24/05/2018, 22:50

Những vấn đề lý luận cơ sở về hoạt động huy động vốn cho sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp

Để kinh doanh, trước hết cần có vốn, vốn đầu tư ban đầu và vốn bổ sung để mở rộng sản xuất, kinh doanh. Vốn kinh doanh được hình thành từ nhiều nguồn vốn khác nhau. Căn cứ vào nguồn hình thành vốn, người ta cũng phân chia xí nghiệp theo nhiều loại khác ...

Để kinh doanh, trước hết cần có vốn, vốn đầu tư ban đầu và vốn bổ sung để mở rộng sản xuất, kinh doanh. Vốn kinh doanh được hình thành từ nhiều nguồn vốn khác nhau. Căn cứ vào nguồn hình thành vốn, người ta cũng phân chia xí nghiệp theo nhiều loại khác nhau. Các nguồn hình thành vốn bao gồm: Vốn do nhà nước cấp (vốn NSNN) vốn do chủ kinh doanh bỏ ra, vốn liên doanh và vốn huy động. Việc bảo toàn và phát triển vốn được thực hiện bằng các nguồn doanh thu bán hàng hoặc cung cấp dịch vụ (khấu hao và hoàn vốn lưu động) và từ các nguồn huy động bổ sung khác. Nói chung, ở mỗi xí nghiệp, các nguồn vốn không đồng nhất, mà rất đa dạng và phong phú. Do đó khái niệm các loại xí nghiệp được hình thành căn cứ vào nguồn vốn chỉ có ý nghĩa tương đối.

Vốn NSNN được cấp phát cho các xí nghiệp của nhà nước. Trước đây nguồn vốn này rất lớn và chiếm phần quan trọng trong tổng số chi ngân sách của chính phủ. Với chính sách mở rộng hoạt động của các thành phần kinh tế và đổi mới cơ chế quản lý tài chính đối với khu vực kinh tế quốc dân, nguồn vốn cấp phát của NSNN cho đầu tư XDCB sẽ được thu hẹp về tỷ trọng và khối lượng. Nguồn vốn bổ sung hoặc hoàn bù của các xí nghiệp quốc doanh cũng được huy động từ nền kinh tế mà cấp phát từ NSNN như trước đây.

Thực tiễn hơn 11 năm đổi mới vừa qua cho thấy, vấn đề bức xúc của doanh nghiệp nước ta thiếu vốn để trang bị và đổi mới những công nghệ hiện đại. Mặt khác, hiệu quả sử dụng đồng vốn cũng chưa cao, đặc biệt là các doanh nghiệp trong lĩnh vực công nghiệp. Trong nhiều năm trước đây do cơ chế tập trung quan liêu bao cấp chi phối, nên quá trình tích tụ và tập trung vốn trong công nghiệp không được quan tâm đẩy mạnh.

Điều đó do một số nguyên nhân:

  • Tỷ lệ giữa tiêu dùng và đầu tư ở các xí nghiệp quốc doanh trong lĩnh vực công nghiệp đã không dưạ vào yêu cầu phát triển của lực lượng sản xuất, cũng không dựa vào hiệu quả kinh tế mà chỉ dựa vào các chỉ thị kế hoạch khô cứng, vì thế quá trình tích tụ, tập trung vốn đã không được đẩy mạnh.
  • Việc tái đầu tư đôi khi chưa được tính toán kỹ về hiệu quả kinh tế, quá trình tập trung vốn nhiều khi mang nặng tính chất hình thức. Tuy nhiên phải thừa nhận rằng cơ chế tập trung quan liêu bao cấp cho phép chúng ta tập trung vốn một cách nhanh chóng và có hiệu quả để xây dựng các công trình trọng điểm quy mô lớn. Thực ra, ngay từ xa xưa các nhà kinh tế đã đánh giá cao vai trò của vốn đối với sự phát triển kinh tế của một quốc gia. Chẳng hạn, luận điểm: "Lao động là cha, đất đai là mẹ" của mọi của cải vật chất đã được nhà kinh tế học người Anh Uyliam Petty đưa ra từ thế kỷ XVI. Điều đó chứng tỏ rằng, ngay từ khi đó người ta đã nhận thức rõ những yếu tố cơ bản để tạo ra mọi của cải cho xã hội, đó là nguồn lực con người và đất đai, tài nguyên thiên nhiên. Kế thừa những tư tưởng của các nhà kinh tế cổ điển, Mác đã trình bày quan điểm của mình về vai trò của vốn qua các học thuyết: Tích lũy, tuần hoàn và chu chuyển, tái sản xuất tư bản xã hội, học thuyết địa tô... Đặc biệt là Mác đã chỉ ra nguồn gốc chủ yếu của vốn tích lũy là lao động thặng dư do những người lao động đặt ra, và nguồn vốn đó khi đem vào việc mở rộng và phát triển sản xuất thì nó vận động như thế nào. Khi nghiên cứu nền sản xuất TBCN, Mác đã tìm thấy qui luật vận động của tư bản (vốn) mà qui luật này nếu ta trừu tượng những biểu hiện cụ thể về mặt xã hội thì sẽ thấy một điều bổ ích bằng công thức

