11/05/2018, 14:41

Nội dung cơ bản của tái sản xuất xã hội

Trong bất cứ xã hội nào, quá trình tái sản xuất cũng bao gồm những nội dung cơ bản sau: Tái sản xuất của cải vật chất, tái sản xuất sức lao động, tái sản xuất quan hệ sản xuất, tái sản xuất môi trường sinh thái. a) Tái sản xuất của cải vật chất Của cải vật chất được sản xuất bao gồm tư ...

Trong bất cứ xã hội nào, quá trình tái sản xuất cũng bao gồm những nội dung cơ bản sau: Tái sản xuất của cải vật chất, tái sản xuất sức lao động, tái sản xuất quan hệ sản xuất, tái sản xuất môi trường sinh thái.

a) Tái sản xuất của cải vật chất

Của cải vật chất được sản xuất bao gồm tư liệu sản xuất và tư liệu tiêu dùng, do vậy tái sản xuất của cải vật chất cũng có nghĩa là tái sản xuất tư liệu sản xuất và tư liệu tiêu dùng. Trong đó, việc tái sản xuất tư liệu sản xuất có ý nghĩa quyết định đối với tái sản xuất tư liệu tiêu dùng. Tái sản xuất tư liệu sản xuất ngày càng được mở rộng và phát triển, thì càng tạo điều kiện cho việc mở rộng và phát triển tư liệu tiêu dùng. Việc tái sản xuất tư liệu tiêu dùng lại có ý nghĩa quyết định đối với tái sản xuất sức lao động của con người – lực lượng sản xuất hàng đầu của xã hội.

Việc tính toán, đánh giá kết quả tái sản xuất của cải vật chất của xã hội được xem xét trên cả hai mặt: hiện vật và giá trị. Nó được phản ánh qua các chỉ tiêu như: Tổng sản phẩm xã hội, tổng sản phẩm quốc dân (GNP) và tổng sản phẩm quốc nội (GDP). Chẳng hạn, tổng sản phẩm xã hội xét về mặt hiện vật, nó bao gồm toàn bộ tư liệu sản xuất và tư liệu tiêu dùng; xét về mặt giá trị, nó bao gồm bộ phận giá trị tư liệu sản xuất bị tiêu dùng trong sản xuất và bộ phận giá trị mới ( giá trị sức lao động và giá trị sản phẩm thặng dư do sức lao động tạo ra). Nếu ký hiệu: C là giá trị tư liệu sản xuất, V là trị sức lao động, M là giá trị của lao động thặng dư, thì công thức ký hiệu giá trị của tổng sản phẩm xã hội sẽ là: C + V + M.

Sự tăng lên của tổng sản phẩm xã hội hay GNP, GDP phụ thuộc vào các nhân tố tăng quy mô và hiệu quả sử dụng các nguồn lực như tăng khối lượng lao động và tăng năng suất lao động, trong đó tăng năng suất lao động là yếu tố vô hạn, là quy luật kinh tế chung cần được coi trọng trong quá trình tái sản xuất xã hội.

b) Tái sản xuất sức lao động

Cùng với quá trình tái sản xuất của cải vật chất, sức lao động của xã hội cũng không ngừng được tái tạo. Trong các hình thái kinh tế – xã hội khác nhau, ở từng thời kỳ nhất định, việc tái sản xuất sức lao động có sự khác nhau, sự khác nhau này do trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, trong đó có ý nghĩa quyết định là bản chất của quan hệ sản xuất thống trị.

Sự phát triển của lực lượng sản xuất, khoa học và công nghệ gắn với tiến bộ xã hội trong lịch sử đã làm cho sức lao động được tái sản xuất ngày càng tăng cả về số lượng và chất lượng.

Tái sản xuất sức lao động về mặt số lượng chịu sự chi phối của nhiều điều kiện khác nhau, trước hết là sự chi phối bởi quy luật nhân khẩu của mỗi hình thái kinh tế – xã hội nhất định. Quy luật này yêu cầu phải bảo đảm sự phù hợp giữa nhu cầu và khả năng cung ứng sức lao động của quá trình tái sản xuất xã hội, nó chịu sự tác động của các nhân tố:

– Tốc độ tăng dân số và lao động.

– Xu hướng thay đổi công nghệ, cơ cấu, số lượng và tính chất của lao động (thủ
công hay cơ khí, tự động hoá).

– Năng lực tích luỹ vốn để mở rộng sản xuất của mỗi quốc gia trong từng thời kỳ
nhất định…

Tái sản xuất sức lao động về mặt chất lượng thể hiện ở việc tái sản xuất ra thể lực và trí lực của người lao động qua các chu kỳ sản xuất. Tái sản xuất về mặt chất lượng sức lao động phụ thuộc vào các nhân tố như: mục đích của nền sản xuất xã hội, chế độ phân phối sản phẩm và địa vị của người lao động; sự tác động của cách mạng khoa học và công nghệ; chính sách giáo dục và đào tạo của mỗi quốc gia trong từng thời kỳ nhất
định.

c) Tái sản xuất ra quan hệ sản xuất

Sản xuất và tái sản xuất chỉ có thể diễn ra trong những quan hệ sản xuất nhất định. Vì vậy, đồng thời với quá trình tái sản xuất ra của cải vật chất và sức lao động là tái sản xuất ra quan hệ sản xuất.

Tái sản xuất ra quan hệ sản xuất là quá trình phát triển, củng cố và hoàn thiện các
quan hệ giữa người với người về sở hữu tư liệu sản xuất, về quan hệ quản lý và quan hệ phân phối sản phẩm, làm cho quan hệ sản xuất thích ứng với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.

d) Tái sản xuất môi trường sinh thái

Sản xuất và tái sản xuất bao giờ cũng diễn ra trong một môi trường sinh thái nhất định. Do vậy, môi trường sinh thái trở thành nhân tố quan trọng không chỉ đối với quá trình tái sản xuất, mà còn đối với điều kiện sống của con người. Bởi vì, trong quá trình khai thác tự nhiên để tái sản xuất ra của cải vật chất và tái sản xuất sức lao động, con người làm cạn kiệt nguồn lực tự nhiên, vi phạm những quy luật tự nhiên, phá huỷ sự cân bằng sinh thái. Mặt khác, do hậu quả của chiến tranh, chạy đua vũ trang, thử nghiệm vũ khí, loài người đang gây tổn hại đến môi trường sinh thái một cách nghiêm trọng. Vì vậy, việc bảo vệ và tái sản xuất ra môi trường sinh thái (khôi phục và tăng thêm độ màu mỡ của đất đai, làm sạch nguồn nước và không khí…) để bảo đảm cho sự phát triển ổn định và bền vững của mỗi quốc gia, của cả loài người trở thành nội dung tất yếu của tái sản xuất, phải được đặt ra trong chính sách đầu tư và trong luật pháp của các nước.

0