24/05/2018, 15:40

Những vấn đề cơ bản về xuất khẩu hàng Thủ công mỹ nghệ

Các ngành công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công nghiệp đang thu hút được nhiều lao động chính nhờ tận dụng được lợi thế so sánh hiện nay của Việt Nam. Phần lớn các nước Đông Nam á cũng đã thu được những thành tựu rực rỡ và tạo lên cái gọi là ...

Các ngành công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công nghiệp đang thu hút được nhiều lao động chính nhờ tận dụng được lợi thế so sánh hiện nay của Việt Nam. Phần lớn các nước Đông Nam á cũng đã thu được những thành tựu rực rỡ và tạo lên cái gọi là “điều kỳ diệu Đông á” nhờ vào cơ chế mở cửa. Để nối tiếp những thành công của các nước trong khu vực, quá trình công nghiệp hoá đang diễn ra nhanh chóng tại Việt Nam cần phải đi theo hướng mở hay định hướng xuất khẩu, đặc biệt là thúc đẩy xuất khẩu các sản phẩm chế biến dựa trên những lợi thế so sánh của mình.

Theo như lời của nhà kinh tế học người Anh, Davi Ricardo, một nước không nên sản xuất tất cả mọi sản phẩm mà chỉ lên sản xuất tập trung vào một số sản phẩm có “chi phí thấp hơn”, do đó có điều kiện sản xuất “thuận lợi hơn”, rồi dùng những sản phẩm đó để trao đổi lấy những sản phẩm khác mà mình có chi phí sản xuất cao hơn. Ngày nay, căn cứ vào điều kiện sản xuất, có thể chia thành hai nhóm quốc gia có lợi thế so sánh:

  • Nhóm có lợi thế về nguồn lao động, tư liệu sản xuất và yếu tố tự nhiên.
  • Nhóm có lợi thế về vốn, khoa học và công nghệ.

Trong đó, Việt Nam là nước thuộc nhóm quốc gia có lợi thế so sánh thứ nhất. Đặc biệt là về hàng thủ công mỹ nghệ của nước ta, sản phẩm được sản xuất chủ yếu bằng nguồn nguyên liệu sẵn có trong nước, nguyên phụ liệu nhập khẩu không đáng kể, chỉ chiếm khoảng 3%-5% (trừ thảm len). Vì vậy, lượng ngoại tệ thu được từ xuất khẩu mặt hàng thủ công mỹ nghệ khá cao, chiếm từ 90%-95%. Với tiềm năng dồi dào về nguyên liệu, lao động, đội ngũ nghệ nhân và thợ thủ công, việc phát triển sản xuất kinh doanh hàng thủ công mỹ nghệ là một thuận lợi lớn của nước ta, nhất là khi thị trường nước ngoài khá thích thú với mặt hàng này của nước ta và đã đặt mua hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam. Được sự tín nhiệm của khách hàng như vậy cũng là do nước ta có truyền thống dân tộc lâu đời, có một lền văn hoá riêng biệt với những sản phẩm mang đậm chất con người Việt Nam.

Lợi thế về tài nguyên:

Nước ta là một nước nhiệt đới, chủng loại thực vật phong phú, do đó hầu hết các nguyên liệu đầu vào đều có sẵn có trong nước cho ngành thủ công mỹ nghệ như : lá buông thì có ở Khánh Hoà, mây tre thì có ở Chương Mỹ, cói ở Ninh Bình....,không giống như một số ngành nghề khác phải nhập nguyên liệu từ nước ngoài với các khoản chi phí cao, làm cho giá thành cao. Do đó khó bán được sản phẩm và lợi nhuận sẽ giảm. Ngược lại, ngành thủ công mỹ nghệ do không phải nhập nguyên vật liệu, nên chi phí dành cho sản xuất giảm xuống đáng kể, giá thành sản phẩm cũng vì thế mà ở mức độ phù hợp với người tiêu dùng mà vẫn thu được lợi nhuận cao.

Lợi thế về thị trường lao động

Hiện nay dân số nước ta khoảng 84 triệu người, trong đó gần 70% dân số sống bằng nghề nông nghiệp. Cho nên, nnước ta có một nguồn lao động khá dồi dào và cũng dư thừa về nhân công. Mặt khác, các làng nghề thủ công mỹ nghệ lại tập trung hầu hết ở vùng nông thôn như : mây tre đan có ở làng Phù Yên, huyện Chương Mỹ, tỉnh Hà Tây; làng tơ tằm nhuộm có ở làng Triều Khúc, thanh Trì, hà Nội; hàng mỹ nghệ bằng lá buông có ở xã Tân An, huyện Hàm Tân, tỉnh Bình Thuận,…nên viêc thuê nhân công không phảI là vấn đề quá khó khăn.

