư đầu tiên của mình dọc sông Delaware ba năm sau đó. Do không đủ nhân lực, vật lực để củng cố vị trí của mình, khu Thuỵ Ðiển Mới dần dần bị hút vào khu Hà Lan Mới và sau đó là các khu Pennsylvania và Delaware.

Năm 1632, gia đình nhà Calvert đã có được ân chiếu cấp đất ở phía bắc sông Potomac do vua Charles đệ Nhất ban, vùng đất này sau đó trở thành bang Maryland. Vì ân chiếu không ghi rõ ràng việc cấm khu định cư của những người thuộc các giáo hội không phải Tin lành, nên gia tộc Calvert khuyến khích các bạn bè theo công giáo đến định cư ở đó. Thành phố đầu tiên của vùng Maryland và St.Mary’s được thành lập năm 1634 gần sông Potomac đổ vào vịnh Chesapeake.

Trong khi thiết lập khu tị nạn cho những tín đồ công giáo, lại phải đối mặt với sự khủng bố ngày càng gia tăng ở nước Anh theo Anh giáo, gia tộc nhà Calvert cũng quan tâm tới việc tạo ra những bất động sản sinh lợi. Nhằm mục tiêu này và đồng thời để tránh phiền hà với chính phủ Anh quốc, họ cũng khuyến khích việc nhập cư của các tín đồ Tin lành giáo.

Ân chiếu hoàng gia ban cho gia tộc Calvert có sự kết hợp cả các yếu tố phong kiến lẫn yếu tố hiện đại. Một mặt họ có quyền lực để tạo ra bất động sản là trang ấp. Mặt khác, họ chỉ có thể soạn thảo luật với sự ưng thận của các công dân tự do (những người nắm tài sản) mà thôi. Họ thấy rằng để hấp dẫn, thu hút người định cư – có nghĩa là kiếm được lời từ vốn tài sản của những người này – họ phải cung cấp cho người ta các nông trại chứ không chỉ có việc thuê các điền trang. Con số các nông trại độc lập vì thế mà đã tăng lên, còn những chủ nhân của các nông trại đó đòi hỏi có tiếng nói trong những công việc của thuộc địa. Vậy là cơ quan lập pháp đầu tiên của Maryland được nhóm họp năm 1635. 

X/ Những mối quan hệ giữa thuộc địa và người da đỏ

Cho đến năm 1640, người Anh đã có những thuộc địa vững chắc được thiết lập dọc bờ biển New England và vịnh Chesapeake. ở giữa là người Hà Lan và cộng đồng rất nhỏ của người Thuỵ Ðiển. Về phía tây là những người Mỹ chính gốc, tức là người da đỏ.

Mối quan hệ giữa các bộ lạc da đỏ miền đông với người châu Âu không còn là những kẻ xa lạ nữa, đôi khi thì thân mật, hữu hảo, cũng có khi là thù địch. Tuy người Mỹ bản địa được hưởng lợi từ việc tiếp xúc với công nghệ mới và thương mại, nhưng bệnh tật và nỗi thèm khát đất đai mà những người định cư đầu tiên mang tới đã gây ra một thách thức nghiêm trọng đối với nếp sống đã được hình thành từ lâu của người da đỏ.

Trước hết, buôn bán với người định cư châu Âu đã mang lại những điều có lợi: đó là dao, rìu, vũ khí, đồ dùng làm bếp, lưỡi câu cá và vô số các loại hàng hoá khác. Những người da đỏ buôn bán ngay từ thuở ban đầu với người châu Âu đã có được ưu thế đáng kể đối với các địch thủ không có các thuận lợi đó.

Ðể đáp ứng những yêu cầu của người châu Âu, các bộ lạc như bộ lạc Iroquois đã bắt đầu chú ý tới việc săn bắt thú lấy da vào thế kỷ XVII. Lông và da thú chưa thuộc đem lại cho các bộ lạc nguồn tài chính để mua hàng hoá kiều dân mãi cho tới tận thế kỷ XVIII.

Những mối quan hệ giữa thuộc địa với người da đỏ giai đoạn đầu là vừa có sự hợp tác, vừa xung đột. Một mặt, có những mối quan hệ thân thiện vốn là cơ bản trong suốt nửa thế kỷ đầu tiên tồn tại vùng Pennsylvania. Mặt khác đã có hàng loạt những cản trở, giao tranh và chiến tranh kéo dài mà phần đa số đều theo một kịch bản không đổi là sự thất bại và tiếp tục mất đất ở phía người da đỏ.

