24/05/2018, 14:37

Nội dung của nhập khẩu

Khái niệm thị trường có thể xét nhiều góc độ khác nhau, từ có có định nghĩa khác nhau. Theo quan điểm của kinh tế học thì thị trường là tổng thể cung và cầu đối với 1 lại hàng hoá nhất định trong một thời gian và không gian cụ thể. Theo định ...

Khái niệm thị trường có thể xét nhiều góc độ khác nhau, từ có có định nghĩa khác nhau. Theo quan điểm của kinh tế học thì thị trường là tổng thể cung và cầu đối với 1 lại hàng hoá nhất định trong một thời gian và không gian cụ thể. Theo định nghĩa này giả thiết cơ sở là tổng cung và cầu về 1 loại hàng hoá trên thị trường vận động theo những quy luạt riêng và điều tiết thị trường thông qua quy luật cung cầu. Nếu đứng trên giác độ quản lý 1 doanh nghiệp, khái niệm thị trường phải được gần với các tác nhân kinh tế tham gia vào thị trường như người mua, người bán, người phân phối… Với những hành vi cụ thể của họ. Vậy so sánh hai khái niệm trên đây thì khái niệm trên mang nặng tính lý thuyết còn khái niệm dưới giác độ doanh nghiệp không phải bao giời cũng tuân theo quy luật cứng nhắc dựa trên lý thuyết vì hành vi của người mua và người bán chịu tác động của yếu tố tâm lý và điều kiện giao dịch. Vậy đứng trên giác độ doanh nghiệp thì "thị trường là tập hợp những khách hàng tiềm năng của doanh nghiệp".

Từ khái niệm trên ta có thể đưa ra khái niệm thị trường quốc tế của doanh nghiệp "thị trường quốc tế của doanh nghiệp là tập hợp những khách hàng nước ngoài tiềm năng của doanh nghiệp đó". Theo khái niệm này thì số lượng và cơ cấu nhu cầu của khách hàng nước ngoài đối với sản phẩm của doanh nghiệp cũng nhưng sự biến động của các yếu tố đó theo không gian và thời gian là đặc trưng cơ bản của thị trường quốc tế của doanh nghiệp. Số lượng và cơ cấu nhu cầu chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố khách quan và chủ quan, vĩ mô và vi mô đòi hỏi mỗi doanh nghiệp phải nghiên cứu một cách tỷ mỉ. Thị trường quốc tế nó phức tạp hơn nhiều so với thị trường nội địa do có sự khác biệt về hệ thống chính trị - văn hoá- luật pháp và các yếu tố do môi trường địa lý quy định do đó nó chứa định rủi ro cao hơn đối với hoạt động kinh doanh nói chung và hoạt động nhập khẩu nói riêng, vì vậy đòi hỏi doanh nghiệp phải am hiểu luật pháp, văn hoá và hệ thống chính trị nhằm hạn chế những thiệt hại có thể gặp phải.

Doanh nghiệp tiến hành kinh doanh hàng hoá XNK ngoài phải nghiên cứu thị trường nội địa cần phải nghiên cứu thị trường nước ngoài. Vì vậy nội dung nghiên cứu thị trường gồm có thị trường trong nước và thị trường quốc tế.

Nghiên cứu thị trường nội địa

Khi tiến hành nghiên cứu thị trường nội địa các doanh nghiệp phải tiến hành nghiên cứu các khía cạnh sau:

* Nghiên cứu nhu cầu của thị trường

Doanh nghiệp phải xác định được nhu cầu tiêu dùng hàng hoá trong nước, dự kiến mua hàng của khách hàng, nghiên cứu xem khách hàng cần những đặc tính nào và đánh giá như thế nào đối với từng đặc tiếnh của hàng hoá. Chừng nào mà nhà kinh doanh hiểu rõ được khách hàng sẽ cần loại hàng hoá gì? hàng hoá đó phải có những đặc điểm gì? Điều đặc trưng quan trọng nhất? Để tạo ra nó phải tốn chi phí bao nhiêu? Tương ứng với nó là mức giá nào? Thì khi đó họ mới hy vọng kinh doanh có hiệu quả và mang lại lợi nhuận.