Nước ta vừa chuyển đổi nền kinh tế từ bao cấp sang nền kinh tế thị trường, nên mức sống ở các vùng nông thôn còn khá thấp, do đó nhu cầu về việc làm ở nông thôn là rất cao. Đặc biệt là những ngày nông nhàn khi ngày mùa đã qua thì nhu cầu này tăng lên một cách đáng kể. Mà ngành thủ công mỹ nghệ có đặc trưng là các sản phẩm được làm ra từ những bàn tay khéo léo, cần cù của những người dân lao động. Chính vì vậy, mà ngành nghề này thu hút được rất nhiều lao động, giảm được một phần tương đối trong những lao động nông nhàn. Theo như ước tính của các nhà chuyên môn, cứ 1 triệu USD hàng thủ công mỹ nghệ xuất khẩu thì sẽ tạo được việc làm cho khoảng 3-4 ngàn lao động, chủ yếu là lao động nông thôn.

Bên cạnh đó, giá thuê nhân công ở nước ta có thể nói là rẻ nhất so với các nước khác trong khu vực và cả trên thị trường thế giới. Hàng thủ công mỹ nghệ lại là mặt hàng hiện nay đang được tiêu thụ khá tốt ở nhiều nước, đặc biệt là các nước phát triển như Nhật Bản, EU, ..vì các nước này đã chuyển sang sản xuất những hàng hoá công nghiệp.

Với những lợi thế trên, nước ta đã có một nền tảng khá vững chắc cho việc phát triển xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ sang các nước trong khu vực và trên cả thế giới, để cho thế giới biết đến con người, văn hoá Việt Nam.

Sau khi Liên Xô cũ tan rã, thị trường xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ lớn nhất của chúng ta lúc đó cũng bị đình đốn theo. Nhằm khôi phục lại ngành nghề này, ngày 15/05/2000, Bộ Thương mại đã trình Chính Phủ phê duyệt đề án xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ, thắp lên niềm hy vọng mới cho các nghệ nhân, nhằm gìn giữ một nét văn hoá Việt và tạo cơ hội cho các nhà kinh doanh trẻ muốn đưa văn hoá Việt xuất ngoại để bạn bè thế giới biết tới.

Mất khoảng gần 10 năm vật lộn với sóng gió, thăng trầm, có những lúc tưởng chừng như ngành nghề thủ công mỹ nghệ đã bị mai một, song từng bước ngành nghề truyền thống này của nước ta lại được phục hồi. Năm 1998 kim ngạch xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ đạt 112 triệu USD thì đến năm 2000 đã tăng 235 triệu USD (tăng gấp 2,3 lần), trong khi kim ngạch xuất khẩu chung của cả nước chỉ tăng có 2 lần. Với kết quả đó, hiện nay hàng thủ công mỹ nghệ được xếp vào 10 nhóm hàng đạt kim ngạch xuất khẩu lớn (trên 100 triệu USD/năm). Các chuyên gia kinh tế còn dự báo trong thời gian tới, nhu cầu về hàng thủ công mỹ nghệ trên thị trường trong nước và trên thế giới sẽ ngày càng tăng, lượng tiêu dùng sẽ lớn hơn. Và dự kiến kim ngạch xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của ta hết năm 2005 sẽ đạt khoảng 1,5 tỷ USD/năm. Và dự báo tới năm 2010, thì kim ngạch xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ có thể sẽ đạt tới 3 - 4 tỷ USD/năm. Với những con số trên đã cho ta thấy một bước mở đầu khôi phục khá khả quan của ngành nghề thủ công mỹ nghệ Việt Nam

Với những dấu hiệu trên, một điều cho chúng ta thấy rằng ngành nghề thủ công mỹ nghệ của chúng ta đang được khôi phục dần. Chính điều này đã giúp cho Việt Nam giữ được một ngành nghề truyền thống đặc sắc không bị mai một, mặt khác nó còn giải quyết được công ăn việc làm và tạo thu nhập cho người lao động. Mà công việc và thu nhập của người lao động của nước ta đang trong tình trạng thừa lao động nhưng lại thiếu việc và vốn dĩ đây là một vấn đề vô cùng lan giải.

Có thể lấy một ví dụ về làng nghề truyền thống mây tre đan ở Phù Yên, xã Trường Yên, huyện Chương Mỹ, tỉnh Hà Tây chỉ vài năm trước đây, nhiều hộ dân trong làng còn phải lo chạy vạy từng bữa gạo. Vậy mà bây giờ, đường làng ngõ xóm được bê tông hoá kiên cố, nhiều nhà tầng được xây dựng nên, những thanh niên đã từng bỏ làng đi xa lập nghiệp làm ăn nay thấy quê hương đổi mới và làng nghề truyền thống được khôi phục đã quay trở về. Chỉ với nghề mây tre đan cũng đã tạo được công ăn việc làm ổn định cho trên 1300 lao động trong và ngoài xã, với mức thu nhập khoảng 700.000-800.000 ngàn đồng/người/tháng. Với ví dụ nói trên, phần nào đó đã cho thấy được thế mạnh riêng của ngành thủ công mỹ nghệ, khôi phục lại được một ngành nghề không chỉ là khôi phục lại cuộc sống của một làng nghề, khôi phục lại cuộc sống của nhũng người dân vốn sống dựa vào nghề truyền thống, mà còn thu hút được một lượng lao động lớn.