Cuộc nổi dậy đầu tiên trong số những cuộc khởi nghĩa quan trọng của người da đỏ xảy ra ở Virginia vào năm 1622, khi đó có đến 347 người da trắng bị giết, gồm cả một số nhà truyền giáo vừa mới đặt chân tới Jamestown. Cuộc chiến tranh Pequot tiếp theo năm 1637 vì các bộ lạc bản địa muốn ngăn chặn việc định cư ở vùng sông Connecticut.

Vào năm 1675, Phillip, con trai của một tù trưởng, từng ký kết hiệp định hoà bình đầu tiên với những người hành hương năm 1621 đã cố gắng đoàn kết các bộ lạc miền nam New England chống lại việc người châu Âu tiếp tục xâm lấn đất đai của họ. Tuy nhiên, Phillip đã tử trận trong trận đánh và nhiều người da đỏ bị bán đi làm nô lệ.

Gần như suốt 5.000 cây số về phía Tây lãnh thổ, người da đỏ Pueblo đã vùng lên khởi nghĩa chống lại các nhà truyền giáo Tây Ban Nha năm năm sau đó ở khu vực xung quanh thành Taos ở New Mexico. Trong suốt vài chục năm tiếp theo, người da đỏ Pueblo lại kiểm soát được phần đất đai trước kia vốn là của họ, song để rồi phải nhìn thấy người Tây Ban Nha chiếm lại. Chừng 60 năm sau, cuộc khởi nghĩa khác của người da đỏ xảy ra khi người da đỏ Pima đụng độ với người Tây Ban Nha ở miền đất mà hiện nay là bang Arizona.

Dòng người định cư đều đặn tiến vào những vùng rừng rú xa xôi hẻo lánh của các thuộc địa miền Ðông đã phá vỡ nhịp sống bao đời nay của người da đỏ. Vì ngày càng nhiều thú bị giết nên các bộ lạc đã phải đối mặt với sự lựa chọn khó khăn giữa việc chịu đói hay lâm chiến, hoặc rời đi và phải xung đột với các bộ lạc khác ở miền Tây.

Người Iroquois sống ở khu vực dưới khu hồ Ontario và Erie ở phía bắc New York và Pennsylvania đã thành công hơn cả trong việc chống lại những bước bành trướng của người châu Âu. Vào năm 1570, năm bộ lạc đã kết hợp để trở thành một quốc gia dân chủ nhất thời đó, nước “Ho-De-No-Sau-Nee” hay là liên minh người Iroquois. Liên minh này được điều hành do một hội đồng gồm 50 đại diện từ từng bộ lạc trong số năm bộ lạc đó. Hội đồng quyết định các công việc chung cho toàn bộ các bộ lạc, nhưng hội đồng không trực tiếp điều hành các công chuyện hàng ngày của từng bộ lạc. Không có bộ lạc nào được phép một mình tiến hành chiến tranh. Hội đồng đã thông qua Luật xử lý các tội phạm, chẳng hạn như tội giết người.

Liên minh là một chính thể mạnh vào thế kỷ XVI và thế kỷ XVII. Liên minh này buôn bán lông thú với người Anh và theo phe người Anh chống lại người Pháp trong chiến tranh giành quyền thống trị nước Mỹ vào những năm từ 1754 đến 1763. Người Anh chưa chắc có thể thắng được cuộc chiến tranh đó một khi không có sự trợ giúp của liên minh người Iroquois.

Liên minh vẫn vững mạnh cho tới tận thời Cách mạng Mỹ. Sau đó, trong thời gian đầu, hội đồng đã không thể đạt được quyết định nhất trí về việc cần phải ủng hộ ai. Các bộ lạc thành viên đã đưa ra những quyết định riêng của mình, một số đấu tranh với người Anh, người khác lâm chiến với quân thực dân, những người còn lại thì đứng trung lập. Kết quả là tất cả đều chống lại người Iroquois. Những thất bại của họ thật lớn lao và liên minh đã không bao giờ hồi phục được nữa. 

XI/ Thế hệ thứ hai của các thuộc địa Anh quốc

Xung đột dân sự và xung đột tôn giáo ở nước Anh vào giữa thế kỷ XVII đã hạn chế dòng người nhập cư vào Mỹ cũng như làm giảm đi mối quan tâm chú ý mà mẫu quốc dành cho các thuộc địa Mỹ non nớt.