* Nghiên cứu cơ cấu mặt hàng nhập khẩu

Việc nghiên cứu cơ cấu mặt hàng nhập khẩu là rất cần thết đối với doanh nghiệp tiến hành kinh doanh nhập khẩu. Khi nghiên cứu vấn đề này cần xem xét thực trạng mặt hàng hiện tại trong nước như thế nào về khía cạnh: tình hình tiên dùng mặt hàng đó, số lượng các nhà cung ứng nước ngoài, tình hình sản xuất trong nước, chính sách mà nhà nước áp dụng cho các mặt hàng nhập khẩu đó để lựa chọn lĩnh vực kinh doanh có khả năng hấp dẫn khách hàng nhất.

* Nghiên cứu giá hàng

Nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến giá cả hàng hoá nhập khẩu. Vấn đề giá cả rất nhạy cảm ảnh hưởng trực tiếp đến lợi nhuận của doanh nghiệp đến quyết định mua hàng của khách hàng. Nó chịu tác động của nhiều yếu tố bao gồm các yếu tố bên trong và bên ngoài, trở thành công cụ hữu hiệu cho mục tiêu kinh doanh hàng hoá nhập khẩu phục vụ đắc lực cho chiến lược kinh doanh của công ty.

* Nghiên cứu đối thủ cạnh tranh

ảnh hưởng của cạnh tranh có thể xem xét phân tích khía cạnh sau:

- Tương quan so sánh giữa giá thành giữa công ty và đối thủ cạnh tranh trong cùng lĩnh vực hoạt động

- Mức độ ảnh hưởng của đối thủ và hàng hoá cung ứng sẽ áp dụng các chính sách, chiến lược như thế nào?

- Luôn theo dõi sát sao các động thái kinh doanh của đối thủ nhằm có sách lược đối phó kịp thời với những thay đổi đó của đối thủ, biết được họ đang kinh doanh ở thị trường nào?

Nghiên cứu thị trường nước ngoài

thị trường nước ngoài phức tạp hơn nhiều đối với thị trường nội địa do có sự khác biệt về hệ thống kinh tế - chính trị - văn hoá - xã hội - luật pháp và phong tục tập quán. Điều này đòi hỏi những người làm công tác nghiên cứu thị trường phải hiểu sâu sắc về các yếu tố trên điều quan trọng là phải thông thạo nghiệp vụ. Thông thường khi nghiên cứu thị trường nước ngoài thường tập trung vào các vấn đề trọng tâm sau:

* Nghiên cứu khả năng cung ứng của thị trường nước ngoài: Đây là chỉ tiêu quan trọg tác động đến sự ổn định kinh doanh của doanh nghiệp trong quá trình kinh doanh. Mỗi nhà cung ứng nước ngoài không bao giời là một nhà cung ứng thuần nhất doanh nghiệp không nên lựa chọn 1 nhà cung ứng duy nhất mà nên tìm nhiều nhà cung ứng nhằm phân tác rủi ro trong quá trình nhập khẩu, đa dạng hoá nguồn nguyên liệu đầu vào đảm bảo khả năng cung ứng nguồn đầu vào ổn định phục vụ cho quá trình sản xuất kinh doanh diễn ra thông suốt không bị gián đoạn. Một khía cạnh quan trọng cần được nghiên cứu là sự biến động theo thời gian của các nhà cung ứng biểu hiện qua số lượng tăng giảm, giá cả hàng hoá nk của hàng hoá đó. Nó đã phản ánh triển vọng phát triển của các nhà cung ứng trong tương lai để doanh nghiệp có thể xác định sự thích ứng trong lượng cung cấp và các chính sách thương mại hợp lý.

* Nghiên cứu các nhân tố thuộc môi trường kinh tế - chính trị - luật pháp - văn hoá và phong tục tập quán của mỗi quốc gia

Khi nghiên cứu thị trường của các nhà cung ứng nước ngoài doanh nghiệp phải tiến hành nghiên cứu các nhân tố trên. Vì mỗi nước có luật pháp, hệ thống văn hoá kinh tế chính trị riêng áp dụng đối với hàng hoá xuất khẩu nhằm khuyến khích hay hạn chế hàng hoá xuất khẩu đó nó ảnh hưởng đến quan hệ giao dịch giữa các bên.

