24/05/2018, 23:18

Những thách thức và khó khăn có liên quan trong việc xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam

Việc bán phá giá đang diễn ra ngày càng nhiều ở hầu hết các quốc gia kể cả các quốc gia phát triển và đang phát triển. Mặc dù là nước đang phát triển ở trình độ thấp, nhưng vài năm trở lại đây hàng hoá của Việt Nam đã dần thâm nhập vào các thị trường khác ...

Việc bán phá giá đang diễn ra ngày càng nhiều ở hầu hết các quốc gia kể cả các quốc gia phát triển và đang phát triển. Mặc dù là nước đang phát triển ở trình độ thấp, nhưng vài năm trở lại đây hàng hoá của Việt Nam đã dần thâm nhập vào các thị trường khác nhau và các doanh nghiệp Việt Nam cũng đã bị nước ngoài tiến hành điều tra bán phá giá tới 8 lần (tính từ 1994 - 2002). Trong số 8 vụ các doanh nghiệp Việt Nam bị áp đặt thuế chống phá giá. Vụ kiện bán phá giá cá tra, các ba - sa của Việt Nam tại Mỹ (năm 2002) được coi là một vụ kiện có quy mô lớn và có rất nhiều áp đặt bất công từ phía Mỹ. Các ngành đã từng bị kiện phá giá của Việt Nam là tỏi, giày dép, bột ngọt, cá tra, cá basa, bật lửa gas.

Canada kiện Việt Nam hai vụ liên quan tới giày dép và tỏi. Thuế chống phá giá áp dụng cho tỏi của Việt Nam là 1,48 CAĐ/kg.

EU kiện Việt Nam hai vụ liên quan tới giày dép và bột ngọt. Mức thuế chống phá đối với bột ngọt là 16,8%. Riêng đối với mặt hàng giày dép, EU đã không đánh thuế chống bán phá giá đối với Việt Nam vì tốc độ tăng trưởng xuất khẩu của Việt Nam thấp hơn các quốc gia khác là Trung Quốc, Inđônêxia và Thái Lan.

Ba Lan kiện Việt Nam một vụ về bật lửa gas. Thuế chống phá giá là 0,09 EUR/chiếc.

Mỹ kiện Việt Nam một vụ về cá tra, cá basa. Thuế chống phá giá áp đặt cho Việt Nam từ 38% đến 64%. Phương thức mà Hiệp hội cá tra, cá ba sa (CFA) của Mỹ đã thực hiện trong vụ tranh chấp với Việt Nam có thể tóm tắc như sau:

  • Trước hết, CFA đã gây sức ép bắt các nhà xuất khẩu Việt Nam phải thay đổi tem dán để phân biệt các của Việt Nam với cá của Mỹ.
  • Sau đó, CFA kiện Việt Nam đã phá giá cá tra, cá basa trên thị trường Mỹ.

Gạo của Việt Nam đã từng bị Columbia kiện vào năm 1994 với biên phá giá là 9,7% nhưng sau đó Columbia quyết định rằng Việt Nam đã không gây thiệt hại về vật chất với việc sản xuất gạo của Columbia nên không áp dụng thuế chống bán phá giá.