Năm 1643 các thuộc địa Vịnh Massachusetts, Plymouth, Connecticut và New Heaven đã thành lập Liên minh các tiểu bang New England một phần để cung cấp, bảo đảm những biện pháp quốc phòng mà nước Anh đã xao lãng, thờ ơ. Ðó là nỗ lực đầu tiên của các kiều dân châu Âu nhằm thống nhất khu vực lãnh thổ.

Lịch sử thời kỳ đầu của các thuộc địa Anh quốc đã bộc lộ nhiều cuộc xung đột, kình địch cả về tôn giáo lẫn chính trị vì các phe nhóm ganh đua giành quyền lực và vị trí giữa họ với nhau và giữa những cộng đồng láng giềng. Ðặc biệt, vùng Maryland chịu khốn khổ vì các cuộc kình địch tôn giáo gay gắt vốn từng gây thiệt hại lớn cho nước Anh trong thời kỳ của Oliver Cromwell. Một trong số các nạn nhân là sắc luận khoan dung của nhà nước mà đã bị huỷ bỏ vào những năm 1650. Tuy nhiên, chẳng bao lâu sau, sắc luật này được phục hồi với quyền tự do tôn giáo mà nó đã bảo đảm.

Năm 1675, cuộc nổi dậy của Bacon là cuộc khởi nghĩa quan trọng đầu tiên chống lại quyền lực hoàng gia, đã bùng lên ở các thuộc địa. Tia lửa đầu tiên dẫn tới cuộc nổi loạn này là cuộc đụng độ giữa những người tiên phong tới vùng đất mới và người da đỏ thuộc bộ lạc Susquehannock, nhưng chẳng bao lâu sau cuộc đụng độ ấy đã kích động chủ nông trại là thường dân chống lại sự giàu có và đặc quyền của các ông chủ đồn điền lớn và viên thống đốc bang Virginia là William Berkeley.

Những chủ trại nhỏ chịu cay đắng vì giá thuốc lá thấp và những điều kiện sống nghèo nàn đã tập hợp lại xung quanh ông Nathaniel Bacon, người vừa từ nước Anh tới Mỹ. Berkeley đã từ chối cấp cho ông Bacon quyền uỷ nhiệm tiến hành những cuộc đột kích chống người da đỏ, nhưng ông ta đồng ý thi hành các cuộc bầu cử mới vào Hội đồng Thị dân, một tổ chức đã giữ nguyên không đổi từ năm 1661.

Bất chấp các mệnh lệnh của Berkeley, Bacon đã đưa quân tấn công chống lại bộ lạc Ocaneechee vốn rất thân thiện và đánh bại họ hầu như hoàn toàn. Quay trở về Jamestown tháng 9-1676, ông cho phóng hoả đốt thành này khiến Berkeley phải chạy trốn. Phần lớn tiểu bang lúc này nằm dưới sự cai trị của Bacon. Tuy nhiên chiến thắng của ông thật ngắn ngủi vì Bacon chết do bệnh sốt ngay tháng sau đó. Bacon không còn nữa, thì cuộc nổi loạn mau chóng mất đi sức sống của nó. Berkeley tái lập quyền lực của ông và ra lệnh treo cổ 23 người trong số những kẻ đi theo Bacon.

Cùng với việc khôi phục lại chế độ quân chủ của vua Charles đệ Nhị (the Restoration) vào năm 1660, người Anh lại một lần nữa hướng sự chú ý tới Bắc Mỹ. Trong một thời gian ngắn, các khu định cư của người châu Âu đầu tiên được thiết lập ở Bắc và Nam Carolina và người Hà Lan đã buộc phải chạy khỏi Tân Hà Lan (New Netherland). Các thuộc địa độc quyền được thành lập ở New York, New Jersey, Delaware và Dennsylvania.

Như thông lệ, các thuộc địa Hà Lan đã được quản lý bởi các thống đốc chuyên quyền được cắt cử ở châu Âu. Trong suốt nhiều năm, dân di cư địa phương đã trở nên xa lạ với họ. Kết quả là khi kiều dân Anh bắt đầu xâm lấn các vùng đất của người Hà Lan ở Long Island và Manhattan, viên thống đốc bị dân chúng ghét bỏ đã không thể quy

0