Sự khác biệt về văn hoá sẽ ảnh hưởng đến cách thức giao dịch sẽ được tiến hành thí dụ như một số nước trong giao dịch thanh toán bằng tiền mặt, một số nước thanh toán bằng thẻ… Điều này sẽ gây cản trở cho hoạt động XNK và doanh nghiệp cần phải thích nghi với môi trường văn hoá mà định tiến hành nhập khẩu.

Nhân tố thuộc môi trường chính trị - luật pháp cần phải tập trung vào một số vấn đề chủ yếu sau:

- Sự ổn định chính trị: Mỗi một quốc gia khi thay đổi thể chế chính trị có thể kéo theo mọi sự thay đổi khác như áp dụng chính sách thương mại mới hay mức thuế mới.

- Sự điều tiết về tiền tệ: Những quy định về quản lý ngoại hối sẽ gây khó khăn cho hoạt động XNK nói riêng và hoạt động thương mại nói chung.

- Tính hiệu lực của bộ máy chính quyền: Tức là mức độ mà chính quyền nước xuất khẩu điều hành hệ thống hữu hiệu để hỗ trợ các doanh nghiệp tiến hành xuất khẩu.

- Các quy định mang tính chất pháp lý bắt buộc và quản lý cần phải được xem xét kỹ lưỡng như: Cấm đoán hoặc kiểm soát đối với một số hàng hoá và dịch vụ, cấm một số phương thức hoạt động thương mại, cấm kiểu kiểm soát giá cả…

* Nghiên cứu giá cả hàng hoá quốc tế

Doanh nghiệp tiến hành kinh doanh mục tiêu là lợi nhuận đạt được. Nhân tố ảnh hưởng đến lợi nhuận có nhiều trong đó giá cả hàng hoá. Nếu doanh nghiệp nhập hàng với giá cao đồng nghĩa với chi phí sẽ tăng lên phần lợi nhuận sẽ giảm xuống. Khi đó muốn có lãi doanh nghiệp phải nâng giá bán điều này làm giảm khả năng cạnh tranh.

Yêu cầu đặt ra đối với doanh nghiệp là phải nghiên cứu tình hình biến động giá cả hàng hoá trên thế giới để đưa ra mức giá nhập khẩu phù hợp, tránh tình trạng nâng giá cao quá mức so với giá cả thị trường. Các nhân tố ảnh hưởng tới hàng hoá quốc tế gồm có các nhân tố cơ bản sau:

- Cung về cầu hàng hoá đó trên thị trường thế giới: Đây là yếu tố lớn ảnh hưởng đến giá cả hàng hoá. Nếu cầu thị trường lớn trong khi nguồn cung lại khan hiếm sẽ đẩy mức giá lên cao theo quy luật cung cầu.

- Cạnh tranh: Trạng thái cạnh tranh trên thị trường cung ứng giúp cho việc xác định mức giá, nó ảnh hưởng đến lượng bán của nhà cung ứng vì vậy tuỳ theo mức độ cạnh tranh đến đâu mà giá cả sẽ được quy định.

- Trong điều kiện địa lý khác nhau, đồng tiền thanh toán khác nhau và phương thức thanh toán khác nhau… đều ảnh hưởng đến giá cả hàng hoá. Đặc biệt là sự suy yếu của một số ngoại tệ mạnh như USD làm ảnh hưởng tới mậu dịch toàn cầu.

- Lạm phát: Lạm phát ảnh hưởng đến giá cả hàng hoá của một quốc gia thể hiện sự mất giá của đồng tiền quốc gia đó.

- Luật pháp và chính trị: Một số quốc gia nhằm khuyến khích xuất khẩu hàng hoá ra nước ngài họ sẽ tiến hành hỗ trợ cho doanh nghiệp trong nước. Khi chính phủ can thiệp vào thị trường tiền tệ thì tình hình cạnh tranh cũng thay đổi mặt khác biểu thuế xuất nhập khẩu cũng sẽ khác nhau giữa các quốc gia điều này ảnh hưởng đến giá cả hàng hoá sản phẩm giữa các nước.

Nói tóm lại doanh nghiệp khi nghiên cứu giá cả hàng hoá quốc tế cần phải biết kết hợp các nhân tố của thị trường quốc tế và mục tiêu của doanh nghiệp nhằm tìm ra một mức giá tối ưu đối với loại sản phẩm hàng hoá dịch vụ đó.