Việt Nam còn rất ít kinh nghiệm trong việc đương đầu với các vụ kiện phá giá và vận dụng cơ chế chống bán phá giá. Qua các vụ kiện phá giá chúng ta có cơ hội nhìn nhận rõ hơn thực trạng thương mại quốc tế hiện nay. EU đã bác bỏ vụ kiện DN Việt Nam bán phá giá bật lửa gas vào thị trường này với lý lẽ, DN Việt Nam hoạt động trong nền kinh tế thị trường. Trong khi đó, Hoa Kỳ lại kết luận Việt Nam có nền kinh tế phi thị trường. Việc xem xét Việt Nam là nền kinh tế thị trường hay phi thị trường hoàn toàn mang tính chính trị, không phụ thuộc vào yếu tố kỹ thuật, mặc dù phía Mỹ có đưa ra 5 yếu tố kỹ thuật để xem xét. Như vậy, kinh tế thị trường chỉ là cái cớ mà nguyên nhân sâu xa chính là giá bán. Với mức giá 1kg các basa khoảng 3USD thì các DN Hoa Kỳ cạnh tranh nổi, khi đó hình thức kiện phá giá được sử dụng nhiều nhất. Chủ nghĩa bảo hộ mậu dịch Hoa Kỳ đã phát triển đến một mức tinh vi với các nước có nền kinh tế phát triển, đôi khi lại trắng trợn theo lối đơn phương - áp đặt, nhất là với các nền kinh tế nhỏ bé. Cách tốt nhất là chúng ta không không để xảy ra kiện cáo bán phá giá. Thực tế chúng ta không bán phá giá nhưng không tìm hiểu xem đối tác của ta ở nước sở tại chi phí sản xuất như thế nào, bán gía bao nhiêu. Nếu chúng ta nghiên cứu kỹ, sẽ đưa được mức giá phù hợp, không gây mâu thuẫn về lợi ích với DN Hoa kỳ thì chắc chắn việc kiện cáo sẽ ít sảy ra. Mặt khác, ngay cả trong tình hình xuất khẩu thuận lợi, chúng ta cũng nên san sẻ sang các thị trường khác, bởi cứ gia tăng sản lượng xuất khẩu vào một thị trường sẽ bị DN nước sở tại phản ứng một cách tiêu cực.

Văn phòng Ngân sách Quốc hội Mỹ mới đây đã có báo cáo kết luận rằng luật chống bán phá giá trên thực tế đã gây tổn hao cho nền kinh tế Mỹ nhất là qua vụ kiện tôm được nhiều nước quan tâm hiện nay, John McQuaid công tác tại tờ “The Times picayune” đã tập hợp ý kiến của các nhà kinh tế nhằm chỉ ra những điểm phi lý trong luật chống bán phá giá của Mỹ.

“Bán phá giá” gợi lên hình ảnh Công ty nước ngoài theo đuổi chiến lược có chủ ý, có sự phân phối hợp nhằm cản trở DN trong nước bằng hàng NK giá rẻ tràn ngập thị trường. Đây chính là điệp khúc mà ngành côngnghiệp đánh bắt tôm ở Mỹ viện làm lý do khơi kiện. Ngư dân đánh bắt tôm ở Mỹ nói riêng họ bị áp đảo bởi xu hương hàng NK bán phá giá từ 6 nước nuôi tôm đang gia tăng, khiến mặt hàng tôm rơi giá. Liên minh tôm miền nam nước Mỹ (SSA), đại diện cho 8 bang trong đó Louisiana, đã đệ đơn theo luật chống phá giá, yêu cầu chính phủ Mỹ áp thuế đối với mặt hàng tôm NK và trợ giá sản phẩm của họ.

Trên thực tế, luật chống phá giá của Mỹ không đòi hỏi bằng chứng cho thấy các Công ty nước ngoài bị cáo buộc bán phá giá đang phối hợp hành động hay có ý định đẩy mặt hàng của họ tràn ngập thị trường Mỹ. Các nhà kinh tế nói rằng luật chống phá giá được soản thảo khái quát và nhiều trình tự cho luật nàylà thủ tục hoạt động tiêu chuẩn đổi mới các DN tại Mỹ và trên thế giới. Sự khác biệt giữa văn bản luật và thực tiễn là điều bình thường trong thế giới của chống phá mà những người đánh bắt tôm ở Mỹ bước vào.

Khi toàn cầu hoá gây ra làn sóng đổ vỡ xuyên suốt nền kinh tế Mỹ. Thương mại quốc tế đã trở thành vấn đề chính trị tại Lousiana, cũng như với nhiều bang khác phải chống chọi với nguy cơ mất việc làm do sự cạnh tranh từ nước ngoài. Luật chống phá giá mở ra phương thức giúp các ngành công nghiệp gặp khó khăn có được khoản trợ cấp kinh tế tạm thời. Luật này cũng được xem xét là một chiếc van an toàn về chính trị. Mặc dù các quyết định về chống phá giá có ảnh hưởng trên toàn thế giới, nhưng chúng lại được quyết định trong phạm vi một nhóm nhỏ, thiển cận ở Oashinhtơn. Những ý kiến chỉ trích nói rằng các vụ kiện bị chi phối bởi những quy định mà ít người bên ngoài có thể hiểu được và đầy rẫy những mâu thuẫn.