Công thức đó đã chỉ ra rằng, bất kỳ một nhà doanh nghiệp nào muốn thực hiện quá trình sản xuất kinh doanh cũng đều phải trải qua 3 giai đoạn: Mua - Sản xuất - Bán hàng. Và điều quan trọng đối với mỗi người sản xuất, mỗi doanh nghiệp chính là phải biết phân bổ một cách hợp lý các yếu tố của tiền vốn, đầu tư nhằm tạo ra nhiều của cải cho mỗi cá nhân, mỗi doanh nghiệp và cả xã hội. Công thức đó cũng chỉ ra rằng trong dòng chảy liên tục của dòng vốn đầu tư nếu như hình thái nào trong ba hình thái trên chưa đi vào chu trình vận động liên tục của các hoạt động sản xuất kinh doanh, trong trường hợp như vậy thì đồng vốn đó vẫn ở dạng tiềm năng chính nó chưa đem lại những lợi ích thiết thực cho mỗi cá nhân, mỗi doanh nghiệp và toàn xã hội. Tích lũy vốn (tư bản) theo Mác là: "Sử dụng giá trị thặng dư làm tư bản, hay chuyển hoá giá trị thặng dư trở lại thành tư bản...". Từ những phân tích khoa học chặt chẽ với những luận cứ xác đáng Mác đã chỉ ra bản chất của quá trình tích lũy vốn trong các doanh nghiệp TBCN: "Một khi kết hợp được với sức lao động và đất đai tức là hai nguồn gốc đầu tiên của của cải, thì tư bản có một sức bành trướng cho phép nó tăng những yếu tố tích lũy của nó lên quá những giới hạn mà bề ngoài hình như là do lượng của bản thân tư bản quyết định, nghĩa là do giá trị và khối lượng của những tư liệu sản xuất đã được sản xuất ra quyết định".

Yêu cầu khách quan của tích lũy vốn đã được Mác khẳng định do những nguyên nhân sau "Cùng với sự phát triển của phương thức sản xuất TBCN thì qui mô tối thiểu mà một tư bản cá biệt phải có để có thể kinh doanh, trong điều kiện bình thường cũng tăng lên. Vì vậy, những tư bản nhỏ hơn cứ đổ xô vào những lĩnh vực sản xuất mà nền công nghiệp lớn chỉ mới nắm một cách lẻ tẻ hay chưa nắm hoàn toàn. Cạnh tranh ở đây sôi sục theo tỷ lệ thuận với số lượng những tư bản kình địch với nhau và theo tỷ lệ nghịch với đại lượng của các tư bản đó...Ngoài điều đó ra, một lực lượng hoàn toàn mới đã phát triển lên cùng với nền sản xuất TBCN, đó là tín dụng.

Từ đó, Mác khẳng định: "Sự cạnh tranh bắt buộc nhà tư bản, nếu muốn duy trì tư bản của mình thì phải làm cho tư bản ngày càng tăng thêm và hắn không thể naò tiếp tục làm cho tư bản đó ngày một tăng lên được, nếu không có một sự tích lũy ngày càng nhiều thêm".

Một số nhà kinh tế học khác cũng bàn về vốn và tích lũy vốn trong nền kinh tế, mà tiêu biểu là cuốn "Kinh tế học" của Paul A. Samuelson. Ông viết: "Hàng tư bản do bản thân hệ thống kinh tế sản xuất để được sử dụng làm đầu vào của sản xuất để làm ra hàng hoá dịch vụ. Các hàng tư bản lâu bền này, vừa là đầu ra, vừa là đầu vào, có thể tồn tại một thời gian dài hoặc một thời gian ngắn. Chúng có thể được cho thuê trên thị trường có tính cạnh tranh như cho thuê những mẩu đất hoặc những giờ lao động. Tiền trả cho việc sử dụng tạm thời những hàng tư bản gọi là tiền cho thuê". Ông còn cho rằng thực chất của tích lũy chính là chúng ta thường chịu bỏ tiêu dùng hiện nay để tăng tiêu dùng cho tương lai. Như vậy xã hội đầu tư, hay nhịn tiêu dùng hiện tại, mà chờ để thu được lợi tức do đầu tư đó tạo ra.

Một nhà nghiên cứu kinh tế người Hàn Quốc tên là Sang Sung Part từ thực tế kinh tế của Hàn Quốc cùng một số tài liệu nghiên cứu của các nước đang chậm phát triển, ông đã so sánh với nhiều nước phát triển và đi đến kết luận được nhiều người chấp nhận là "Các nước đang phát triển có rất ít khả năng sản xuất tư liệu sản xuất, đặc biệt là máy móc thiết bị, nhất là trong giai đoạn đầu của thời kỳ phát triển một nền kinh tế tự cấp, tự túc. Tiết kiệm bằng tiền của người tiêu dùng sẽ là quá ít ỏi để có thể đầu tư ở những nơi còn chưa có khả năng sản xuất ra tư liệu sản xuất".