Sau khi đã tiến hành nghiên cứu thị trường trong nước và thị trường quốc tế doanh nghiệp đã nắm được tình hình thực tế của thị trường và bản thân doanh nghiệp trên cơ sở đó lập ra phương án kinh doanh nhằm thực hiện mục tiêu kinh doanh của mình. Để đạt được lợi nhuận tối đa doanh nghiệp cần lập ra phương án tối ưu nhất để đạt được trạng thái mong muốn.

Công việc cần làm trong khâu này là:

+ Phân tích đánh giá tình hình thị trường và nhà cung ứng nước ngoài. Mục tiêu của bước này là thông qua so sánh nhiều thị trường nhà cung ứng để chọn ra một số nhà cung ứng hấp dẫn đối với doanh nghiệp. Trước hết để tiết kiệm thời gian và chi phí cần giới hạn việc đánh giá bằng cách loại bỏ ngay một số thị trường hiển nhân là không hấp dẫn đối với doanh nghiệp vì nhiều nguyên nhân thuộc về bản thân sản phẩm cũng là tiêu chuẩn loại bỏ ngay một số thị trường cung ứng.

Sau khi loại bỏ những thị trường cung ứng hoàn toàn không có triển vọng, các nhà cung ứng còn lại được đánh giá một cách khái quát theo những khía cạnh sau:

- Môi trường chính trị

- Môi trường kinh tế - môi trường văn hoá

- Môi trường cạnh tranh

* Phân tích khả năng của doanh nghiệp

Đứng trước đối thủ cạnh tranh doanh nghiệp cần thiết lập được bản đánh giá tương đối về điểm mạnh và điểm yếu của mình. Một mặt doanh nghiệp có năng lực nào vượt trội, tình trạng hiện tại hoặc tiềm năng của doanh nghiệp như thế nào, nguồn lực mà doanh nghiệp và đối thủ cạnh tranh có thể huy động từ bản thân hoặc từ nguồn nào khác bên ngoài doanh nghiệp.

* Sau khi phân tích khả năng nhà cung ứng và khả năng doanh nghiệp bước tiếp theo là lựa chọn mặt hàng nhập khẩu phù hợp với điều kiện kinh doanh. Mặt hàng này phải đảm bảo đáp ứng được yêu cầu đề ra mà hai bên thoả thuận: giá cả, chất lượng, bao bì đóng gói…

* Xác định đối tượng tiến hành giao dịch bao gồm:

- Địa điểm và thời gian giao dịch

- Tên công ty đại diện giao dịch

- Khối lượng và giá cả giao dịch

- Hình thức giao hàng và phương thức thanh toán

* Xác định thị trường tiêu thụ sản phẩm

Thị trường là tổng thể luôn gồm một số lượng rất lớn các khách hàng với những nhu cầu đặc tính mua và khả năng tài chính rất khác nhau vì vậy doanh nghiệp cần xác định đoạn thị trường để tiêu thụ sản phẩm sao cho có hiệu quả nhất cần chú ý các điểm sau:

- Khách hàng mà doanh nghiệp nhằm vào phải rõ ràng cụ thể

- Phải đo lường được có nghĩa là quy mô và hiệu quả của thị trường phải đo lường được tính khả thi,

- Doanh nghiệp phải nhận biết và phục vụ đoạn thị trường đã phân chia theo tiêu thức nhất định.

* Xác định giá giao dịch

Giá cả hàng hoá nhập khẩu do hai bên tự thoả thuận. Nhưng bên nhập khẩu phải căn cứ vào các yếu tố sau đây để đưa ra mức giá tối thiểu nhằm tối đa hoá lợi ích:

- Phân tích giá hàng hoá cùng chủng loại trên thị trường trong nước và quốc tế tại thời điểm hiện tại hoặc giá cả có thể tham khảo của đối thủ cạnh tranh đã nhập về.