Những người đề xướng việc kiện tụng nói rằng luật chống phá giá có thể “làm cân bằng sân chơi” thương mại quốc tế, nơi làm các Công ty nước ngoài thường không chơi công bằng và cách chơi của họ đe dạo việc làm của Mỹ. Luật chống phá giá mà Quốc hội Mỹ ban hành được xem như một vũ khí tự vệ của các ngành công nghiệp. Mục tiêu của luật này là để cân bằng thương mại bất công. Khái niệm luật chống phá giá cũng tương tự như luật chống độc quyền, nó có tác dụng sắp xếp lại thị trường nhằm duy trì khả năng cạnh tranh và bảo vệ người tiêu dùng về lâu dài.

Nhiều ý kiến chỉ trích, trong đó có những người ủng hộ thương mại tự do và nhiều nhà kinh tế chủ đạo, đồng tình rằng thương mại toàn cầu thường không công bằng. Nhưng họ cũng nói rằng luật chống phá giá và các quy định của luật này, đặc biệt là những công thức phức tạp mà Chính phủ áp dụng để tính thuế, là mang tính độc đoán và gây trở ngại cho các Công ty đang hoạt động theo các nguyên tắc thông thường tại thị trường quốc tế. Họ nói rằng về cơ bản luật này là một hình thức bảo hộ và do đó nó là kẻ thù của thương mại tự do.

Vụ kiện chống phá giá tôm chỉ là một trong cả chục vụ kiện xẩy ra mỗi năm. Bên nguyên đơn cáo buộc sáu nước, Trung Quốc, Ecuađo, ấn Độ, Thái Lan và Việt Nam - đã xuất ồ ạt sản phẩm và thị trường Mỹ với giá thấp hơn giá thành sản xuất. Những người đánh bắt tôm ở Mỹ đòi hỏi chính phủ áp thuế tôm NK từ 25,76% (mức thấp nhất đối với Việt Nam) đến 349% (mức cao nhất đối với Braxin). Chính phủ Mỹ đã sử dụng hệ thống hai cấp, phức tạp để phân tích vụ kiện bán phá giá. Bộ Thương mại Mỹ (DOC) có quyền quyết định liệu vấn đề bán phá giá có xảy ra trên thực tế hay không và mức thuế nào sẽ được áp đặt. Uỷ ban Thương mại quôc tế Mỹ (USITC) là cơ quan đưa ra phán quyết cuối cùng, quyết định xem liệu DN Mỹ - trong vụ kiện này là các DN tôm có bị “thiệt hại vật chất” do hàng NK hay không. Cho tới nay của DOC và USITC đều có những phán quyết sơ bộ ủng hộ người đánh bắt tôm ở Mỹ. Theo luật hiện nay, khoản tiền thuế sẽ được dành để trợ cấp cho ngành công nghiệp tôm nội địa.

Nhìn chung, Chính phủ Mỹ thường có xu hướng đứng về phía các ngành công nghiệp Mỹ. Theo nhà kinh tế Bruce Blonigen của Đại học tổng hợp bang Oregon, một chuyên gia nghiên cứu lĩnh vực chống phá giá, có tới 80% vụ kiện có kết luận là xảy ra tình trạng bán phá giá, khoảng 60% vụ kiện kết luận rằng các DN nội địa bị ảnh hưởng bởi hàng NK. Thomas Prusa, nhà kinh tế của Đại học tổng hợp Rutgers chuyên nghiên cứu về các vụ kiện thương mại và chống phá giá nói: “DOC gần như không bao giờ kết luận là không xảy ra tình trạng bán phá giá”.