Từ nhận định trên Sang Sung Part đã định nghĩa về vốn và tổng số vốn như sau: "Dưới dạng tiền tệ, vốn được định nghĩa là khoản tích lũy, là phần thu nhập thường có chưa được tiêu dùng. Về mặt hiện vật, vốn được chia thành hai phần: vốn cố định và vốn tồn kho, là các tư liệu sản xuất được sản xuất bằng hiện vật được sản xuất trong khu vực sản xuất hay được nhập khẩu".

Và "Tổng số vốn tích lũy còn được gọi là tài sản quốc gia, được tích lũy từ lượng sản phẩm vật chất hiện có và được trực tiếp sử dụng vào quá trình sản xuất hiện tại, không kể tài nguyên thiên nhiên như đất đai và hầm mỏ vì nó không được tạo ra các hoạt động đầu tư. Cơ sở hạ tầng được gọi là vốn sản xuất không thể thiếu đối với việc nâng cao tổng lượng sản phẩm vật chất". Qua đó chúng ta rút ra một số nhận xét theo quan niệm về vốn của Sang Sung Part:

  • Một là: Vốn không chỉ biểu hiện bằng hiện vật hoặc dưới dạng tiền tệ.
  • Hai là: Trong nền kinh tế thị trường, vốn không chỉ là những lượng tiền mặt nhất định trực tiếp đầu tư sinh lợi nhuận mà còn là giá trị của những tài sản hữu hình và vô hình tham gia vào các quá trình sản xuất.
  • Ba là: Tiền chỉ là vốn nếu nó được tích lũy có mục đích đầu tư sinh lợi và cũng chỉ trở thành vốn đầu tư để phát triển kinh tế nếu như trong nền kinh tế đó có đủ khả năng để sản xuất ra tư liệu sản xuất, có đủ khả năng chuyển đổi các khoản tiền tiết kiệm thành những tư liệu sản xuất trên thị trường trong nước và quốc tế.

Vốn biểu hiện bằng tiền là nguồn vốn linh hoạt nhất, nhưng phải là tiền vận động đi vào sản xuất công nghiệp một cách có hiệu quả.

Mặc dù mỗi trường phái, mỗi nhà kinh tế học, ở mỗi thời kỳ lịch sử có những quan niệm, phân tích, kết luận về vốn riêng, song chúng ta có thể rút ra khái niệm về vốn trên cơ sở kế thừa một số các học thuyết kinh tế cuả các nhà kinh tế học từ xưa đến nay như sau:

  • Phạm trù vốn phải được hiểu theo nghĩa rộng gồm toàn bộ các nguồn lực kinh tế khi được đưa vào chu chuyển. Nó không chỉ bao gồm tiền vốn các tài sản hiện vật như máy móc, vật tư, lao động, tài nguyên, đất đai... mà còn bao gồm giá trị của những tài sản cấu hình như vị trí của đất đai, các thành tựu khoa học và công nghệ...
  • Vốn hiểu theo nghĩa trực tiếp là phần giá trị tài sản quốc gia được tích lũy dưới dạng tiền và giá trị của tài sản hữu hình và vô hình n nhằm mục đích sinh lợi, được chuyển đổi thông qua các hoạt động đầu tư thành những tư liệu sản xuất và các phương tiện sản xuất cần thiết khác để sử dụng vào quá trình đầu tư cho nền kinh tế.
  • Vốn trong nước là toàn bộ những yếu tố cần thiết để cấu thành quá trình sản xuất, được hình thành nên từ nguồn lực kinh tế và sản phẩm thặng dư của nhân dân lao động trong một quốc gia.

Như vậy, cùng với quan niệm về vốn của kinh tế chính trị Mác xít, các nhà kinh tế học hiện đại mà tiêu biểu là Paut A. Samuelson cũng đã nghiên cứu về vốn dưới các góc độ khác nhau, nhưng tất cả những sự nghiên cứu đó chỉ làm rõ thêm bức tranh toàn cảnh về vốn mà Mác đã phát triển từ lâu.

Để đạt được mục tiêu tích lũy vốn cao thì vấn đề tiếp theo là phải xác định được mức tích lũy vốn trong GDP cần hướng tới trong từng giai đoạn phát triển của nền công nghiệp. Ứng với mỗi mục tiêu khác nhau thì mức tích lũy vốn trong nước thường khác nhau, vấn đề là phải xác định được mức tích lũy vốn chiếm tỷ lệ bao nhiêu trong GDP sẽ quyết định quá trình tích tụ và tập trung của các doanh nghiệp. Kinh nghiệm của nhiều quốc gia cho thấy muốn đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế thì tỷ lệ tích lũy vốn trong nước thường phải chiếm 3% trong GDP.

0