- Giá phải đảm bảo được mục tiêu mà doanh nghiệp đề ra như: mục tiêu lợi nhuận đạt được sau khi trừ các khoản chi phí, thuế…

* Đánh giá hiệu quả mang lại và khắc phục những hạn chế làm giảm hiệu quả kinh doanh

Hàng hoá nhập về kinh doanh trên thị trường kết quả thu được có thể lỗ hoặc lãi do có nhiều yếu tố phát sinh trong quá trình kinh doanh. Sau khi tiêu thụ hàng hoá cuối kỳ cần tổng kết đánh giá hiệu quả kinh doanh, tìm ra những nguyên nhân ảnh hưởng đến tình hình kinh doanh của doanh nghiệp để đề ra các biện pháp khắc phục.

Giao dịch và đàm phán

Về vấn đề giao dịch doanh nghiệp có thể lựa chọn phương thức giao dịch cao cho phù hợp với khả năng của chính bản thân doanh nghiệp. Trong hoạt động ngoại thương các doanh nghiệp thường áp dụng các phương thức giao dịch sau đây:

* Giao dịch thông thường: Tức là những phương thức bán phổ biến nhất, thường thấy nhất. Được chia làm hai loại trực tiếp và qua trung gian.

- Giao dịch trực tiếp: Bên mua và bên bán trực tiếp giao dịch với nhau, việc mua và việc bán không ràng buộc lẫn nhau.

- Giao dịch qua trung gian: Mọi việc thiết lập mối quan hệ giữa người mua và người bán phải thông qua người thứ ba gọi là trung gian gồm có đại lý và môi giới.

* Buôn bán đối lưu: Là một phương thức giao dịch trao đổi hàng hoá, trong đó xuất khẩu kết hợp chặt chẽ với nhập khẩu, người bán đồng thời là người mua. Mục đích của xuất khẩu không phải thu về một khoản ngoại tệ mà thu về một lượng hàng có giá trị tương đường.

* Các phương thức giao dịch đặc biệt:

- Đấu giá quốc tế: Đây là phương thức giao dịch đặc biệt được tổ chức công khai tại một nơi nhất định, tại đó sau khi xem trước hàng hoá, những người đến mua và cạnh tranh giá cả và cuối cùng hàng hoá sẽ được bán cho người nào đó trả giá cao nhất.

Trong buôn bán quốc tế, những mặt hàng đem ra đấu giá thường là những mặt hàng khó tiêu chuẩn hoá.

- Đấu thầu quốc tế: là phương thức giao dịch đặc biệt trong đó người mua (người gọi thầu) công bố trước các điều kiện mua hàng để người bán (người dự thầu) báo giá cả và các điều kiện trả tiền, sau đó người mua sẽ chọn mua của người báo giá rẻ nhất và điều kiện tín dụng phù hợp hơn với những điều kiện mà người mua đã nêu.

* Giao dịch tại Sở giao dịch hàng hoá

Sở giao dịch hàng hoá là một thị trường đặc biệt tại đó thông qua những người môi giới do Sở giao dịch chỉ định, người ta mua các loại hàng hoá có khối lượng lớn, có tính chất đồng loại, có phẩm chất có thể thay thế được nhau.

Sở giao dịch hàng hoá thể hiện tập trung quan hệ cung cầu về mặt hàng giao dịch trong một khu vực, ở một thời điểm nhất định.

* Giao dịch tại hội chợ và triển lãm

Hội chợ là thị trường hoạt động định kỳ, được tổ chức vào một thời gian và ở vào một địa điểm cố định trong một thời hạn nhất định, tại đó người bán đem trưng bày hàng hoá của mình và tiếp xúc với người mua để ký kết hợp đồng mua bán.

Triển lãm là việc trưng bày giới thiệu những thành tựu của một nền kinh tế hoặc một ngành kinh tế, văn hoá, khoa học, kỹ thuật…

b) Đàm phán

Đàm phán là một cuộc đối thoại giữa 2 hoặc nhiều bên về một vấn đề liên quan đến các bên cả quyền lợi và nghĩa vụ đạt đến sự nhất trí giữa các bên. Doanh nghiệp có thể lựa chọn một trong các hình thức đàm phán sau:

- Đàm phán qua thư tín

- Đàm phán qua điện thoại

- Đàm phán trực tiếp

Khi tiến hành đàm phán thông thường các doanh nghiệp phải trải qua các giai đoạn sau:

- Giai đoạn chuẩn bị: giai đoạn này có vai trò hết sức quan trọng nó quyết định quá nửa của cuộc đàm phán. Các công việc phải làm là:

+ Chuẩn bị mục đích

+ Chia các mục tiêu ra các mục tiêu bộ phận

+ Lựa chọn địa điểm đàm phán, thời gian

+ Dự kiến được chương trình đàm phán

+ Đưa ra các kịch bản khác nhau

+ Tìm hiểu điểm mạnh điểm yếu của đối phương

+ Lựa chọn thành viên của đoàn đàm phán

- Giai đoạn thảo luận

Đây là giai đoạn các bên trao đổi ý kiến với nhau về vấn đề quan tâm. Giai đoạn này gồm các công việc sau:

+ Bố trí chỗ ngồi đàm phán

+ Tóm tắt lý do và trao đổi ý đồ

+ Tìm hiểu ý đồ và mục tieu của đối phương

+ Cần xác định người có thực quyền trong đàm phán

+ Trình bày yêu cầu để đối tác hiểu và ghi lại nội dung cuộc đàm phán

- Giai đoạn đề xuất

Đây là giai đoạn các bên đưa ra đề xuất theo mục tiêu của cuộc đàm phán. Các đề xuất này thường có điều kiện khác nhau và các bên thương lượng với nhau theo từng phần từng điểm nhằm đi đến thống nhất. Nội dung của giai đoạn này là đề xuất theo điều kiện. Các đề xuất có liên quan với nhau.

- Giai đoạn thoả thuận

Giai đoạn này các bên nếu thống nhất được các vấn đề thì ký kết hợp đồng nếu không thoả thuận được thì các bên nghỉ ngơi, giải trí để tạo không khí thân thiện các công việc có thể làm trong thời gian nghỉ ngơi là:

+ Đưa ra một số cách tiếp cận mới

+ Thay đoàn làm phán.

Ký kết hợp đồng

Sau khi đàm phán các bên đã thoả thuận thống nhất được các nội dung bước tiếp theo là ký kết hợp đồng. Thủ tục gồm có:

- Xác định người có thẩm quyền ký kết hợp đồng: là cá nhân có tên trong đăng ký kinh doanh hành nghề xuất nhập khẩu hàng hoá hoặc người được uỷ quyền hợp pháp.

- Trình tự ký kết hợp đồng: Chia ra 2 trường hợp:

+ Các bên gặp gỡ trực tiếp: Diễn ra ngắn gọn, đơngiản sau khi đàm phán xong ký vào bản dự thảo hợp đồng thì hợp đồng được coi là đã ký kết.

+ Các bên không gặp gỡ trực tiếp phải trải qua hai giai đoạn:

Giai đoạn đề nghị giao kết hợp đồng giai đoạn này bên đề nghị ký kết phải có đơn đề nghị ký kết hợp đồng. Nội dung đơn không vi phạm các điều cấm của luật pháp.

Giai đoạn chấp nhận đề nghị ký kết hợp đồng: giai đoạn này đòi hỏi các bên phải lưu ý một số quy định của hệ thống hoạt động của các nước. Các điều khoản ra trong hợp đồng cần phải rõ ràng chặt chẽ như: ngôn ngữ sử dụng trong hợp đồng phải được sự thoả thuận giữa hai bên, điều khoản về giá cả, chất lượng, điều khoản giao hàng, thời gian và địa điểm giao hàng…

Thực hiện hợp đồng

Kể từ khi hợp đồng mua bán hàng hoá nhập khẩu được ký kết các bên phải có nghĩa vụ thực hiện hợp đồng đúng như các điều khoản quy định trong hợp đồng. Xét dưới góc độ là người nhập khẩu doanh nghiệp phải tiến hành các bước sau:

* Xin giấy phép nhập khẩu

Giấy phép nhập khẩu là biện pháp để nhà nước quản lý hàng nhập khẩu. Vì thế sau khi ký kết hợp đồng doanh nghiệp phải xin giấy phép nhập khẩu chuyến để thực hiện hợp đồng đó. Mỗi giấy phép chỉ cấp cho một chủ hàng kinh doanh nhập khẩu một số hàng nhất định. Đơn xin phép phải được chuyển đến phòng cấp giấy phép của Bộ Thương mại.