Các nhà kinh tế còn nhiều quan tâm đến khác biệt về mục tiêu chính sách cơ bản của luật chống phá giá. Một số coi luật này là phương thức nuôi dưỡng chủ nghĩa bảo hộ. Một số khác bảo vệ khái niệm này như một công cụ giữ gìn việc làm và giúp giảm bớt tại hoạ của kinh tế toàn cầu. Clyde Prestowitz, Chủ tịch Viện chiến lược kinh tế, một nhóm nghiên cứu thiên tả có trụ sở tại Oasinhtơn, nói: “Khái niệm chống phá giá là hoàn toàn hợp pháp và đã được đưa vào các quy định của tổ chức Thương mại thế giới (WTO) bởi đây là công cụ để đối phó với một số vấn đề thực tế”. Nhưng nhiều nhà kinh tế nói rằng cách thức mà DOC phân xử vụ kiện tôm đã bị “bóp méo” nhằm chống lại các Công ty nước ngoài và thiên vị các ngư dân đánh bắt tôm ở Mỹ.

Theo các nhà kinh tế, yếu tố gây tranh cãi nhất về luật chống phá giá là cách thức DOC tính thuế chống phá giá. Các nhà kinh tế của DOC sẽ xem xét sự khác biệt giữa giá của sản phẩm NK với giá trị thị trường hợp lý. Nếu giá NK thấp hơn, có nghĩa là các Công ty nước ngoài đang bán sản phẩm vào Mỹ với giá quá rẻ, như vậy xuất hiện hiện tượng bán phá giá. Tuy nhiên, theo Michael Moore và một số nhà kinh tế khác, khó khăn chính ở đây là làm sao so sánh giá NK thực tế với “giá thị trường hợp lý” giả thuyết, ở một số trường hợp việc so sánh như vậy gần như là điều không thể, bởi hầu như chẳng ai biết rõ “giá thị trường hợp lý” Tuỳ thuộc vào tình huống vụ kiện chính phủ Mỹ xác định giá thị trường hợp lý theo những phương thức khác nhau. Trong trường hợp đơn giản nhất, Chính phủ Mỹ so sánh giá tại nước XK với giá tại Mỹ. Nhưng trong hầu hết các vụ kiện chống phá giá, phương thức xác định không đơn giản như vậy: Trong số sáu nước bị kiện, SSA nói rằng chỉ duy nhất Braxin có thị trường nội địa đáng kể về mặt hàng tôm, các nước khác hoặc không có thị trường lớn về mặt hàng này hoặc là những nước bị quy vào diện không có nền kinh tế thị trường. Trong những trường hợp như vậy, DOC có khả nhiều lựa chọn phụ, lập danh sách giá tôm tại một nước thứ ba mà DOC cho rằng có thể so sánh với nước XK. DOC cũng quyết định xem xét liệu các Công ty nước ngoài có bán tôm dưới mức chi phí sản xuất, cộng thêm tỷ lệ lợi tức được quy định. Đây là lý lẽ được viện dẫn chống lại tôm NK từ Việt Nam và Trung Quốc. Chính phủ Mỹ sẽ tiến hành điều tra và thu thập số liệu theo cách điều tra và thu thập số liệu theo cách của mình, như lý lẽ mà các luật của nguyên đơn đưa ra không phải là lý lẽ cuối cùng. Nhưng lý lẽ này những phần nào cho thấy cách thức tiến hành vụ kiện.