Hiện nay, nước ta có một nguồn lao động dư thừa khá lớn ở các vùng nông thôn, các làng nghề. Nhưng vấn đề này đã và đang được tháo gỡ dần khi những ngành nghề truyền thống được khôi phục lại. Bộ mặt nông thôn Việt Nam đang dần được đổi mới bằng chính công sức của những người dân lao động nơi đây, nó đã góp phần vào vai trò phát triển đất nước.

Nước ta đang trong quá trình hội nhập với nền kinh tế trong khu vực và trên thế giới, công cuộc công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước được đặt lên hàng đầu. Trong đó, cần thiết phải công nghiệp hoá - hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn, khôi phục các ngành nghề truyền thống là một chính sách đúng đắn của Đảng và Nhà nước nhằm gìn giữ nét văn hoá truyền thống của đất nước ta. Ngành nghề thủ công mỹ nghệ đã góp phần trong vai trò này, bởi thông qua các sản phẩm thủ công mỹ nghệ, thu nhập của phần lớn nông dân tăng lên, đồng thời nền văn hoá Việt Nam đã được thế giới biết đến. Mặt khác, việc xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ còn tạo được nguồn thu ngoại tệ để phát triển đất nước. Thị hiếu của thế giới hiện nay đang có xu hướng chuộng hàng thủ công mỹ nghệ, đặc biệt là của nước ta. Họ quý trọng và ưa thích những sản phẩm thủ công mỹ nghệ tinh tế được thủ công hơn là những sản phẩm được sản xuất ra hàng loạt bởi các thiết bị bằng máy móc hiện đại.

Thúc đẩy xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ, điều này không chỉ có ý nghĩa kinh tế mà quan trọng hơn là ý nghĩa xã hội. Bởi nhờ đó mà sản xuất phát triển, tạo công ăn việc làm, góp phần xoá đói giảm nghèo, mang lại thu nhập ngày càng khá hơn cho những người lao động, nâng cao đời sống của những người dân lao động lên một tầm cao mới.

Trong những năm đầu, tình hình xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ nước ta cũng khá thăng trầm. Năm 1985, giá trị xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của nước ta đạt 250 triệu rúp/USD, chiếm 23,7% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Thị trường lúc đó chủ yếu là các nước thuộc Liên Xô cũ và khu vực Đông Âu. Từ năm 1990 trở lại đây, khi thị trường này bị mất, chưa tìm được thị trường mới, cộng vào đó là việc chuyển đổi cơ cấu kinh tế trong nước đã làm cho nghề thủ công mỹ nghệ đặc biệt là nghề mây tre đan xuất khẩu điêu đứng và lụi tàn dần. Sau gần 7 năm vật lộn để tồn tại, từng bước nghề thủ công mỹ nghệ đã lại được phục hồi nhưng tình hình lúc đó cũng chưa lấy gì làm khả quan cho lắm bởi vẫn chưa có được thị trường ổn định.

Kim ngạch xuất khẩu mặt hàng thủ công mỹ nghệ trong những năm gần đây có chiều hướng tăng lên, do số lượng các doanh nghiệp tham gia xuất khẩu mặt hàng này tăng lên. Theo báo cáo của Bộ Thương mại, năm 1998 kim ngạch xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ đạt 112 triệu USD thì đến năm 2000 đã tăng 235 triệu USD (tăng gấp 2,3 lần), trong khi kim ngạch xuất khẩu chung của cả nước chỉ tăng có 2 lần. Với kết quả đó, hiện nay nhóm hàng thủ công mỹ nghệ được xếp trong 10 nhóm hàng đạt kim ngạch xuất khẩu lớn (trên 100 triệu USD/năm).

Riêng về hàng mây tre đan và thêu ren kim ngạch xuất khẩu mặt hàng này đạt 102 triệu USD (từ năm 1999 – 2003 ), chiếm 13,4% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam. Đến năm 2005, ước tính hết năm hàng mây tren đan và thêu ren đạt kim ngạch xuất khẩu khoảng 185 triệu USD, chiếm khoảng 15% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ. Ngoài ra, các mặt hàng khác như : sơn mài, thổ cẩm, cói, hàng khác … phát triển cũng không kém, doanh thu hàng năm của các hàng trên cũng rất cao chiếm khoảng 8% kim ngạch xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ.

Thị trường xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ trong thời gian qua của Trung tâm, chủ yếu là ở Châu á, chiếm 62,5% tổng kim ngạch trong đó Nhật Bản chiếm đa số và là thị trường chính nhất, kế đó là Đài Loan, Singapo, .. Và thị trường Châu ÂU đứng thứ nhì (chiếm 21,9% tổng kim ngạch).

0