* Tiến hành thủ tục yêu cầu ngân hàng mở L/C. Hành vi này phải được thực hiện phù hợp với hợp đồng đã quy định và trước thời hạn giao hàng khoảng 15 ngày đến 20 ngày, đảm bảo L/C đến tay người bán kịp thời và tạo điều kiện cho người bán có thời gian tiến hành làm thủ tục giao hàng.

* Thuê tàu lưu cước: Việc thuê tàu lưu cước được tiến hành dựa vào 3 căn cứ sau:

- Những điều khoản của hợp đồng.

- Đặc điểm hàng mua bán và điều kiện vận tải

Việc thuê tàu lưu cước đòi hỏi có kinh nghiệm nghiệp vụ, có thông tin về tình hình thị trường và tinh thông các điều kiện thuê tàu. Vì vậy, các công ty thường uỷ thác việc thuê tàu lưu cước cho một công ty hàng hải. Nếu nghĩa vụ thuê tàu thuộc bên nhập khẩu thì phải căn cứ vào khả năng thực tế để thuê tàu đảm bảo tàu đến địa điểm bốc hàng đúng giờ quy định.

* Mua bảo hiểm

Hàng hoá chuyên chở trên biển thường gặp nhiều rủi ro, tổn thất. Vì vậy doanh nghiệp nên cân nhắc tới việc mua bảo hiểm hàng hoá nhằm ngăn ngừa việc phải gánh chịu rủi ro trong quá trình vận chuyển. Để ký kết hợp đồng bảo hiểm, cần nắm vững các điều kiện bảo hiểm: Điều kiện bảo hiểm A

Điều kiện bảo hiểm B

Điều kiện bảo hiểm C

- Làm thủ tục hải quan

Hàng hoá khi đi qua biên giới quốc gia để XNK phải tiến hành làm thủ tục hải quan. Gồm 3 bước:

- Khai báo hải quan

+ Khai báo chi tiết về hàng hoá lên tờ khai

+ Nội dung tờ khai: loại hàng, tên hàng, khối lượng, giá trị, tên công cụ vận tải…

- Xuất trình hàng hoá:

- Thực hiện các quyết định hải quan.

* Nhận hàng:

Các cơ quan vận tải có trách nhiệm tiếp nhận hàng hoá nhập khẩu trên các phương tiện vận tải từ nước ngoài vào, bảo quản hàng hoá đó trong quá trình xếp dỡ, lưu kho, lưu bãi và giao cho các đơn vị đặt hàng theo lệnh giao hàng của doanh nghiệp. Người mua có thể trực tiếp nhận hàng với tàu hoặc nhận hàng qua cảng hay uỷ thác cho người khác thay mặt mình nhận hàng với tàu hoặc cảng.

* Kiểm tra hàng hoá:

Nhận hàng là bước đầu còn việc thừa nhận hàng chỉ có thể xảy ra sau khi đã tiến hành kiểm tra hàng hoá. Về mặt pháp lý nhận hàng không có nghĩa là đã thừa nhận hàng đó. Do đó người mua có trách nhiệm kiểm tra hàng có phù hợp với hợp đồng hay không. Việc kiểm tra hàng hoá phải được kiểm tra khẩn trương và chi tiết ngay khi tàu đến và dỡ hàng khỏi tàu.

* Thanh toán tiền hàng nhập khẩu

Người mua phải thanh toán tiền hàng đầy đủ đúng như quy định trong hợp đồng, như đồng tiền thanh toán, số lượng tiền cần trả, phương thức địa điểm thanh toán… Việc thanh toán có thể tiến hành trước khi nhận hàng song việc này cũng hữu hạn, tuỳ thuộc vào nội dung của điều khoản thanh toán đã quy định trong hợp đồng.

* Khiếu nại

Khi thực hiện hợp đồng nhập khẩu, nếu chủ hàng nhập khẩu phát hiện thấy hàng nhập khẩu bị tổn thất, đổ vỡ, thiếu hụt, mất mát, lần lập hồ sơ khiếu nại ngay để khỏi bỏ lỡ thời hạn khiếu nại.

Đối tượng khiếu nại là người xuất khẩu, bên vận tải, công ty bảo hiểm hàng hoá đơn khiếu nại phải kèm theo những bằng chứng về việc tổn thất, hoá đơn, vận đơn đường biển, đơn bảo hiểm.

0