Để đưa ra lý lẽ rằng các Công ty Trung Quốc bán phá giá tôm tại Mỹ, các luật sư của nguyên đơn đã đặt ra một mô hình kinh tế phức tạp để xác định chi phí sản xuất tôm tại Trung Nam. Nhưng Trung Quốc và Việt Nam bị xếp vào diện các nước không có nền kinh tế thị trường, do vậy họ nói rằng số liệu cơ bản, xác thực về chi phí sản xuất có thể có là không có hiệu lực. Thay vào đó, các luật sư nguyên đơn lấy mức giá và chi phí tại Mỹ và ấn Độ làm thị trường phụ để xác định số liệu. Đối với trường hợp Trung Quốc các luật sư khảo sát các nhà chế biến tôm ở Mỹ nhằm tính toán các hạng mục để có thê chế biến được 1 pao (0,454kg) tôm đông lạnh, như điện nước, vật liệu đóng gói... Tiếp đến họ nghiên cứu nền kinh tế ấn Độ để xác định chi phí của các mục này. Sau đó họ kết hợp hải kết quả này để đưa mức chi phí sản xuất. Cuối cùng, họ ước tính tỷ lệ lãi đối với mặt hàng của Trung Quốc. Kết quả của cách tính toán này đưa ra “giá sản xuất” đối với tôm loại to của Trung Quốc là 10,6 USD/ pao - cao hơn 7,72 USD so với mức giá tôm Trung Quốc nhập vào Mỹ theo số liệu của Cơ quan Hải quan Mỹ và mức chệnh lệch này được chuyển thành mức thuế chống phá giá được đề nghị là 263,68% (mức cao nhất được dự kiến đối với tôm của Trung Quốc”. Các nhà kinh tế nói rằng cách tính toán như vậy bộc lộ đầy rẫy những bất cập, chỉ nói đơn giản ngay ở việc so sánh giá tại các nước khác nhau. Michael Moore thắc mắc. “Ai dám khẳng định đó đã phải là giá hợp lý chưa? Việc cho rằng giá viện chuyển tại ấn Độ hay Trung Quốc cũng đều giống nhau là điều hết sức phi lý”.

Các nhà kinh tế nói rằng một vấn đề đáng nói nữa là việc Chính phủ Mỹ gộp tất cả các Công ty và các nước cùng vào một vụ kiện chung, dù là các Công ty khác nhau bán sản phẩm với mức giá khác nhau, sản phẩm của nước này có thể có cơ cấu giá khác hẳng so với sản phẩm của nước khác, hoặc thậm chí là một sản phẩm khác hẳn. Trong vụ kiện tôm, ấn Độ đang đưa ra lý lẽ rằng tôm SK của họ là hoàn toàn khác và không thể đem ra so sánh với tôm của Mỹ.

Trên thế giới, từ năm 1995 - 2002, các nước và vùng lãnh thổ bị điều tra bán phá giá nhiều nhất trong thương mại quốc tế là Trung Quốc: 308 vụ, Hàn Quốc: 160 vụ, Mỹ: 115 vụ, Đài Loan: 109 vụ, In- đô- nê - xi - a: 91 vụ... Như vậy, so với các nước khác thì số vụ mà các doanh nghiệp Việt Nam bị điều tra còn là con số rất nhỏ. Mặc dù Việt Nam đã bị kiến phá giá từ cách đây 10 năm song chúng ta đã không có một kế hoạch cụ thể để đương đầu với các vấn đề về giá cả và chống bán phá giá.

Khi vụ kiện cá tra, cá basa tạo được sự chú ý của dư luận và các doanh nghiệp thủy sản Việt Nam cũng như những người nông dân Việt Nam phải gánh chịu phần thua, lúc này các Bộ Ngành và các Hiệp hội liên quan mới thực sự lo ngại về khả năng Việt Nam bị kiện phá giá ở những mặt hàng khác.

Việt Nam không thể tránh khỏi việc tiếp tục bị kiện phá giá. Lý do có thể nêu ra như chống bán phá giá được sử dụng như một công cụ bảo hộ mới, Việt Nam có điều kiện để xuất khẩu những mặt hàng giá rẻ và Việt Nam bị cho là một nền kinh tế phi thị trường.

Những hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam thông thường có lợi thế cạnh tranh do giá nhân công rẻ dẫn đến giá thành thấp so với các quốc gia khác và xu thế ngày càng nhiều của hàng hoá Việt Nam thâm nhập vào thị trường quốc tế chắc rằng các cuộc điều tra chống phá giá đối với các doanh nghiệp Việt Nam sẽ không dừng lại ở đó và một khi đã bị áp đặt thuế chống bán phá giá thì khả năng xuất khẩu mặt hàng đó sẽ bị giảm đi rất nhiều. Vì thế, vấn đề đặt ra cho các doanh nghiệp và các nhà quản lý của Việt Nam là làm thế nào để có thể hạn chế được những tác động bất lợi để “đồng hành” cùng các công cụ chống bán phá giá.

0